Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng – lý luận và thực tiễn .

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (776.42 KB, 121 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT TƯ PHÁP

—˜×Ø™–

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2009 - 2013
ĐỀ TÀI:

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO
VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG
– LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .

Giảng viên hướng dẫn:
Th.s TĂNG THANH PHƯƠNG

Sinh viên thực hiện:
TRẦN KHÁNH HỶ
Mã số sinh viên: 5095426.
Lớp: Tư pháp 3 - K35
LK 0965A3

Cần Thơ, tháng 05 năm 2013


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG BẢO VỆ LUẬN VĂN
@&?


…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
GVHD: Tăng Thanh Phương

2

SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

BẢNG KÊ TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS 2004
BLDS 2005
Luật BVQLNTD 2010
Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP

Nghị định 99/2011/NĐ-CP

GVHD: Tăng Thanh Phương

Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung
năm 2011).
Bộ luật Dân sự 2005.
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010.
Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng
07 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định
của Bộ luật Dân sự năm 2005 về Bồi thường thiệt

hại ngoài hợp đồng.
Nghị định số 99/2011/NĐ-CP ngày ngày 27 tháng
10 năm 2011của Chính phủ về việc Quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010.

3

SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
1
1. Lý do nghiên cứu.
1
2. Mục tiêu nghiên cứu.
2
3. Phạm vi nghiên cứu.
2
4. Phương pháp nghiên cứu.
3
5. Kết quả nghiên cứu.
3
6. Bố cục đề tài.
3
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG

THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG.
4
1.1. Các vấn đề có liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
quyền lợi của người tiêu dùng.
4
1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng.
4
1.1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng trên thế giới.
4
1.1.1.2. Khái niệm người tiêu dùng theo quy định của pháp luật Việt Nam.
7
1.1.1.3. Đặc điểm của người tiêu dùng.
8
1.1.2. Khái niệm tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
10
1.1.3. Khái niệm sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ.
12
1.1.3.1. Khái niệm sản phẩm.
12
1.1.3.2. Khái niệm hàng hóa.
13
1.1.3.3. Khái niệm dịch vụ.
13
1.1.3.4. Khái niệm sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng.
14
1.1.3.5. Khái niệm hàng hóa có khuyết tật.
15
1.1.4. Khái niệm vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.
15
1.1.5. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người

tiêu dùng.
16
1.1.5.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
16
1.1.5.2. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng.
17
1.1.5.3. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi
của người tiêu dùng.
17
1.2. Các nguyên tắc trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền
lợi của người tiêu dùng.
21
1.2.1. Bồi thường toàn bộ cho những thiệt hại của người tiêu dùng.
21
GVHD: Tăng Thanh Phương

4

SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

1.2.2. Bồi thường kịp thời cho những thiệt hại của người tiêu dùng.
21
1.2.3. Các bên có thể thỏa thuận trong việc bồi thường thiệt hại.
23
1.3. Các quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại

do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng từ năm 1986 đến nay.
24
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1986 đến khi Bộ luật Dân sự 1995 ra đời.
24
1.3.2. Giai đoạn từ khi có Bộ luật Dân sự 1995 đến trước khi có Bộ luật Dân
sự 2005.
26
1.3.3. Giai đoạn từ khi có Bộ luật Dân sự 2005 đến nay.
26
1.4. Tầm quan trọng của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền
lợi người tiêu dùng.
27
1.4.1. Bảo vệ kịp thời và đầy đủ quyền, lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. 27
1.4.2. Góp phần hạn chế tình trạng vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng.
28
1.4.3. Nâng cao ý thức trách nhiệm của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ.
28
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA QUY ĐỊNH TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG. 30
2.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi
của người tiêu dùng.
30
2.1.1. Có thiệt hại cho người tiêu dùng.
30
2.1.2. Hành vi xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng là hành vi trái pháp
luật.
32
2.1.3. Hành vi gây thiệt hại của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh có lỗi 33
2.1.3.1. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh

doanh hàng hóa, dịch vụ có lỗi.
33
2.1.3.2. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh không có lỗi.
35
2.1.4. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân
sản xuất kinh doanh và hậu quả thiệt hại của người tiêu dùng.
36
2.2.Chủ thể có trách nhiệm bồi thường cho người tiêu dùng.
37
2.2.1. Tổ chức, cá nhân sản xuất hàng hóa.
38
2.2.2. Tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa.
39
2.2.3. Tổ chức, cá nhân gắn tên thương mại lên hàng hóa hoặc sử dụng nhãn
hiệu, chỉ dẫn thương mại cho phép nhận biết đó là tổ chức, cá nhân sản xuất,
nhập khẩu hàng hóa.
40

GVHD: Tăng Thanh Phương

5

SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

2.2.4. Tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp hàng hóa cho người tiêu dùng.

40
2.2.5. Cá nhân, tổ chức cung ứng dịch vụ.
42
2.3. Xác định thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.
43
2.3.1. Thiệt hại đối với tài sản của người tiêu dùng.
43
2.3.1.1. Thiệt hại về giá trị tài sản, hàng hóa của người tiêu dùng.
44
2.3.1.2. Thiệt hại phát sinh do không thể khai thác công dụng của hàng hóa. 45
2.3.1.3. Thiệt hại phát sinh do phải thực hiện các biện pháp ngăn chặn, sửa
chữa, khắc phục hàng hóa.
45
2.3.2. Thiệt hại đối với sức khỏe của người tiêu dùng.
46
2.3.2.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và
chức năng bị mất, bị giảm sút của người tiêu dùng.
47
2.3.2.2. Bồi thường thu nhập thực tế cho người tiêu dùng.
47
2.3.2.3. Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian
điều trị.
48
2.3.2.4. Khoản tiền bù đắp tổn thất tinh thần cho người tiêu dùng.
49
2.3.3. Thiệt hại đối với tính mạng của người tiêu dùng.
50
2.3.3.1. Chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng cho người bị thiệt hại trước khi
chết.
50

2.3.3.2. Chi phí hợp lý cho việc mai táng.
51
2.3.3.3. Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người tiêu dùng có nghĩa
vụ cấp dưỡng.
52
2.3.3.4. Khoản tiền bù đắp tinh thần.
53
2.4. Các trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại và không phải bồi
thường thiệt hại cho người tiêu dùng.
54
2.4.1. Trường hợp miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi
người tiêu dùng.
54
2.4.2. Các trường hợp không phải bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi
người tiêu dùng.
56
2.5. Các biện pháp giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền
lợi người tiêu dùng .
58
2.5.1. Biện pháp thương lượng.
58
2.5.2. Biện pháp hòa giải.
59
2.5.3. Biện pháp Trọng tài.
61

GVHD: Tăng Thanh Phương

6


SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

2.5.3.1. Khái quát chung về giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại bằng biện
pháp Trọng tài.
61
2.5.3.2. Thủ tục giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.
63
2.5.3.3. Giá trị pháp lý của phán quyết của Trọng tài.
64
2.5.4. Biện pháp khởi kiện tại Tòa án.
65
2.5.4.1. Quyền khởi kiện của người tiêu dùng khi có thiệt hại xảy ra.
65
2.5.4.2. Thủ tục tố tụng trong vụ án dân sự về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng.
65
2.5.4.3. Nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân sự về bồi thường thiệt hại do vi
phạm quyền lợi của người tiêu dùng.
66
2.5.4.4. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi
người tiêu dùng.
67
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG VÀ
HƯỚNG HOÀN THIỆN.
69

