1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ VIỆT NGA
THỤ LÝ VÀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ PHÚC
THẨM
VỤ ÁN DÂN SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hµ néi - 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
2
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ VIỆT NGA
THỤ LÝ VÀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ PHÚC
THẨM
VỤ ÁN DÂN SỰ
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bình
Hµ néi - 2013
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỤ LÝ VÀ CHUẨN BỊ
XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
7
1.1.
Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và mối quan hệ giữa thụ lý và
chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
7
1.1.1.
Khái niệm thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
7
1.1.2.
Đặc điểm của thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
20
1.1.3.
Ý nghĩa của thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
24
1.1.4.
Mối quan hệ giữa thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án
dân sự
26
1.2.
Sơ lược sự phát triển các quy định của pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam về thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án
dân sự từ năm 1945 đến nay
27
1.2.1.
Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960
27
1.2.2.
Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1989
28
1.2.3.
Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004
30
1.2.4.
Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
33
Chương 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ THỤ LÝ VÀ CHUẨN
BỊ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
36
2.1.
Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về
thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự
36
2.1.1.
Điều kiện thụ lý phúc thẩm
36
2.1.2.
Trình tự thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự
42
4
2.2.
Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về
chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
44
2.2.1.
Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
44
2.2.2.
Những công việc được thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử phúc thẩm vụ án dân sự
49
2.2.3.
Các quyết định trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ
án dân sự
60
Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
THỤ LÝ VÀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN
DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ
68
3.1.
Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành về thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm
vụ án dân sự
68
3.1.1.
Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thụ lý và
chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
68
3.1.2.
Những tồn tại trong việc thực hiện các quy định của pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thụ lý và chuẩn bị xét
xử phúc thẩm vụ án dân sự
76
3.1.3.
Những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thụ lý và chuẩn bị
xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
83
3.2.
Các kiến nghị về hoàn thiện và thực hiện các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về thụ lý và
chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
86
3.2.1.
Các kiến nghị về hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam về thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
86
3.2.2.
Các kiến nghị về thực hiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
về thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
92
KẾT LUẬN
95
5
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
97
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS
: Bộ luật Tố tụng dân sự
CBXXPT
: Chuẩn bị xét xử phúc thẩm
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
TTDS
: Tố tụng dân sự
VKS
: Viện kiểm sát
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Xét xử là một hoạt động chuyên biệt của Tòa án. Để hoạt động xét xử
được đúng đắn thì ngoài việc yêu cầu Tòa án tuân thủ các quy định về luật nội
dung còn đòi hỏi phải tuân thủ các quy định về luật hình thức hay còn gọi
là luật tố tụng. Để các hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng
bảo đảm chặt chẽ, trong những năm trước đây Nhà nước đã ban hành nhiều
văn bản pháp luật quy định về thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự như Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp
lao động năm 1996… Tuy vậy, đứng trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
các tranh chấp trong quan hệ dân sự không ngừng phát sinh đòi hỏi phải hoàn
thiện hệ thống pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) để bảo đảm hiệu quả của việc
giải quyết các tranh chấp. Để cụ hóa các nội dung chỉ đạo của Đảng về cải
cách tư pháp ở Việt Nam và đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, ngày 15/06/2004
tại kỳ họp thứ V, Quốc hội khóa XI đã thông qua Bộ luật Tố tụng Dân sự
(BLTTDS) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đánh dấu bước
phát triển mới của pháp luật TTDS Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 17 BLTTDS, Tòa án thực hiện chế độ hai cấp
xét xử: Cấp xét xử sơ thẩm và cấp xét xử phúc thẩm. Mỗi cấp xét xử đều
có một vị trí, ý nghĩa riêng. Nếu như xét xử sơ thẩm là hoạt động đầu tiên của
Tòa án cấp sơ thẩm khi đương sự có yêu cầu Tòa án giải quyết và bản án,
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chỉ được thi hành nếu các bên liên quan
không kháng cáo, kháng nghị thì xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên
trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Bản án, quyết định phúc
thẩm có tính chất đặc biệt quan trọng vì bản án có hiệu lực pháp luật ngay. Vì
7
vậy, để bản án phúc thẩm được đảm bảo thi hành ngay ngoài yêu cầu đúng
luật thì bản án đó còn được coi là một "chuẩn mực" cho Tòa án cấp sơ thẩm
học hỏi thì một trong những công việc đầu tiên đặc biệt quan trọng,
có ý nghĩa quyết định đến tính đúng đắn của bản án của Tòa án cấp phúc thẩm
là thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm (CBXXPT). Thực tiễn xét xử cho thấy,
những Tòa án cấp phúc thẩm nào coi trọng việc thụ lý và chuẩn bị xét xử
phúc thẩm thì kết quả bản án được ban hành khách quan, công bằng và đúng
pháp luật. Ngược lại, những Tòa án cấp phúc thẩm nào chưa coi trọng việc
thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự thì kết quả là bản án, quyết định phúc thẩm
được ban hành còn thiếu tính đúng đắn. Ngoài ra, các quy định của pháp luật
TTDS về thụ lý và CBXXPT vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Ngày 29/03/2011
tại kỳ họp thứ IX, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một
số điều của BLTTDS trong đó có những quy định sửa đổi, bổ sung về thụ lý
và CBXXPT vụ án dân sự nhưng chưa giải quyết hết những bất cập này. Việc
nghiên cứu các vấn đề liên quan đến thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự để giải
quyết những bất cập còn tồn tại trong lúc này là cần thiết. Vì vậy, tác giả đã
chọn đề tài: "Thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự" nghiên
cứu làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về phúc thẩm dân
sự, trong đó có đề cập đến thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự. Về đề tài nghiên
cứu khoa học có công trình nghiên cứu cấp Bộ "Một số vấn đề về cơ sở lý
luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự" do Tòa án nhân
dân tối cao (TANDTC) thực hiện năm 1996; công trình nghiên cứu cấp Bộ
"Những quan điểm cơ bản về Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam" do Viện Nhà
nước và Pháp luật thuộc Trung tâm khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia
thực hiện năm 2001; công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Thực trạng hoạt
động xét xử phúc thẩm và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
xét xử phúc thẩm của các Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao" do
8
TANDTC thực hiện năm 2006. Về giáo trình, có Giáo trình Luật TTDS Việt
Nam, của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2011;
Giáo trình Luật TTDS, của Học viện Tư pháp, Nhà xuất bản Công an nhân dân,
2007; Giáo trình Luật TTDS Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, 2011. Về các
bài viết trên các báo, tạp chí khoa học pháp lý gồm có: Bài "Thủ tục xét xử phúc
thẩm vụ án dân sự", của Nguyễn Việt Cường, đăng trên Tạp chí Đặc san Nghề
luật, số 10, 1/2005; bài "Chế định phúc thẩm vụ án dân sự", của Nguyễn Thị
Thu Hà, đăng trên Đặc san về BLTTDS Tạp chí luật học năm 2005; bài "Tòa án
cấp phúc thẩm giải quyết vụ án như thế nào khi tòa cấp sơ thẩm triệu tập sai
tư cách người tham gia tố tụng", của Nguyễn Đình Huề, đăng trên Tạp chí
Tòa án nhân dân (TAND), Kỳ 2, số 5/2005; bài "Quan niệm về nguyên tắc hai
cấp xét xử trong TTDS nước ta", của Tống Công Cường, đăng trên Tạp chí
Khoa học pháp lý, số tháng 6/2006; bài "Thực hiện chế độ hai cấp xét xử cơ
chế bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sự", của Nguyễn Quang Hiền,
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử v.v… Trong quá trình xây dựng
và sau khi Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS được ban hành đã có nhiều cuộc
hội thảo về Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS và các bài viết đăng trên các tạp
chí pháp lý có đề cập đến vấn đề này như Hội thảo về Luật sửa đổi, bổ sung
Bộ luật Tố tụng dân sự do TANDTC tổ chức tại Sa Pa ngày 29 và
30/01/2010; bài "Những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trong việc sửa đổi, bổ
sung được thể hiện trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố
tụng dân sự ", của Phạm Quý Tỵ, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 12/2011; bài
"Thu thập chứng cứ và chứng minh theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự ", của Tưởng Duy Lượng, đăng trên
Tạp chí Kiểm sát số 12/2011 v.v… Tuy nhiên, cho đến thời điểm này vẫn còn
nhiều vấn đề về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự chưa được làm rõ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận
về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự; nội dung các quy định của pháp luật Việt
9
Nam hiện hành về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự và việc thực tiễn thực
hiện chúng tại các Tòa án. Qua việc nghiên cứu nhận diện, phát hiện những
hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện chúng tại các
Tòa án từ đó tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục để góp phần nâng
cao hiệu quả xét xử phúc thẩm.
Xuất phát từ mục đích của việc nghiên cứu đề tài nêu trên, việc nghiên
cứu đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề lý luận về thụ lý và CBXXPT
vụ án dân sự, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thụ lý và
CBXXPT vụ án dân sự và khảo sát việc thực hiện các quy định này tại các
Tòa án cấp phúc thẩm Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về thụ lý và
CBXXPT vụ án dân sự, các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự và thực hiện các quy định này tại các Tòa án
cấp phúc thẩm Việt Nam.
Đề tài có nội dung nghiên cứu rộng, tuy nhiên do giới hạn của luận
văn thạc sĩ việc nghiên cứu đề tài chỉ tập trung vào những vấn đề sau:
- Một số vấn đề lý luận cơ bản về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự
như khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự; mối
quan hệ giữa thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự và CBXXPT vụ án dân sự.
- Các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành về thụ lý phúc
thẩm vụ án dân sự và CBXXPT vụ án dân sự mà chủ yếu là các quy định của
BLTTDS và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS về thụ lý và
CBXXPT vụ án dân sự và Nghị quyết hướng dẫn thi hành các quy định của
BLTTDS về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự của Hội đồng thẩm phán
TANDTC. Riêng đối với các quyết định được đưa ra trong thời hạn CBXXPT
vụ án dân sự thì khóa luận chỉ nghiên cứu, phân tích về quyết định tạm đình
10
chỉ, quyết định đình chỉ, quyết định đưa vụ án ra xét xử. Còn quyết định áp
dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời sẽ được nghiên cứu ở một công trình
khoa học khác.
- Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về
thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự tại các Tòa án cấp phúc thẩm (chủ yếu là
TAND thành phố Hà Nội) trong những năm gần đây.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Quá trình nghiên cứu luận văn tác giả cũng đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống như phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh v.v để thực hiện đề tài.