3.1. Khái quát chung về thực trạng bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt
Nam hiện nay.
69
3.1.1. Những hiệu quả của quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng đã mang lại trên thực tế.
69
3.1.2. Thực trạng vi phạm quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam hiện nay.
73
3.2. Những bất cập và hướng hoàn thiện đối với quy định chứng minh thiệt
hại của người tiêu dùng.
74
3.2.1. Những bất cập trong quy định cung cấp bằng chứng của giao dịch và
hướng hoàn thiện.
74
3.2.1.1. Những khó khăn khi cung cấp bằng chứng của giao dịch.
74
3.2.1.2. Hướng hoàn thiện quy định cung cấp bằng chứng của giao dịch.
79
3.2.2. Những bất cập và hướng hoàn thiện trong việc chứng minh thiệt hại của
người tiêu dùng.
80
3.2.2.1. Những bất cập trong việc chứng minh thiệt hại của người tiêu dùng. 80
3.2.2.2. Hướng hoàn thiện quy định chứng minh thiệt hại của người tiêu dùng.84
3.3. Bất cập trong việc xác định chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
cho người tiêu dùng khi có hành vi vi phạm của nhiều người gây ra và hướng
hoàn thiện.
85

GVHD: Tăng Thanh Phương


7

SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

3.3.1. Bất cập trong việc xác định chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
cho người tiêu dùng khi có hành vi vi phạm của nhiều người gây ra.
86
3.3.2. Hướng hoàn thiện quy định xác định chủ thể có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại cho người tiêu dùng khi có hành vi vi phạm của nhiều người gây ra. 88
3.4. Những bất cập và hướng hoàn thiện đối với quy định miễn trách nhiệm
bồi thiệt hại trong trường hợp hàng hóa có khuyết tật.
89
3.4.1. Những bất cập trong việc chứng minh hàng hóa có khuyết tật.
89
3.4.2. Hướng hoàn thiện quy định chứng minh hàng hóa có khuyết tật.
92
3.5. Những bất cập và giải pháp hoàn thiện quy định việc xác định thiệt hại
cho người tiêu dùng.
94
3.5.1. Những bất cập trong xác định thiệt hại cho người tiêu dùng.
94
3.5.2. Hướng hoàn thiện khi xác định thiệt hại cho người tiêu dùng.
95
3.6. Những bất cập và hướng hoàn thiện đối với các biện pháp giải quyết yêu
cầu bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.
97

3.6.1. Bất cập và hướng hoàn thiện đối với biện pháp thương lượng.
97
3.6.1.1. Những bất cập khi thực hiện biện pháp thương lượng.
97
3.6.1.2. Hướng hoàn thiện biện pháp thương lượng khi giải quyết tranh chấp. 99
3.6.2. Bất cập và hướng hoàn thiện quy định giải quyết tranh chấp bằng biện
pháp khởi kiện tại Tòa án.
102
3.6.2.1. Những bất cập khi áp dụng biện pháp khởi kiện tại Tòa án.
102
3.6.2.2. Hướng hoàn thiện biện pháp khởi kiện tại Tòa án.
105
KẾT LUẬN
109
TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: Tăng Thanh Phương

8

SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu.
Kể từ khi Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam quyết định thực hiện công
cuộc đổi mới nền kinh tế đã có những bước phát triển to lớn và từng bước nâng cao

chất lượng cuộc sống của nhân dân. Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam được thể
hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó rõ nét nhất là sự đa dạng các chủ thể tham
gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh và đã tạo ra một khối lượng lớn các loại hàng
hóa, dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của người tiêu dùng. Đó là một thuận lợi cho người
tiêu dùng khi có cơ hội lựa chọn và sử dụng các loại hàng hóa, dịch vụ đáp ứng cho
nhu cầu của bản thân và gia đình. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi đó thì người
tiêu dùng cũng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong quá trình sử dụng các loại
hàng hóa, dịch vụ. Sự đa dạng về hàng hóa, dịch vụ buộc người tiêu dùng phải trang bị
cho mình những kiến thức tiêu dùng nhất định và cần có sự lựa chọn, thẩm định phù
hợp khi giao dịch với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh. Điều này không phải bất
cứ người tiêu dùng nào cũng có thể làm được, do vậy không thể tránh khỏi trường hợp
các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh vì chạy theo lợi nhuận mà có những hành vi
vi phạm đến quyền lợi của người tiêu dùng. Từ đó cần phải có hệ thống các quy định
về bảo vệ người tiêu dùng nói chung và quyền được bồi thường thiệt hại của người
tiêu dùng nếu có thiệt hại xảy ra, đây là hai nhu cầu cần thiết trong mối quan hệ tiêu
dùng của một nền kinh tế.
Hiện nay, tình trạng các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh vi phạm các quyền
lợi của người tiêu dùng tại Việt Nam đang diễn ra hết sức phức tạp và tinh vi. Điển
hình như tình trạng mất an toàn vệ sinh thực phẩm dẫn đến những trường hợp ngộ độc;
tình trạng cung cấp các loại hàng giả, hàng hóa không bảo đảm chất lượng, hàng hóa
có chứa các hóa chất, thành phần độc hại một cách tràn lan trên thị trường; hay sự gian
dối của của các tổ chức, các nhân kinh doanh khi giao dịch với người tiêu dùng; ngoài
ra còn nhiều hành vi vi phạm khác đang diễn ra. Tất cả những hành vi vi phạm đó đã
và đang làm ảnh hưởng và gây ra những thiệt hại to lớn đến tài sản, sức khỏe và tính
mạng cho hàng triệu người tiêu dùng Việt Nam.
Ý thức được những tác động tiêu cực của hành vi vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng. Pháp luật đã có những quy định cần thiết nhằm bảo vệ người tiêu dùng
trong những trường hợp lợi ích của người tiêu dùng bị xâm phạm và phát sinh thiệt
hại. Theo quy định hiện tại, trong trường hợp có phát sinh thiệt hại từ việc sử dụng
hàng hóa, dịch vụ, người tiêu dùng có quyền yêu cầu những tổ chức, cá nhân sản xuất,

kinh doanh có hành vi vi phạm phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho mình. Việc
GVHD: Tăng Thanh Phương

Trang 1

SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

bồi thường thiệt hại được thực hiện theo các quy định pháp luật. Tuy nhiên, quy định
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng hiện nay
đang có những vướng mắc trong quá trình áp dụng thực hiện. Vì vậy, quyền lợi của
người tiêu dùng vẫn chưa có được sự bảo vệ đầy đủ trong những trường hợp có thiệt
hại xảy ra, người tiêu dùng vẫn đang phải gánh chịu nhiều thiệt hại nhưng chưa được
đền bù thỏa đáng.
Từ đó, việc nghiên cứu vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi quyền lợi
của người tiêu dùng không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có những ý nghĩa rất
lớn đến đời sống xã hội. Vì vậy, người viết lựa chọn đề tài “Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng – Lý luận và thực tiễn” với
mong muốn góp phần bảo vệ được các quyền lợi của người tiêu dùng nói chung và đặc
biệt là bảo vệ quyền được bồi thường thiệt hại của người tiêu dùng nói riêng khi có
thiệt hại xảy ra.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Trong đề tài này người viết mong muốn làm rõ các nội dung về lý luận chung
của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bao gồm khái niệm người tiêu
dùng, khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu
dùng và các nguyên tắc của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng. Bên cạnh đó người viết sẽ tìm hiểu các quy định của pháp luật về

trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng khi có thiệt hại xảy ra và người
viết sẽ phân tích những điểm bất cập của quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng khi áp dụng vào thực tiễn. Từ đó người viết
đưa ra những đề xuất cần thiết nhằm hoàn thiện quy định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Trong phạm vi của đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền
lợi của người tiêu dùng – Lý luận và thực tiễn” người viết tập trung phân tích và làm
rõ các nội dung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng dựa trên nền tảng lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của pháp luật
dân sự và kết hợp với các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Trong đó người viết tập trung phân tích quyền được bồi thường của người tiêu dùng
khi có thiệt hại xảy ra; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của các tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; căn cứ phát sinh và xác định thiệt hại và các biện pháp
GVHD: Tăng Thanh Phương

Trang 2

SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng theo các quy định của Bộ
luật dân sự 2005 cùng với những văn bản hướng dẫn thi hành, cụ thể là Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 07 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về Bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng và các quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng 2010; Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007. Ngoài ra, người viết cũng phân

tích những bất cập, vướng mắc đang tồn tại trên thực tế của quy định này kể từ khi
được ban hành đến thời điểm hiện tại.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
quyền lợi của người tiêu dùng – Lý luận và thực tiễn áp dụng” người viết đã dùng các
phương pháp nghiên cứu lý luận; phương pháp phân tích luật viết từ trong quy định
của pháp luật; phương pháp so sánh và đối chiếu giữa các quy định pháp luật có liên
quan với nhau; ngoài ra người viết còn kết hợp sử dụng phương pháp sưu tầm số liệu
và tổng hợp, đánh giá, phân tích các ví dụ thực tế có liên quan đến nội dung của đề tài.
5. Kết quả nghiên cứu.
Về mặt lý luận, đề tài nghiên cứu đã hệ thống các nội dung có tính lý luận về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng. Về mặt
thực tiễn, đề tài khi được áp dụng thực hiện sẽ có những đóng góp nhất định cho công
tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung và bảo vệ các quyền và lợi ích chính
đáng của người tiêu dùng khi có thiệt hại xảy ra trong quá trình sử dụng hàng hóa, dịch
vụ do hành vi vi phạm của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh.
6. Bố cục đề tài.
Đề tài được người viết nghiên cứu và bố trí thành ba chương, trong đó:
Chương 1. Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
quyền lợi của người tiêu dùng.
Chương 2. Cơ sở pháp lý của quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm quyền lợi của người tiêu dùng.
Chương 3. Thực tiễn áp dụng các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng và hướng hoàn thiện.

GVHD: Tăng Thanh Phương

Trang 3

SVTH: Trần Khánh Hỷ



TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

CHƯƠNG 1.
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG.
Chương 1 chủ yếu tập trung làm rõ các vấn đề lý luận của trách nhiệm bồi
thương thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, trong đó người viết trình bày
các khái niệm có liên quan, đặc điểm và nguyên tắc của trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng. Bên cạnh đó Chương 1 cũng khái quát quá
trình hình thành và phát triển của quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm quyền lợi của người tiêu dùng trong hệ thống pháp luật Việt Nam và tầm quan
trọng của quy định này đối với việc bảo vệ người tiêu dùng.
1.1. Các vấn đề có liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm quyền lợi của người tiêu dùng.
1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng.
Khi nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng thì nhất thiết phải đề cập đến khái niệm “người tiêu dùng”. Người tiêu
dùng là một trong hai chủ thể chủ yếu xuất hiện trong quan hệ trách nhiệm dân sự này.
Sau khi đã làm rõ được khái niệm cũng như những đặc điểm của người tiêu dùng sẽ
tạo ra sự thuận lợi cho việc tìm hiểu, nghiên cứu về quy định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.
1.1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng trên thế giới.
Người tiêu dùng là một chủ thể đã xuất hiện từ khi nền kinh tế hàng hóa thị
trường ra đời và là một chủ thể không thể thiếu trong nền kinh tế đó. Mặc dù xuất hiện
từ rất lâu nhưng khái niệm người tiêu dùng được hiểu theo nghĩa pháp lý chỉ được ghi
nhận vào khoảng những năm 1960 đến nay. Các tổ chức, hiệp hội về người tiêu dùng
quốc tế và pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng của các quốc gia có những định nghĩa

khác nhau về người tiêu dùng.
* Theo Hướng dẫn về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Tổ chức quốc tế
người tiêu dùng (Consumers International-CI) của Liên Hợp quốc ban hành vào năm
1985 và được hiệu chỉnh vào năm 1999 thì người tiêu dùng có tám quyền năng mà các
chủ thể khác không có, bao gồm: Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản; quyền
được an toàn; quyền được thông tin; quyền được lựa chọn; quyền được lắng nghe;
quyền được khiếu nại và bồi thường; quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng và

GVHD: Tăng Thanh Phương

Trang 4

SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

cuối cùng là quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững1. Xem xét tổng
thể nội dung của tám quyền này, có thể thấy rằng chủ thể có đầy đủ tư cách để hưởng
tám quyền này chỉ có thể là cá nhân và những quyền năng này không thể trao cho chủ
thể là tổ chức. Điều này có nghĩa rằng, trong quan niệm của Bản hướng dẫn vừa nêu,
người tiêu dùng chỉ được hiểu là cá nhân người tiêu dùng.
* Theo Điều 2 chỉ thị số 93/13/EEC năm 1993 về các điều khoản giao dịch không
công bằng của Hội Đồng Châu Âu quy định: “người tiêu dùng được xác định là con
người tự nhiên, xác lập các hợp đồng theo chỉ thị này, cho các mục đích không phải
thương mại, nghề nghiệp”2. Quy định này cũng đã được khẳng định lại trong nhiều
Luật bảo vệ người tiêu dùng của các thành viên EU và cũng được nhiều quốc gia ngoài
EU sử dụng.
* Theo pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng của Hoa Kỳ. Các quy định về bảo

vệ người tiêu dùng ở Hoa Kỳ nằm cả trong pháp luật của liên bang và pháp luật của
các bang. Tuy không có một đạo luật chung thống nhất về bảo vệ người tiêu dùng mà
trong đó khái niệm người tiêu dùng được giải thích rõ ràng, nhưng theo các chuyên gia
pháp luật của Hoa Kỳ, khái niệm người tiêu dùng chỉ được quan niệm là cá nhân người
tiêu dùng. Cụ thể, “người tiêu dùng là cá nhân tham gia giao dịch với mục đích chủ
yếu vì nhu cầu cá nhân hoặc sinh hoạt hộ gia đình”3.
* Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1993 của Trung Quốc tuy không có
điều khoản riêng giải thích khái niệm người tiêu dùng nhưng tại Điều 2 của Luật này
có quy định: “Trường hợp người tiêu dùng, vì nhu cầu cuộc sống, mua, sử dụng hàng
hóa, dịch vụ thì các quyền và lợi ích hợp pháp của mình sẽ được bảo vệ theo quy định
của Luật này và trường hợp Luật này không quy định thì sẽ được bảo vệ theo các quy
định khác có liên quan của pháp luật”4.
* Theo pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của Cộng hòa Liên bang Đức. Khái
niệm người tiêu dùng đã được giải thích rõ trong Bộ luật dân sự năm 2002 của Đức
tại Điều 13 như sau: “Người tiêu dùng là bất cứ tự nhiên nhân (cá nhân) nào tham gia
giao dịch không thuộc phạm vi hoạt động kinh doanh, thương mại hoặc nghề nghiệp