6. Những điểm mới về khoa học của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu khoa học pháp lý có tính hệ thống về
những vấn đề liên quan đến thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự giúp các độc giả,
đặc biệt là những người đang làm công tác thực tiễn hiểu biết sâu sắc hơn về
thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự. Những điểm mới về khoa học của luận văn
thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
- Hoàn thiện khái niệm thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự; chỉ rõ đặc
điểm và ý nghĩa của thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự.
- Phân tích làm rõ nội dung các quy định của pháp luật TTDS Việt
Nam hiện hành về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự.
- Đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật TTDS Việt
Nam hiện hành về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện tại
các Tòa án.
11
- Đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực hiện các
quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc
thẩm vụ án dân sự.
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam hiện hành về thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam hiện hành về thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
và kiến nghị.
12
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỤ LÝ
VÀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA THỤ
LÝ VÀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
Quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức được
pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Vì vậy, khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm hoặc tranh chấp thì các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa
án bảo vệ. Tuy nhiên, tùy thuộc vào tính chất của từng loại vụ việc mà Tòa án
giải quyết vụ việc theo thủ tục TTDS, tố tụng hình sự hay tố tụng hành chính.
Trong đó, TTDS là trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định để Tòa án giải
quyết một vụ việc dân sự. Pháp luật của đa số các nước quan niệm vụ việc
dân sự là các tranh chấp, yêu cầu phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động, theo đó các tranh chấp
về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động được gọi
là vụ án dân sự; các yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh
thương mại và lao động được gọi là việc dân sự. Như vậy, khi các cá nhân, cơ
quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự ra Tòa án để yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác thì Tòa án phải tuân
thủ đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật đã quy định để ra một phán quyết công
minh, chính xác và đúng pháp luật. Tuy nhiên, bản án, quyết định của Tòa án
vì nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan vẫn có thể có những thiếu sót, sai
lầm. Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ
chức, đồng thời khắc phục những sai lầm có thể có trong các bản án, quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm thì các nước đều áp dụng "nguyên tắc xét xử vụ
án theo nhiều cấp và tổ chức Tòa án theo thứ bậc" [14, tr. 12]. Tuy nhiên, các
13
nước thực hiện nguyên tắc này không hoàn toàn giống nhau. Các nước theo
truyền thống pháp luật dân sự áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử, các nước
theo truyền thống pháp luật án lệ áp dụng nguyên tắc chung thẩm (Principle
of Finality) [9, tr. 12].
Đối với các nước áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử như Cộng hòa
Pháp, Liên bang Nga… thì sau khi Tòa án sơ thẩm tuyên án, bản án quyết
định chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà còn một thời hạn để các đương sự
kháng cáo, Viện kiểm sát (Viện công tố) (VKS) kháng nghị yêu cầu Tòa án
cấp trên xét xử lại theo trình tự phúc thẩm trừ trường hợp pháp luật quy định
bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật ngay. Tòa án cấp phúc thẩm
có quyền xem xét lại vụ án về vấn đề sự kiện và luật pháp. Do đó, các chứng
cứ mới do đương sự xuất trình có thể được chấp nhận ở Tòa án cấp phúc thẩm
và Tòa án cấp phúc thẩm có thể ra bản án mới.
Ở các nước áp dụng nguyên tắc chung thẩm như Anh, Mĩ… thì các bản
án, quyết định sau khi ban hành sẽ mặc nhiên được thừa nhận là giải pháp cuối
cùng và có hiệu lực pháp luật ngay. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền tự định đoạt
của đương sự thì VKS không được kháng nghị phúc thẩm mà chỉ có đương sự
có quyền kháng cáo phúc thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên sửa chữa những sai
lầm có thể có của Tòa án cấp dưới. Nhưng Tòa án cấp phúc thẩm "chỉ xét lại
về mặt pháp lý của vụ án chứ không xét đến các vấn đề sự kiện" [9, tr. 68].
Tòa án cấp phúc thẩm ở những nước này rất ít khi hoặc không tiếp nhận và
xem xét các chứng cứ mới của vụ kiện mà chủ yếu thực hiện chức năng áp
dụng và giải thích pháp luật, có nghĩa là Tòa án cấp phúc thẩm chỉ sửa lại
những lỗi, sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm và trả hồ sơ cho Toà án cấp sơ
thẩm nếu tìm ra lỗi mà không xem xét để ra một quyết định mới để thay thế
quyết định của tòa cấp dưới.
Ở Việt Nam, nguyên tắc xét xử vụ án theo nhiều cấp được thực hiện
khác nhau ở từng giai đoạn lịch sử. Nhưng, hiện nay theo quy định tại Điều 17
14
của BLTTDS, chúng ta áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử. Theo đó, tất cả
các bản án, quyết định sơ thẩm sau khi tuyên đều chưa có hiệu lực pháp luật
và có thể bị kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Khi đương sự kháng cáo,
VKS kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật thì Tòa án cấp trên sẽ thụ lý để xét xử lại vụ án dân sự theo thủ tục
phúc thẩm.
Từ những phân tích trên có thể thấy, ở mỗi quốc gia khác nhau, tùy
thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, tập quán, truyền thống lập pháp mà nội
dung cụ thể của chế định phúc thẩm vụ án dân sự có những điểm khác nhau.