1

Hướng dẫn về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Tổ chức quốc tế người tiêu dùng 1985 (hiệu chỉnh năm
1999).
2 Phan Thị Vân Anh – Nguyễn Văn Cương: Giáo trình Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2012, tr. 24.
3 Nguyễn Văn Cương: Quan niệm về người tiêu dùng trong pháp luật của các quốc gia trên thế giới và vấn đề
xây dựng khái niệm người tiêu dùng trong dự thảo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
http//:www.duthaoonline.quochoi.vn/.../Quan_niem_ve_Nguoi_tieu_dung.22.10 [truy cập ngày 12-12-2012]
4 Nguyễn Văn Cương: Quan niệm về người tiêu dùng trong pháp luật của các quốc gia trên thế giới và
vấn đề xây dựng khái niệm người tiêu dùng trong dự thảo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. http/
/:www.duthaoonline.quochoi.vn/.../Quan_niem_ve_Nguoi_tieu_dung.22.10 [truy cập ngày 12-12-2012]


GVHD: Tăng Thanh Phương

Trang 5

SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

của người này”5.
Với một số dẫn chứng vừa nêu có thể thấy rằng, rất nhiều quốc gia trên thế giới
công nhận rằng người tiêu dùng là một cá nhân, không bao gồm tổ chức, thực hiện
hành vi tiêu dùng vì mục đích phục vụ cho nhu cầu thiết yếu cuộc sống của cá nhân
hoặc cho gia đình và không vì mục đích kinh doanh, thương mại hay nghề nghiệp. Đây
cũng là quan điểm được rất nhiều quốc gia trên thế giới ủng hộ và áp dụng.
Bên cạnh những quan điểm chủ đạo thì cũng có một số quốc gia định nghĩa khác
về người tiêu dùng trong đó cho phép người tiêu dùng là tổ chức. Đại diện cho các
quốc gia này bao gồm: Ấn Độ, Ôxtrâylia (trong những trường hợp nhất định)…
- Theo Luật Bảo vệ người tiêu dùng 1986 của Ấn Độ có một số quy định như sau
(Điều 2(1d) và 2(1m)): “Người tiêu dùng là bất cứ người nào mua… hàng hóa… mà
không có mục đích để bán lại hoặc vì mục đích thương mại khác”6. Luật của Ấn Độ
dùng từ “bất cứ người nào”, như vậy có thể hiểu người tiêu dùng có thể bao gồm cá
nhân và tổ chức.
- Theo Luật Thực hành thương mại của Ôxtrâylia năm 1974 (Trade Practice Act
1974) về các giao dịch hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ hơn 40 nghìn đôla Ôxtrâylia
thì người mua cũng được đối xử như là người tiêu dùng trong chế độ bảo hành kể cả
khi người mua là tổ chức. Trong trường hợp giá trị giao dịch lớn hơn 40 nghìn đôla
Ôxtrâylia, để được xem là một “người tiêu dùng”, người mua phải chứng minh mục
đích sử dụng là tiêu dùng của mình7.

Như vậy, có thể tóm lại rằng khái niệm người tiêu dùng ở các quốc gia trên thế
giới có thể chỉ là một cá nhân nhất định hoặc cũng có thể là bao gồm cả cá nhân và tổ
chức. Tuy nhiên, giữa nhóm người tiêu dùng là một cá nhân và nhóm người tiêu dùng
là tổ chức lại có điểm khác biệt rất lớn. Sự khác nhau này ở chỗ: Mục đích tiêu dùng
của hai nhóm đối tượng này hoàn toàn khác nhau. Nếu như nhóm người tiêu dùng là
cá nhân thì mục đích duy nhất là phục vụ cho nhu cầu của bản thân người tiêu dùng
hoặc cho những người thân trong gia đình sử dụng, tức là họ không bán lại hàng hóa
đó vì mục đích kiếm lời hay để phục vụ cho quá trình hoạt động nghề nghiệp nào khác.
Ngược lại, nhóm người tiêu dùng là tổ chức thì họ không chỉ phục vụ cho nhu cầu của
họ mà còn nhằm mục đích phục vụ cho những hoạt động chức năng, nghề nghiệp của
5

Nguyễn Văn Cương: Quan niệm về người tiêu dùng trong pháp luật của các quốc gia trên thế giới và
vấn đề xây dựng khái niệm người tiêu dùng trong dự thảo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. http/
/:www.duthaoonline.quochoi.vn/.../Quan_niem_ve_Nguoi_tieu_dung.22.10 [truy cập ngày 12-12-2012]
6 Nguyễn Văn Cương: Quan niệm về người tiêu dùng trong pháp luật của các quốc gia trên thế giới và vấn đề
xây dựng khái niệm người tiêu dùng trong dự thảo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
http//:www.duthaoonline.quochoi.vn/.../Quan_niem_ve_Nguoi_tieu_dung.22.10 [truy cập ngày 12-12-2012].
7 Phan Thị Vân Anh – Nguyễn Văn Cương: Giáo trình Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.26.

GVHD: Tăng Thanh Phương

Trang 6

SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.


chính tổ chức đó.
1.1.1.2. Khái niệm người tiêu dùng theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Đối với Việt Nam, có nhiều ý kiến khác nhau định nghĩa về khái niệm người tiêu
dùng bao gồm những khái niệm được định nghĩa theo ý kiến của các nhà nghiên cứu
và cả những định nghĩa như là một khái niệm pháp lý quy định trong pháp luật.
* Theo định nghĩa của Giáo trình Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2012:
“Người tiêu dùng là một khái niệm để chỉ những chủ thể tiêu thụ của cải được tạo ra
bởi nền kinh tế. Người tiêu dùng là người mua nhưng khác với việc mua nguyên liệu
hoặc mua hàng để bán lại, họ là những người sử dụng hàng hóa, dịch vụ cuối cùng và
làm cho chúng tiêu hao hoặc biến mất thông qua việc sử dụng nó”8. Đây là một khái
niệm dựa trên lý thuyết của kinh tế học. Do đó có thể thấy khái niệm này chỉ ra rằng
người tiêu dùng là những người cuối cùng tham gia vào quá trình sản xuất và phân
phối hàng hóa, cung ứng dịch vụ của nền kinh tế và sự tiêu thụ hàng hóa chính là cái
đích được các nhà sản xuất nhắm đến. Người tiêu dùng ở đây có thể hiểu là một cá
nhân hoặc một tổ chức nào đó vì chủ thể tiêu thụ của cải có thể là bất cứ ai, bất cứ tổ
chức nào. Ngoài ra trong định nghĩa này cũng chỉ ra rằng mục đích của việc sử dụng
hàng hóa, dịch vụ là nhằm những mục đích tiêu dùng và hàng hóa, sản phẩm đó sẽ
không còn nữa sau khi sử dụng.
* Theo quy định của pháp luật Việt Nam, khái niệm người tiêu dùng lần đầu tiên
được ghi nhận một cách đầy đủ theo nghĩa pháp lý tại Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng 1999 (đã hết hiệu lực). Cụ thể tại Điều 1 Pháp lệnh này người tiêu
dùng được định nghĩa như sau: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hoá,
dịch vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân, gia đình và tổ chức”9. Theo quy
định tại khoản 2 Điều 2 của Nghị Định 69/2001/NĐ-CP ngày 02 tháng 10 năm 2001
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
(đã hết hiệu lực) thì người tiêu dùng được xác định cụ thể bao gồm những đối tượng:
“Người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt và nhu
cầu công việc của tổ chức, cá nhân, gia đình bao gồm:
a) Người mua và là người sử dụng hàng hóa, dịch vụ đã mua cho chính bản thân

mình;
b) Người mua hàng hóa, dịch vụ cho người khác, cho gia đình hoặc cho tổ chức
sử dụng;
8

Phan Thị Vân Anh – Nguyễn Văn Cương: Giáo trình Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2012, tr13.
9 Điều 1 Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 1999 (đã hết hiệu lực).

GVHD: Tăng Thanh Phương

Trang 7

SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

c) Cá nhân, gia đình, tổ chức sử dụng hàng hóa, dịch vụ do người khác mua hoặc
do cho, tặng”.
* Kế thừa những nội dung từ Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 1999,
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 (Luật BVQLNTD 2010) cũng quy
định lại rằng: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích
tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”10. Trong quy định này đã chỉ ra
rằng chủ thể người tiêu dùng là “người”, chữ “người” ở đây có thể hiểu là một cá nhân
hay một tổ chức; có thực hiện hành vi tiêu dùng: tức mua, sử dụng, hàng hoá, dịch vụ
và mục đích của hành vi tiêu dùng là để phục vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của
bản thân người này, của gia đình họ hoặc cho tổ chức sử dụng. Một lưu ý là “người”
này mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ phải gắn liền với mục đích tiêu dùng, sinh hoạt

của cá nhân, gia đình, tổ chức.
Trong khái niệm người tiêu dùng có những quan điểm khác nhau khi định nghĩa
khái niệm này, trong đó chủ yếu có hai quan điểm:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng người tiêu dùng chỉ là những cá nhân và nếu như
tại khoản 1 Điều 3 Luật BVQLNTD 2010 bao hàm cả tổ chức thì chỉ những con người
của tổ chức đó mới chính là người tiêu dùng thật sự theo khái niệm này.
- Quan điểm thứ hai ngược lại và cho rằng, khái niệm người tiêu dùng không chỉ
bao gồm những cá nhân mà còn có cả nhóm đối tượng là tổ chức. Quan điểm cho rằng
tổ chức cũng là “người tiêu dùng” xuất phát từ tính độc lập của tổ chức đó khi tham
gia vào các quan hệ mua bán tiêu dùng và trong đó mục đích của tổ chức là để tiêu
dùng, sử dụng những hàng hóa, dịch vụ này.
Xem xét khái niệm “người tiêu dùng” tại khoản 3 Luật BVQLNTD 2010 cho
thấy hiện nay khái niệm người tiêu dùng đang được hiểu theo quan điểm thứ hai, tức
pháp luật thừa nhận người tiêu dùng bao gồm những cá nhân và tổ chức.
Như vậy người tiêu dùng là những cá nhân và tổ chức mua, sử dụng các loại sản
phẩm, hàng hóa hoặc sử dụng một dịch vụ nào đó từ những tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh, cung cấp hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ trên thị trường để đáp ứng cho
mục đích tiêu dùng, nhu cầu sinh hoạt của bản thân mình, gia đình hoặc tổ chức và
không vì mục đích thương mại.

1.1.1.3. Đặc điểm của người tiêu dùng.
* Thứ nhất: Người tiêu dùng có thể bao gồm cả cá nhân và tổ chức.
10

Khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010.

GVHD: Tăng Thanh Phương

Trang 8


SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Việt Nam cũng giống như một
số quốc gia khác, cả cá nhân và tổ chức đều được xem là người tiêu dùng trong pháp
luật bảo vệ người tiêu dùng. Lý do của việc pháp luật cho xem cá nhân và tổ chức là
người tiêu dùng vì những lý do:
Đầu tiên do pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung và quy định
bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng nói riêng nhằm mục
đích hỗ trợ, bảo vệ cho những cá nhân yếu thế trong mối quan hệ với phía tổ chức, cá
nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Khi một cá nhân mua, sử dụng một hàng
hóa, dịch vụ thì gần như họ phải chấp nhận các điều kiện mà phía cung cấp đưa ra,
trong nhiều truờng hợp họ cũng không có điều kiện để đánh giá chất lượng trước khi
sử dụng hay có thể thương lượng trực tiếp với phía cung cấp nên cá nhân là chủ thể có
vị thế yếu trong quan hệ tiêu dùng. Do đó nhóm đối tượng là cá nhân được pháp luật
bảo vệ và xem là chủ thể chủ yếu cần được bảo vệ.
Riêng nhóm đối tượng là tổ chức cũng được pháp luật về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng xem là người tiêu dùng không phải vì tính yếu thế của tổ chức trong mối
quan hệ với những tổ chức, cá nhân sản xuất, cung cấp hàng hóa dịch vụ mà vì lý do
tổ chức sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng của họ, cho nên trong một
chừng mực nào đó thì tổ chức vẫn xứng đáng được xem là một “người tiêu dùng” như
nhóm đối tượng người tiêu dùng là cá nhân.
*Thứ hai: Người tiêu dùng chỉ sử dụng hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ cho nhu cầu
tiêu dùng, sinh hoạt của bản thân, gia đình, tổ chức.
Mục đích tiêu dùng sinh hoạt tức là mục đích nhằm đáp ứng cho những nhu cầu
về ăn, mặc, đi lại, sinh hoạt thường ngày hoặc những nhu cầu thiết yếu khác như chăm
sóc sức khỏe, chữa bệnh...và không phải vì mục đích kinh doanh hoặc các hoạt động

nghề nghiệp. Nhu cầu thiết yếu này cũng giống như nguồn năng lượng để duy trì sự
tồn tại, phát triển về thể chất và tinh thần của một cá nhân, tái tạo lại sức lao động của
cá nhân đó. Ngoài ra, sự tiêu dùng này sẽ làm cho hàng hóa, dịch vụ biến mất hoàn
toàn sau khi sử dụng chứ không chuyển từ dạng vật chất này sang một dạng vật chất
mới khác. Ví dụ: một người A mua bánh mỳ về để bản thân và những thành viên khác
trong gia đình sử dụng thì đây được xem là người tiêu dùng. Còn nếu A mua bánh mì
về phân phối lại hoặc chế biến lại bằng cách cho thêm các loại nguyên liệu và gia vị
để bán cho những người khác sử dụng thì trong trường hợp này A không được xem là
người tiêu dùng.
Đối với nhóm chủ thể người tiêu dùng là tổ chức thì mục đích tiêu dùng của họ
đôi khi rất khó xác định được chính xác. Thông thường khi tổ chức sử dụng một loại
GVHD: Tăng Thanh Phương