Vậy, về mặt lý luận, khái niệm phúc thẩm vụ án dân sự được hiểu như thế nào?
Dưới góc độ ngôn ngữ học, "Phúc thẩm" theo Từ điển Tiếng Việt là
"Tòa án cấp trên xét xử lại một vụ án do cấp dưới đã xét xử sơ thẩm mà có
chống án" [10, tr. 790]. Theo cách giải thích này thì phúc thẩm là việc Tòa án
cấp trên xét xử lại vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm khi có sự chống án.
Dưới góc độ pháp lý, phúc thẩm được giải thích thông qua thuật
ngữ kháng án. Trong từ điển luật học Pháp, kháng án (Appel) là một hình
thức kháng án theo thông luật nhằm cải sửa hoặc hủy bỏ, theo đó bên kháng
án đưa vụ kiện ra trước một Tòa án cấp cao hơn, thậm chí có thể đưa ra trước
cùng một Tòa án với một hội đồng xét xử khác [55, tr. 41]. Trong Từ điển
pháp luật Anh - Việt, kháng án (appeal) có nghĩa là tất cả các thỉnh cầu tới
một cấp thẩm cao hơn (kháng cáo và thượng tố giám đốc thẩm) [47, tr. 34].
Qua việc giải thích thuật ngữ kháng án, có thể hiểu phúc thẩm là biện pháp
Tòa án cấp cao hơn xem xét lại vụ án đã được giải quyết ở của Tòa án cấp
dưới khi có sự chống án (kháng cáo hoặc thượng tố giám đốc thẩm). Ngoài ra,
Trong Từ điển Luật học Việt Nam, "phúc thẩm là xét lại vụ án, quyết định đã
được Tòa án cấp dưới xét xử sơ thẩm, nhưng chưa có hiệu lực pháp luật mà
bị kháng cáo hoặc kháng nghị" [53, tr. 626]. Như vậy, có thể thấy dưới góc
độ pháp lý, thuật ngữ phúc thẩm cũng được hiểu không hoàn toàn giống nhau.
15
Ở Việt Nam, trong lĩnh vực khoa học pháp lý, khái niệm phúc thẩm vụ
án dân sự được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau là "giai đoạn phúc
thẩm", "chế định phúc thẩm", "thủ tục xét xử phúc thẩm" và "cấp xét xử
phúc thẩm".
Dưới góc độ là giai đoạn thì phúc thẩm vụ án dân sự là giai đoạn của
quá trình TTDS, trong đó Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án dân sự mà
bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng
nghị theo quy định của pháp luật nhằm kiểm tra tính hợp pháp, tính căn cứ
của các bản án, quyết định sơ thẩm, khắc phục kịp thời sai lầm của Tòa án
cấp sơ thẩm, đảm bảo việc xét xử đúng đắn, thống nhất, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng và lợi ích Nhà
nước [9, tr. 24-25].
Dưới góc độ là chế định pháp luật thì phúc thẩm vụ án dân sự được
hiểu là một hệ thống những qui tắc xử sự do Nhà nước ban hành để điều chỉnh
các quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết lại vụ án dân sự trong trường
hợp bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị
kháng cáo, kháng nghị.
Dưới góc độ là thủ tục xét xử thì phúc thẩm vụ án dân sự được hiểu là
thủ tục xét xử do Tòa án cấp trên trực tiếp tiến hành nhằm xét xử lại vụ án dân
sự mà bản án và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND
cấp dưới khi có kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
Dưới góc độ là một cấp xét xử, phúc thẩm vụ án dân sự là cấp xét xử
thứ hai, theo đó Tòa án có thẩm quyền xét xử lại vụ án dân sự mà bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị
theo quy định của pháp luật nhằm khắc phục kịp thời sai lầm của Tòa án
cấp sơ thẩm, đảm bảo việc xét xử đúng đắn, thống nhất, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng và lợi ích
Nhà nước [9, tr. 26].
16
Như vậy, phúc thẩm vụ án dân sự được tiếp cận ở nhiều góc độ khác
nhau, phạm vi khác nhau song tất cả đều coi phúc thẩm vụ án dân sự là việc
Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án dân sự mà bản án, quyết định của Tòa
án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy
định của pháp luật. Do đó, phúc thẩm vụ án dân sự có đặc điểm cơ bản sau:
- Tính chất của phúc thẩm là việc xét xử lại vụ án dân sự mà bản án,
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm mà chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng
cáo, kháng nghị.
- Căn cứ phát sinh phúc thẩm dựa trên các kháng cáo của đương sự
hoặc kháng nghị của VKS.
- Đối tượng của phúc thẩm là vụ án dân sự mà bản án, quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
- Thẩm quyền xét xử phúc thẩm là Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa
án đã xét xử sơ thẩm.
- Phạm vi xét xử phúc thẩm phải trong phạm vi nội dung của bản án,
quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc liên quan đến việc xem xét
nội dung kháng cáo, kháng nghị. Như vậy, đối với những vấn đề chưa được đưa
ra xét xử ở cấp sơ thẩm hoặc đã xét xử ở cấp sơ thẩm mà không bị kháng cáo,
kháng nghị thì Tòa án cấp phúc thẩm cũng không có thẩm quyền xét xử lại.
- Nhiệm vụ của phúc thẩm là kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn
cứ của các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng
cáo, kháng nghị.