Trang 9

SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

hàng hóa, dịch vụ thì điều đó không chỉ đang phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng một cách
thông thường mà đôi lúc nó còn đang phục vụ cho những mục đích nghề nghiệp hoặc
là có thể đang phục vụ cho những hoạt động thương mại của họ. Ví dụ, công ty A ký
hợp đồng với công ty B về việc công ty B cung cấp các suất ăn trưa cho công nhân của
công ty A. Trong trường hợp này rất khó để khẳng định rằng việc công ty A sử dụng
các suất ăn trưa đó là vì mục đích tiêu dùng hay mục đích thương mại. Có hai quan
điểm đối nghịch với nhau trong việc xác định mục đích tiêu dùng trong trường hợp
này, quan điểm thứ nhất cho rằng chi phí ăn trưa cũng sẽ được tính vào các chi phí sản
xuất của công ty A nên đó là mục kinh doanh thương mại chứ không thể xem là mục

đích tiêu dùng. Quan điểm thứ hai cho rằng công ty A mua các suất ăn về để cho công
nhân của mình sử dụng tại chỗ, không có bán lại nên đây được xem là mục đích tiêu
dùng. Như vậy, một hành vi sử dụng hàng hóa, dịch vụ của tổ chức sẽ được xem là vì
mục đích tiêu dùng khi hành vi đó sẽ làm cho hàng hóa, dịch vụ biến mất hoàn toàn
sau khi sử dụng và nó phải không vì mục đích thương mại của tổ chức đó.
* Thứ ba: Có sự thiết lập giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân sản
xuất, kinh doanh.
Phải có một mối quan hệ giao dịch mua bán hoặc đồng ý sử dụng dịch vụ được
thiết lập giữa nhà cung cấp với người tiêu dùng. Mối quan hệ này có thể là mối quan
hệ trực tiếp hoặc mối quan hệ gián tiếp. Mối quan hệ trực tiếp là giữa người tiêu dùng
và phía nhà cung cấp trực tiếp thỏa thuận với nhau về việc nhà cung cấp cung cấp cho
người tiêu dùng những hàng hóa, dịch vụ; quyền và nghĩa vụ của các bên v.v...hoặc
người tiêu dùng chấp nhận các điều kiện của phía cung cấp đưa ra trước đó. Ví dụ: A
mua sữa từ nhà cung cấp B về để bản thân sử dụng thì đây là quan hệ trực tiếp. Còn
quan hệ gián tiếp là mối quan hệ có sự xuất hiện thêm người tiêu dùng khác bên cạnh
người tiêu dùng thứ nhất và nhà cung cấp, người tiêu dùng thứ hai sử dụng hàng hóa
từ người tiêu dùng thứ nhất nhưng người tiêu dùng thứ hai vẫn giữ vai trò là người tiêu
dùng. Ví dụ A mua sữa từ nhà cung cấp B về cho C (con của A) sử dụng thì dù giữa B
và C không có giao dịch mua bán nhưng C vẫn được xem là người tiêu dùng.
1.1.2. Khái niệm tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ hiểu theo nghĩa đơn
giản chính là những chủ thể sản xuất, cung cấp các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của
mình ra thị trường nhằm thu lợi nhuận. Họ là nhóm chủ thể luôn xuất hiện bên cạnh
người tiêu dùng vì giữa họ và người tiêu dùng có mối quan hệ mật thiết và song song
tồn tại với nhau.
GVHD: Tăng Thanh Phương

Trang 10

SVTH: Trần Khánh Hỷ



TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

Theo khoản 6 Điều 3 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007 định nghĩa rằng:
“Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh là tổ chức, cá nhân tổ chức và thực hiện
việc sản xuất (sau đây gọi là người sản xuất), nhập khẩu (sau đây gọi là người nhập
khẩu), xuất khẩu (sau đây gọi là người xuất khẩu), bán hàng, cung cấp dịch vụ (sau
đây gọi là người bán hàng)”.
Như vậy, các chủ thể này có các hành vi bao gồm tổ chức và thực hiện việc sản
xuất - tức là họ trực tiếp dùng nguyên liệu và chế biến thành một loại sản phẩm, hàng
hóa nào đó; hoặc nhập khẩu – tức người này không sản xuất ra hàng hóa mà chỉ có
hành vi nhập khẩu hàng hóa, sản phẩm từ nhà sản xuất để rồi sau đó phân phối lại trên
thị trường; hoặc xuất khẩu có nghĩa là họ sẽ dùng một hàng hóa nào đó xuất khẩu ra
khỏi biên giới quốc gia để vào thị trường của một quốc gia khác; và cuối cùng là người
bán hàng, cung cấp dịch vụ - người này là chủ thể có hành vi phân phối hàng hóa,
cung ứng dịch vụ một cách trực tiếp đến tay người tiêu dùng.
Theo khoản 2 Điều 3 Luật BVQLNTD 2010 định nghĩa rằng:
“Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là tổ chức, cá nhân thực hiện
một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ
hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm:
a) Thương nhân theo quy định của Luật thương mại;
b) Cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên, không phải đăng ký
kinh doanh”11.
Theo đó thương nhân sẽ bao gồm những chủ thể là: “tổ chức kinh tế được thành
lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có
đăng ký kinh doanh”12.
Còn đối với nhóm chủ thể “cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên,
không phải đăng ký kinh doanh” được Nghị định 39/2007/NĐ-CP ngày 16 tháng 3

năm 2007 của Chính phủ quy định về cá nhân họat động thương mại một cách độc
lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh, định nghĩa và bao gồm những đối
tượng sau:
“Cá nhân hoạt động thương mại là cá nhân tự mình hàng ngày thực hiện một,
một số hoặc toàn bộ các hoạt động được pháp luật cho phép về mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác nhưng không thuộc
đối tượng phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh
và không gọi là “thương nhân” theo quy định của Luật Thương mại. Cụ thể bao gồm
11
12

Khoản 2 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010.
Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005.

GVHD: Tăng Thanh Phương

Trang 11

SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

những cá nhân thực hiện các hoạt động sau đây:
a) Buôn bán hàng rong (buôn bán dạo) là các hoạt động mua bán không có địa
điểm cố định (mua rong, bán rong hoặc vừa mua rong vừa bán rong), bao gồm cả việc
nhận sách báo, tạp chí, văn hóa phẩm của các thương nhân được phép kinh doanh các
sản phẩm này theo quy định của pháp luật để bán rong;
b) Buôn bán vặt là hoạt động mua bán những vật dụng nhỏ lẻ có hoặc không có

địa điểm cố định;
c) Bán quà vặt là hoạt động mua bán quà bánh, đồ ăn, nước uống (hàng nước) có
hoặc không có địa điểm cố định;
d) Buôn chuyến là hoạt động mua hàng hóa từ nơi khác về theo từng chuyến để
bán cho những người mua buôn hoặc bán lẻ;
đ) Thực hiện các dịch vụ: đánh giày; bán vé số; chữa khóa; sửa chữa xe; rửa xe;
cắt tóc; vẽ tranh; chụp ảnh; và các dịch vụ khác có hoặc không có địa điểm cố định;
e) Các hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng
ký kinh doanh khác.”13
Như vậy, chủ thể tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ khá đa
dạng và bao gồm rất nhiều loại đối tượng khác nhau. Điểm chung của tất cả các đối
tượng này là họ cung cấp những sản phẩm, hàng hóa, cung ứng dịch vụ của mình đến
tay người tiêu dùng nhằm mục đích thu lợi nhuận.
1.1.3. Khái niệm sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ.
1.1.3.1. Khái niệm sản phẩm.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007: “Sản phẩm
là kết quả của quá trình sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ nhằm mục đích kinh doanh
hoặc tiêu dùng”.
Như vậy, khái niệm sản phẩm có thể hiểu là một dạng vật chất cụ thể được hình
thành từ việc người sản xuất sử dụng và kết hợp các loại nguyên liệu, vật liệu lại với
nhau theo một quy trình sản xuất với một trình độ công nghệ. Sản phẩm này sau khi
được tạo ra thì nó phải có một công dụng nhất định và có khả năng đáp ứng cho nhu
cầu sử dụng cho con người. Bên cạnh đó sản phẩm này sẽ được đưa vào quá trình kinh
doanh, phân phối để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của người tiêu dùng hay nói cách
khác mục đích cuối cùng là sản phẩm này cần đến tay người tiêu dùng để người đã sản
xuất ra sản phẩm này thu lại lợi nhuận.

13

Khoản 1 Điều 3 Nghị định 39/2007/NĐ-CP.


GVHD: Tăng Thanh Phương

Trang 12

SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

1.1.3.2. Khái niệm hàng hóa.
Theo khoản 2 Điều 3 luật Chất lượng hàng hóa, sản phẩm năm 2007: “Hàng hóa
là sản phẩm được đưa vào thị trường, tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán, tiếp
thị”.
Theo khái niệm như trên thì hàng hóa chính là sản phẩm đã được hình thành sau
một quá trình sản xuất. Nhưng điểm tạo nên sự khác biệt giữa hàng hóa và sản phẩm là
ở chỗ: hàng hóa là một sản phẩm đã chính thức đi vào quá trình trình phân phối, cung
ứng cho những người có nhu cầu sử dụng và việc cung ứng hàng hóa được thực hiện
bởi những cá nhân, tổ chức kinh doanh thông qua các cách thức như trao đổi, mua bán,
tiếp thị và quá trình phân phối này được diễn ra trên thị trường.
1.1.3.3. Khái niệm dịch vụ.
Pháp luật không có một quy định cụ thể định nghĩa về dịch vụ nhưng tại Điều
519 Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS 2005) quy định về đối tượng của hợp đồng dịch vụ
như sau: “Ðối tượng của hợp đồng dịch vụ phải là công việc có thể thực hiện được,
không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội”. Như vậy dịch vụ là một công việc
có thể được thực hiện bởi người cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng và dịch vụ này
phải được cho pháp luật cho phép.
Dịch vụ là những hoạt động và kết quả mà một bên (người bán) có thể cung cấp
cho bên kia (người mua) và chủ yếu là vô hình không mang tính sở hữu. Dịch vụ có

thể gắn liền hay không gắn liền với một sản phẩm vật chất14 hay cũng có thể định
nghĩa khác : “dịch vụ là những thứ tương tự như hàng hóa nhưng là phi vật chất”15.
Dich vụ có tính đa dạng rất cao, hiện nay có rất nhiều loại hình dịch vụ đang
được cung cấp để phục vụ cho người tiêu dùng như dịch vụ chăm sóc sức khỏe, khám
chữa bệnh; dịch vụ viễn thông; v.v...Dịch vụ có thể bao gồm hai loại chính là dịch vụ
đi kèm với một loại hàng hoá, sản phẩm cụ thể hay là một dịch vụ thuần tuý.
Dịch vụ đi kèm với một loại hàng hoá, sản phẩm là loại hình dịch vụ phụ đi kèm
theo loại hàng hoá, sản phẩm được nhà sản xuất cung cấp nhằm tăng khả năng thu hút
khách hàng và tăng giá trị của sản phẩm, hàng hoá đó. Ví dụ: nhà sản xuất xe hơi bán
xe hơi kèm theo dịch vụ bảo hành, chỉ dẫn sử dụng và bảo trì, giao hàng theo yêu cầu
của khách mua xe.

14

Kỹ năng quản lý, Khái niệm dịch vụ:
[truy cập ngày
10-01-2013].
15 Lê Đình Nghị - Nguyễn Thị Nga - Nguyễn Bá Bình – Vũ Thị Hồng Yến: Giáo trình Luật dân sự Việt Nam Tập 2, Nxb Giáo dục Vịêt Nam, 2010, tr 150.

GVHD: Tăng Thanh Phương

Trang 13

SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

Dịch vụ thuần tuý là loại hình dịch vụ được nhà cung cấp dịch vụ trực tiếp cung

cấp đáp ứng cho nhu cầu của người tiêu dùng. Ví dụ: hành khách mua vé máy bay
của hãng hàng không A thì hành khách đang sử dụng dịch vụ vận chuyển; hoặc khách
hàng đến một trung tâm thẩm mỹ để làm đẹp tức đang trực tiếp sử dụng dịch vụ.
1.1.3.4. Khái niệm sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng.
Trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay không có định nghĩa đến khái
niệm sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng nên muốn đưa ra được khái niệm
này cần phải dựa trên khái niệm chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Theo quan điểm triết
học, chất lượng là tính xác định bản chất nào đó của sự vật, hiện tượng, tính chất mà
nó khẳng định nó chính là cái đó chứ không phải là cái khác hoặc cũng nhờ nó mà nó
tạo ra một sự khác biệt với một khách thể khác.
Chất lượng của sản phẩm, hàng hóa thể hiện ở mức độ đáp ứng của sản phẩm,
hàng hóa với nhu cầu của người tiêu dùng và bảo đảm cho con người, động thực vật,
tài sản, môi trường. Chất lượng của sản phẩm hàng hóa là những đặc tính của sản
phẩm, hàng hóa thể hiện ở cấu tạo, thành phần hóa học, vật lý, độ bền, độ tin cậy, tính
tiện dụng, tính thẩm mỹ và tính an toàn. Theo Tổ chức Tiêu chuẩn hóa: chất lượng sản
phẩm, hàng hóa là tổng thể các chỉ tiêu, các đặc trưng của sản phẩm, thể hiện được
sự thỏa mãn nhu cầu trong các điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng
của sản phẩm. Như vậy, với định nghĩa này, chất lượng sản phẩm, hàng hóa bao gồm
nhiều chỉ tiêu, trong đó an toàn là một trong các chỉ tiêu của sản phẩm, hàng hóa16.
Theo khoản 5 Điều 3 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007 quy định rằng:
“Chất lượng sản phẩm, hàng hóa là mức độ của các đặc tính của sản phẩm, hàng hóa
đáp ứng yêu cầu trong tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng”.
Như vậy ở Việt Nam, chất lượng sản phẩm, hàng hóa được quan niệm hẹp hơn so với
quan niệm của thế giới. Chúng ta chỉ mới hiểu khái niệm chất lượng sản phẩm, hàng
hóa theo hướng về mặt an toàn của sản phẩm, hàng hóa đối với người tiêu dùng, còn
những tiêu chí khác thì chúng ta chưa áp dụng.
Từ khái niệm chất lượng sản phẩm, hàng hóa chúng ta có thể suy ra rằng sản
phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng là loại sản phẩm, hàng hóa không đáp
ứng được đầy đủ các đặc tính của sản phẩm, hàng hóa theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn
kỹ thuật đã được công bố áp dụng. Hoặc cũng có thể hiểu theo cách rộng hơn là sản

phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng là loại sản phẩm, hàng hóa không đáp
16

Chu Đức Nhuận: Vấn đề chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo quy định của pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 8 (124) T6/2008. tr 45.