Thực tế, thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự là những khái niệm pháp lý
phức tạp. Mỗi khái niệm bao gồm nhiều yếu tố cấu thành, mà mỗi yếu tố cấu
thành đó lại có ý nghĩa pháp lý riêng biệt nhưng có mối liên quan mật thiết
với nhau. Để tìm hiểu khái niệm thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự, chúng ta
cần làm rõ từng yếu tố cấu thành của nó.
17
1.1.1.1. Khái niệm thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự
Dưới góc độ ngôn ngữ học, theo Từ điển Tiếng Việt thì "thụ lý" là "việc
cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận giải quyết vụ kiện…" [15, tr. 961].
Theo cách giải thích này thì, thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự là việc Tòa án cấp
phúc thẩm bắt đầu nhận trách nhiệm giải quyết lại vụ án dân sự theo thủ tục
phúc thẩm.
Trong khoa học pháp lý, khái niệm thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự có
thể được tiếp cận dưới những góc độ khác nhau là thủ tục TTDS hay hoạt
động TTDS.
Dưới góc độ thủ tục TTDS: Thủ tục tố tụng là "cách thức, trình tự và
nghi thức tiến hành xem xét một vụ việc hoặc giải quyết một vụ án đã được
thụ lý hoặc khởi tố theo các quy định của pháp luật" [53, tr. 729]. Từ đó, thủ
tục TTDS được hiểu là cách thức, trình tự tiến hành xem xét, giải quyết vụ án
dân sự theo quy định của pháp luật TTDS. Thủ tục TTDS bao gồm thủ tục sơ
thẩm, thủ tục phúc thẩm, thủ giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự, trong đó thủ tục
thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự là một thủ tục của thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự.
Thủ tục thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự do tòa án cấp phúc thẩm tiến
hành nhằm tiếp nhận vụ án dân sự từ Tòa án cấp sơ thẩm để xét xử lại trên cơ
sở kháng cáo, kháng nghị hợp pháp theo quy định của pháp luật. Điều này có
nghĩa rằng, thủ tục thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự chỉ được thực hiện khi có
kháng cáo, kháng nghị hợp pháp đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật. Đây là điểm khác biệt so với thủ tục thụ lý vụ án dân sự ở
Tòa án cấp sơ thẩm. Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành thủ tục thụ lý vụ án dân sự
khi việc khởi kiện vụ án dân sự tuân thủ đúng và đủ các điều kiện khởi kiện
(về nội dung, về hình thức khởi kiện và tạm ứng án phí).
Phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai nên để kiểm tra được tính hợp pháp và
tính có căn cứ trong bản án, quyết định sơ thẩm thì phúc thẩm trước tiên phải
dựa trên hồ sơ vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm. Do đó, thụ lý phúc thẩm vụ án
18
dân sự bao gồm thủ tục nhận hồ sơ vụ án dân sự từ Tòa án cấp sơ thẩm và thủ
tục vào sổ thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự. Các thủ tục này đều phải trên cơ sở
các quy định của pháp luật TTDS.
Vậy, dưới góc độ thủ tục TTDS, thủ tục thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự
là cách thức, trình tự Tòa án cấp phúc thẩm tiếp nhận vụ án dân sự thuộc
thẩm quyền của mình khi có kháng cáo, kháng nghị hợp pháp đối với bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật nhằm xét xử lại vụ án dân sự.
Dưới góc độ hoạt động TTDS: hoạt động TTDS là hoạt động của các
chủ thể tố tụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự [4, tr. 13]. Hoạt động
này được thực hiện từ khi khởi kiện cho đến khi Tòa án ra được bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật. Trong đó, thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự là hoạt
động tố tụng của Tòa án cấp phúc thẩm tiếp nhận vụ án dân sự từ Tòa án cấp
sơ thẩm để xét xử lại vụ án dân sự thuộc thẩm quyền của mình khi có kháng
cáo, kháng nghị hợp pháp đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật.
Hoạt động thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự là hoạt động khởi điểm làm
phát sinh các quan hệ tố tụng trong quá trình Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết
lại vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm đồng thời chính thức ràng buộc trách
nhiệm của các chủ thể vào quá trình này. Đây là dấu hiệu để phân biệt với
hoạt động thụ lý vụ án dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm. Hoạt động thụ lý vụ án
dân sự ở Tòa án cấp cơ thẩm là hoạt động tố tụng đầu tiên của sơ thẩm dân sự,
còn hoạt động thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự là hoạt động đầu tiên của Tòa án
cấp phúc thẩm.
Nếu như hoạt động thụ lý vụ án dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm là tiền đề
để Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành các hoạt động tiếp theo như chuẩn bị xét xử
sơ thẩm, xét xử sơ thẩm và ra bản án, quyết định sơ thẩm thì hoạt động thụ lý
phúc thẩm vụ án dân sự là cơ sở để Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành các hoạt
động tố tụng tiếp theo trong quá trình phúc thẩm vụ án dân sự. Nếu không có
19
hoạt động thụ lý vụ án của Tòa án cấp phúc thẩm sẽ không có các hoạt động
khác như chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự, xét xử phúc thẩm… Như
vậy, để tạo tiền đề cho việc giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm được
nhanh chóng, chính xác và hiệu quả thì hoạt động thụ lý phúc thẩm vụ án dân
sự phải tuân theo thể thức, trình tự do pháp luật TTDS quy định.