GVHD: Tăng Thanh Phương

Trang 14

SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

ứng được những yêu cầu về thành phần cấu tạo, tính vật lý, thành phần hóa học,
không có độ bền, độ tin cậy, không phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng và không
bảo đảm an toàn cho con người, động thực vật, môi trường.
1.1.3.5. Khái niệm hàng hóa có khuyết tật.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật BVQLNTD 2010 định nghĩa rằng:
“Hàng hóa có khuyết tật là hàng hóa không bảo đảm an toàn cho người tiêu
dùng, có khả năng gây thiệt hại cho tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người tiêu dùng,
kể cả trường hợp hàng hóa đó được sản xuất theo đúng tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ
thuật hiện hành nhưng chưa phát hiện được khuyết tật tại thời điểm hàng hoá được
cung cấp cho người tiêu dùng, bao gồm:
a) Hàng hóa sản xuất hàng loạt có khuyết tật phát sinh từ thiết kế kỹ thuật;
b) Hàng hóa đơn lẻ có khuyết tật phát sinh từ quá trình sản xuất, chế biến, vận
chuyển, lưu giữ;
c) Hàng hóa tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn trong quá trình sử dụng nhưng

không có hướng dẫn, cảnh báo đầy đủ cho người tiêu dùng”.
Như vậy hàng hóa có khuyết tật thì bản thân hàng hóa đó đã có những khiếm
khuyết nhưng không được phát hiện, những khiếm khuyết này có khả năng gây ra thiệt
hại cho người tiêu dùng khi sử dụng hàng hóa. Sự khiếm khuyết này có thể xảy ra ở
những sản phẩm được sản xuất hàng loạt (có thể hiểu là cả một lô hàng của cùng một
đợt sản xuất) hoặc của riêng một sản phẩm nào đó. Ngoài ra còn có những hàng hóa đã
phát sinh khiếm khuyết ngay từ khâu thiết kế nhưng chưa được phát hiện hoặc những
khiếm khuyết được phát sinh trong quá trình sản xuất, chế biến, lưu trữ, vận chuyển...
Hoặc đó là loại hàng hóa vốn dĩ đã tồn tại những nguy cơ mất an toàn nhưng không có
những cảnh báo đầy đủ cho người tiêu dùng.
1.1.4. Khái niệm vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.
Theo nghĩa thông thường vi phạm chính là sự không tuân thủ các quy tắc xử sự
chung pháp luật do pháp luật quy định. Hành vi vi phạm này có lỗi và do một chủ thể
có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm phạm đến các quan hệ xã hội được
pháp luật bảo vệ. Vi phạm quyền lợi người tiêu dùng thuộc nhóm vi phạm dân sự, tức
là những hành vi trái pháp luật, có lỗi, xâm hại tới những quan hệ tài sản, quan hệ nhân
thân có liên quan tới tài sản, quan hệ phi tài sản…17
17

Nguyễn Minh Đoan – Lê Hồng Hạnh – Lê Minh Tâm: Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Tư
pháp, Hà Nội, 2007, tr.504.

GVHD: Tăng Thanh Phương

Trang 15

SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA

NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

Trong trường hợp vi phạm quyền lợi người tiêu dùng thì chủ thể có năng lực là
những tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Hành vi vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng được biểu hiện vô cùng đa dạng
trên thực tế, hành vi này có thể như việc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ cung cấp hàng hóa không bảo đảm chất lượng; không đủ số lượng; cung
cấp hàng hóa có khuyết tật, có thành phần nguy hiểm đe dọa đến sự an toàn của người
tiêu dùng… hoặc thực hiện dịch vụ không đúng như cam kết, v.v…và khi đã thực hiện
hành vi xâm hại đến quyền lợi người tiêu dùng thì hành vi này sẽ gây ra những thiệt
hại nào đó cho người tiêu dùng.
Như vậy vi phạm quyền lợi người tiêu dùng là hành vi trái pháp luật của các tổ
chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; hành vi này có lỗi, xâm hại
đến những quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng và gây ra thiệt hại cho
người tiêu dùng.
1.1.5. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người
tiêu dùng.
1.1.5.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Theo từ điển tiếng Việt, trách nhiệm có thể được hiểu theo hai nghĩa: Một là
“Phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải đảm bảo làm tròn, nếu kết
quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả”, hai là “sự ràng buộc đối với lời nói,
hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì phải gánh chịu phần hậu quả”18.
Ngoài ra, theo nghĩa trách nhiệm pháp lý, thì trách nhiệm còn gắn liền với yếu tố “hậu
quả”, tức trách nhiệm đã được điều chỉnh và bảo vệ bởi các quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành, với những “hậu quả bất lợi” được áp đặt lên những người phải
chịu trách nhiệm pháp lý.
Tiếp cận dưới góc độ pháp lý cho thấy rằng, mỗi người sống trong xã hội đều
phải tôn trọng các nguyên tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích của mình mà xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi một người vi phạm nghĩa
vụ pháp lý gây tổn hại cho người khác thì chính người đó phải chịu hậu quả bất lợi do

hành vi của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất
cho người khác được hiểu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Theo quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được Bộ luật Dân sự Việt
Nam 2005 quy định tại Điều 307 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và tại
Chương XXI về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
18

Tratu.soha, [truy cập ngày 14-01-2013].

GVHD: Tăng Thanh Phương

Trang 16

SVTH: Trần Khánh Hỷ


TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM QUYỀN LỢI CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

Như vậy trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một trách nhiệm dân sự nhằm khắc
phục một hậu quả xuất phát từ hành vi gây thiệt hại của người gây thiệt hại hoặc nhằm
bù đắp lại những thiệt hại đã phát sinh. Theo khoản 1 Điều 307 BLDS 2005: “Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách
nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần”.
1.1.5.2. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng.
Cũng giống như trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng cũng mang tính chất tài sản
nhằm bù đắp thiệt hại hoặc khôi phục lại tình trạng ban đầu cho đối tượng bị thiệt hại.
Tuy nhiên nó cũng mang những đặc điểm khác biệt, đó là chủ thể có trách nhiệm bồi

thường chỉ bao gồm những tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ và
người được hưởng bồi thường là người tiêu dùng khi có sự xâm phạm của những cá
nhân, tổ chức này. Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại này phải đi kèm với
một yếu tố quan trọng là có thiệt hại của người tiêu dùng.
Từ những lý luận chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại từ đó cho phép suy
ra rằng:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi quyền lợi của người tiêu dùng là trách
nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng và gây ra
thiệt hại nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu trước khi bị thiệt hại hoặc bù đắp cho
những thiệt hại cho người tiêu dùng đã gánh chịu.
1.1.5.3. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng.
* Thứ nhất: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng là một trách nhiệm dân sự trong hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng.
Trước hết cần điểm qua những nền tảng lý luận về trách nhiệm dân sự trong hợp
đồng và ngoài hợp đồng. Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng là trách nhiệm hình
thành từ việc không thực hiện hoặc thực hiện một nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.
Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã giao kết mà gây thiệt
hại cho người cùng giao kết thì phải bồi thường thiệt hại cho nguời sau này. Trách
nhiệm dân sự ngoài hợp đồng là trách nhiệm hình thành từ việc thực hiện một hành vi,

GVHD: Tăng Thanh Phương

Trang 17

SVTH: Trần Khánh Hỷ



×