Vậy, dưới góc độ là hoạt động tố tụng thì thụ lý phúc thẩm vụ án dân
sự là hoạt động TTDS của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc tiếp nhận vụ án
dân sự thuộc thẩm quyền của mình khi có kháng cáo, kháng nghị hợp pháp
đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật nhằm xét xử lại
vụ án dân sự.
1.1.1.2. Khái niệm chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự
Kể từ thời điểm Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý vụ án dân sự, sẽ phát
sinh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết lại
vụ án theo thủ tục phúc thẩm và bắt đầu giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm.
Chuẩn bị xét xử phúc thẩm được các quốc gia quy định khác nhau.
Ở các nước theo truyền thống pháp luật án lệ như Vương quốc Anh, Hợp
chủng quốc Hoa Kì… do:
Tính chất phúc thẩm vụ kiện là Tòa phúc thẩm chỉ xem xét
lại vụ kiện đúng như đã diễn ra tại phiên tòa sơ thẩm. Tòa án cấp
phúc thẩm không chấp nhận việc tiếp nhận và xem xét các chứng cứ
mới của vụ kiện, không tiến hành mở một phiên tòa mới và khác đối
với vụ kiện đó. Do đó, yêu cầu của các bên đương sự xin phúc thẩm
là phải trình cho Tòa án cấp phúc thẩm tòa bộ chứng cứ của vụ
kiện như đã trình cho Tòa án cấp sơ thẩm (bản sao) [31, tr. 25].
Như vậy, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại về mặt pháp lý, giải
thích pháp luật mà không tiến hành xét xử. Do đó, hoạt động CBXXPT vụ án
dân sự ở hệ thống này có thể hiểu bao gồm những công việc nhận đơn yêu cầu
20
kháng cáo, tiếp nhận bản sao chứng cứ, nhận hồ sơ vụ án, nghiên cứu hồ sơ
vụ án.
Ở các nước theo truyền thống pháp luật dân sự như Cộng hòa Pháp,
Liên bang Nga…:
Quyền phúc thẩm bao gồm cả quyền về xem xét lại những
sự kiện thực tế cũng như những vấn đề luật pháp. Mặc dù khuynh
hướng chung là dựa vào những tài liệu do cấp dưới chuẩn bị như là
cơ sở thực tế cho việc xem xét lại vụ án, tại nhiều Tòa án, các bên
có quyền đưa ra chứng cứ mới tại cấp phúc thẩm. Tòa phúc thẩm sẽ
tự mình xem xét tất cả các chứng cứ và thực hiện việc cân nhắc độc
lập xem sự thật là gì và tầm quan trọng của chúng như thế nào, Tòa
cũng được yêu cầu chuẩn bị ý kiến riêng có lập luận đầy đủ, trong
đó bàn luận cả những vấn đề về sự thật và luật pháp [31, tr. 67-68].
Do đó, ở các nước này, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm,
Tòa án cấp phúc thẩm không chỉ tiếp nhận hồ sơ vụ án, nghiên cứu hồ sơ vụ
án mà hoạt động cung cấp và thu thập chứng cứ cũng được thực hiện trong
giai đoạn này.
Ở Việt Nam, tính chất của phúc thẩm là việc xét xử lại vụ án dân sự
mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng
nghị nên để thực hiện được việc giải quyết lại vụ án dân sự nhanh chóng và
đúng đắn thì Tòa án cấp phúc thẩm vẫn phải tiến hành những công việc cần
thiết trước khi đưa vụ án ra xét xử lại tại phiên tòa phúc thẩm như nghiên cứu
đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị, nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có
trong hồ sơ do Tòa án cấp sơ thẩm chuyển đến, triệu tập những người tham
gia tố tụng đến tham gia phiên tòa, yêu cầu đương sự cung cấp, bổ sung
chứng cứ; thu thập bổ sung chứng cứ…
Với những quy định khác nhau trong pháp luật TTDS của các quốc
gia về CBXXPT vụ án dân sự như vậy thì về mặt lý luận, khái niệm CBXXPT
vụ án dân sự được hiểu như thế nào?
21
Dưới góc độ ngôn ngữ học, theo Từ điển Tiếng Việt thì "chuẩn bị" là
"làm cho có sẵn cái cần thiết để làm việc gì" [15, tr. 181]. Vì vậy, CBXXPT
vụ án dân sự có thể được hiểu là việc tiến hành những công việc cần thiết,
những sản phẩm cần có cho hoạt động xét xử phúc thẩm vụ án dân sự.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, khái niệm CBXXPT vụ án dân sự có thể
được tiếp cận dưới những góc độ khác nhau là một giai đoạn của TTDS, là một
thủ tục TTDS, một hoạt động TTDS hay là một chế định của pháp luật TTDS.
Dưới góc độ là một giai đoạn TTDS: giai đoạn tố tụng là các khâu,
các phần việc khác nhau của quá trình tố tụng [53, tr. 286]. Như vậy, có thể
thấy quá trình TTDS được phân chia thành các giai đoạn khác nhau, trong đó
CBXXPT vụ án dân sự là một giai đoạn trong quá trình Tòa án giải quyết vụ
án dân sự. Giai đoạn CBXXPT vụ án dân sự có tính độc lập tương đối và có
mối liên quan chặt chẽ với các giai đoạn khác. Kết thúc giai đoạn CBXXPT
có quyết định liên quan đến việc giải quyết vụ án hoặc quyết định chuyển
sang giai đoạn tiếp theo. Giai đoạn CBXXPT vụ án dân sự là tiền đề cho việc
xét xử phúc thẩm. Các hoạt động tố tụng trong giai đoạn CBXXPT vụ án dân
sự được thực hiện theo quy định của pháp luật TTDS. Như vậy, giai đoạn
CBXXPT vụ án dân sự có dấu hiệu riêng để phân biệt với các giai đoạn tố
tụng khác, cụ thể:
- Nhiệm vụ giai đoạn CBXXPT là chuẩn bị những điều kiện cần thiết
đảm bảo cho việc xét xử lại vụ án dân sự theo trình tự phúc thẩm. Nhiệm vụ ở
giai đoạn CBXXPT khác với các giai đoạn khác như giai đoạn chuẩn bị xét
xử sơ thẩm có nhiệm vụ chuẩn bị những điều kiện cần thiết đảm bảo cho việc
xét xử lần đầu nội dung vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm. Còn giai đoạn xét
xử sơ thẩm có nhiệm vụ giải quyết lần đầu vụ án dân sự và ra bản án, quyết
định hợp pháp và có căn cứ…
- Giai đoạn CBXXPT xác định phạm vi các chủ thể tiến hành tố tụng
và tham gia tố tụng. Đó là, Tòa án cấp phúc thẩm, VKS, những người có
22
quyền kháng cáo, kháng nghị, những người tham gia tố tụng có liên quan đến
việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị hoặc những người tham gia tố tụng
khác mà Tòa án cấp phúc thẩm thấy cần thiết cho việc giải quyết kháng cáo,
kháng nghị. Đặc điểm này cũng khác với các giai đoạn khác như giai đoạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm có Tòa án cấp sơ thẩm, các đương sự và những người
tham gia tố tụng khác.
- Các quyết định ở giai đoạn này có thể là quyết định đưa vụ án ra xét
xử phúc thẩm, quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.
Các quyết định ở giai đoạn CBXXPT vụ án dân sự cũng khác với các giai
đoạn khác. Ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án ra một trong các
quyết định sau: quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, quyết định tạm đình
chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự. Ở giai đoạn xét xử theo trình tự phúc thẩm thì Tòa án ra
bản án, quyết định phúc thẩm. Ở giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm Tòa án ra
quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm.
Vậy, dưới góc độ là giai đoạn tố tụng, CBXXPT vụ án dân sự là giai
đoạn của quá trình TTDS, trong đó Tòa án cấp phúc thẩm chuẩn bị các điều
kiện cần thiết để đưa vụ án dân sự ra xét xử tại phiên tòa phúc thẩm được
khách quan, công bằng và đúng pháp luật.
Dưới góc độ hoạt động TTDS: Như đã phân tích ở phần 1.1.2 quá
trình TTDS bao gồm rất nhiều các hoạt động TTDS khác nhau của Tòa án,
VKS, đương sự và những người tham gia tố tụng. Trong đó, CBXXPT vụ án
dân sự là một trong các hoạt động của TTDS nhằm chuẩn bị các điều kiện cần
thiết để đưa vụ án dân sự ra xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Nếu như hoạt động thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự là hoạt động khởi
điểm, là tiền đề để Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành các hoạt động tiếp theo
như chuẩn bị xét xử phúc thẩm, xét xử phúc thẩm và ra bản án, quyết định
phúc thẩm thì hoạt động CBXXPT vụ án dân sự là cơ sở để Tòa án cấp phúc
23
thẩm mở phiên tòa xét xử phúc thẩm. Do đó, để Tòa án cấp phúc thẩm ra
được một bản án, quyết định phúc thẩm chính xác và đúng pháp luật thì hoạt
động CBXXPT vụ án dân sự phải tuân theo thể thức, trình tự do pháp luật
TTDS quy định.
Hoạt động CBXXPT vụ án dân sự là một hoạt động tố tụng gồm một
chuỗi nhưng công việc có liên quan mật thiết với nhau nhằm chuẩn bị các
điều kiện cho việc xét xử phúc thẩm vụ án dân sự. Hoạt động này bao gồm:
thành lập hội đồng xét xử phúc thẩm, chỉ định thư ký Tòa án; thông báo thụ lý
phúc thẩm vụ án dân sự; nghiên cứu hồ sơ vụ án; kiểm tra lại tính hợp pháp
của kháng cáo, kháng nghị (kiểm tra đối tượng kháng cáo, kháng nghị, kiểm
tra hình thức đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị, kiểm tra chủ thể kháng
cáo, kiểm tra phạm vi kháng cáo, kháng nghị); chuyển hồ sơ cho VKS cùng
cấp; yêu cầu đương sự bổ sung cung cấp chứng cứ; giải quyết vấn đề thay đổi,
bổ sung kháng cáo, kháng nghị, rút kháng cáo, kháng nghị; giải quyết vấn đề
thay đổi người tiến hành tố tụng; triệu tập đương sự Trong trường hợp có
quyết định đưa vụ án xét xử thì hoạt động CBXXP vụ án dân sự còn bao gồm
cả những hoạt động chuẩn bị cho phiên tòa phúc thẩm được diễn ra như triệu
tập đương sự và những người có liên quan, gửi thông báo cho VKS, chuẩn bị
hội trường xét xử
Vậy, dưới góc độ hoạt động TTDS, CBXXPT vụ án dân sự là hoạt
động tố tụng của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc chuẩn bị các điều kiện cần
thiết để đưa vụ án dân sự ra xét xử tại phiên tòa phúc thẩm được khách quan,
công bằng và đúng pháp luật.
Dưới góc độ là một thủ tục TTDS: Như đã phân tích ở phần 1.1.2 nếu
như thủ tục thụ lý phúc thẩm vụ án dân sự là thủ tục nhằm tiếp nhận vụ án dân
sự từ Tòa án cấp sơ thẩm để xét xử lại vụ án dân sự trên cơ sở kháng cáo,
kháng nghị hợp pháp đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật thì CBXXPT vụ án dân sự là thủ tục tiếp theo trong trình tự giải
24
quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm được thực hiện sau khi Tòa án
cấp phúc thẩm thụ lý vụ án.
Thủ tục CBXXPT vụ án dân sự là tiền đề, cơ sở cho việc Tòa án cấp
phúc thẩm tiến hành thủ tục xét xử tại phiên tòa. Nếu không có thủ tục
CBXXPT vụ án dân sự thì Tòa án cấp phúc thẩm không thể tiến hành thủ tục
xét xử tại phiên tòa phúc thẩm.
Hoạt động CBXXPT vụ án dân sự và pháp luật TTDS là hai mặt
không thể tách rời của quá trình TTDS. Pháp luật TTDS là cơ sở pháp lý cho
hoạt động CBXXPT vụ án dân sự, do đó thủ tục CBXXPT vụ án dân sự phải
được pháp luật TTDS quy định. Hơn nữa, như đã phân tích hoạt động
CBXXPT vụ án dân sự gồm một chuỗi những công việc có liên quan mật thiết
với nhau nên thủ tục CBXXPT vụ án dân sự cũng bao gồm nhiều thủ tục khác
nhau được thực hiện nhằm chuẩn bị các điều kiện cho việc xét xử tại phiên
tòa phúc thẩm.
Vậy, dưới góc độ là một thủ tục TTDS, thủ tục CBXXPT vụ án dân sự
là cách thức, trình tự Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành các hoạt động chuẩn bị
các điều kiện cần thiết để đưa vụ án dân sự ra xét xử tại phiên tòa phúc thẩm
được khách quan, công bằng và đúng pháp luật.
Dưới góc độ chế định của pháp luật TTDS thì CBXXPT vụ án dân
sự là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong
quá trình Tòa án chuẩn bị các điều kiện cần thiết để xét xử lại vụ án dân sự
theo thủ tục phúc thẩm.
Sau khi bản án, quyết định sơ thẩm được tuyên, nếu trong thời hạn
pháp luật quy định, các đương sự kháng cáo, VKS kháng nghị và kháng cáo,
kháng nghị hợp pháp thì các quan hệ phát sinh trong quá trình Tòa án cấp
phúc thẩm giải quyết lại vụ án dân sự bắt đầu hình thành. Trong đó, các quan
hệ phát sinh trong giai đoạn CBXXPT vụ án dân sự bao gồm các quan hệ giữa
25
Tòa án, VKS, người có quyền kháng cáo, kháng nghị, những người tham gia
tố tụng có liên quan đến việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị và những
người tham gia tố tụng khác. Các chủ thể tham gia vào các quan hệ này có
nhiệm vụ, quyền hạn và địa vị pháp lý khác nhau nhưng đều được điều chỉnh
bằng các quy phạm pháp luật cụ thể và đều nhằm thực hiện mục đích của
CBXXPT là chuẩn bị những điều kiện cần thiết đảm bảo cho việc xét xử lại
vụ án dân sự theo trình tự phúc thẩm.
Nội dung của chế định CBXXPT vụ án dân sự quy định về các vấn đề
pháp lý liên quan đến việc CBXXPT như nhận hồ sơ vụ án dân sự, kháng cáo,
kháng nghị; thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, các công việc để chuẩn bị
cho việc mở phiên tòa phúc thẩm, các quyết định tố tụng trong thời hạn chuẩn
bị xét xử phúc thẩm. Dấu hiệu về nội dung này là một trong những dấu hiệu
để phân biệt chế định CBXXPT vụ án dân sự với các chế định khác trong
pháp luật TTDS.
Vậy, chế định CBXXPT vụ án dân sự có thể được hiểu như sau: Chế
định CBXXPT vụ án dân sự là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ phát sinh trong quá trình Tòa án cấp phúc thẩm chuẩn bị các
điều kiện cần thiết để đưa vụ án dân sự ra xét xử tại phiên tòa phúc thẩm.
1.1.2. Đặc điểm của thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án
dân sự
Trong phạm vi của luận vặn này tác giả tập trung nghiên cứu theo góc
độ về những quy định của BLTTDS về thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự và
thực tiễn thực hiện. Như đã phân tích ở trên, thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự
là những bước đầu tiên của quá trình Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại vụ
án dân sự. Thụ lý và CBXXPT vụ án dân sự cùng tạo tiền đề, điều kiện cần thiết
cho việc xét xử lại vụ án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm nhưng do phúc thẩm là
thủ tục xét xử lại vụ án dân sự và thụ lý, CBXXPT vụ án dân sự có nhiệm
vụ khác nhau nên chúng có những đặc điểm riêng.