Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Một số vấn đề về hợp đồng dân sự vô hiệu - thực trạng và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (965.04 KB, 132 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




PHẠM BÁ ĐÔNG






MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU -
THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2013



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



PHẠM BÁ ĐÔNG





MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU -
THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆn

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Đăng Hiếu




HÀ NỘI - 2013


3








MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU

7
1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu 7
1.1.1.

Khái niệm hợp đồng dân sự và sự tác động của hợp đồng dân
sự trong quan hệ pháp luật dân sự
7
1.1.2.

Hiệu lực của hợp đồng dân sự và việc vô hiệu của hợp đồng
dân sự
10
1.1.3.

Đặc điểm của hợp đồng dân sự vô hiệu 20
1.2. Phân loại hợp đồng dân sự vô hiệu 24
1.2.1.

Căn cứ vào tính chất trái pháp luật của quan hệ pháp luật dân
sự trong hợp đồng
24
1.2.2.

Căn cứ vào mức độ của sự vô hiệu 28
1.3. Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu 31
1.3.1.

Nguyên tắc khi xử lý hợp đồng dân sự vô hiệu 31
1.3.2.


Nội dung hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu 32

4
1.4. Khái quát quá trình phát triển của pháp luật dân sự Việt Nam
về hợp đồng dân sự vô hiệu
43
1.4.1.

Giai đoạn 1945 đến năm 1991 43
1.4.2.

Giai đoạn từ 1991 đến 2005 45
1.4.3.

Giai đoạn từ 2005 đến nay 46
1.5. Pháp luật một số nước trên thế giới quy định về hợp đồng dân
sự vô hiệu
46
1.5.1.

Năng lực hành vi 46
1.5.2.

Giả tạo 47
1.5.3.

Trái đạo đức và trái pháp luật 48
1.5.4.

Hình thức 48

1.5.5.

Nhầm lẫn 49
1.5.6.

Lừa dối 50
1.5.7.

Đe dọa 51
Chương 2:
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP HỢP
ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU

53
2.1. Khái quát tình hình hợp đồng dân sự vô hiệu 53
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu trong
một số trường hợp
54
2.2.1.

Hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện năng lực của
chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng
54
2.2.2.

Hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm tính tự nguyện của chủ
thể khi tham gia quan hệ pháp luật hợp đồng
62
2.2.3.


Hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm về hình thức luật định 79
2.3. Nhận xét pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu và thực tiễn
áp dụng
84

5
2.3.1.

Những mặt tích cực 84
2.3.2.

Những mặt hạn chế 89
Chương 3:
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU

100
3.1. Nhầm lẫn trong giao kết hợp đồng dân sự 100
3.1.1.

Ghi nhận thêm trường hợp dẫn tới nhầm lẫn 100
3.1.2.

Bổ sung yếu tố nhầm lẫn về chủ thể cũng dẫn tới hợp đồng vô hiệu

101
3.1.3.

Điều kiện "không chấp nhận" và mối tương quan để "Tòa án
tuyên bố giao dịch vô hiệu"

103
3.1.4.

Khái niệm "nhầm lẫn" 104
3.2. Người thứ ba trong trường hợp hợp đồng dân sự vô hiệu do bị
lừa dối, bị đe dọa
104
3.3. Điều kiện dẫn tới hợp đồng dân sự vô hiệu do bị đe dọa 106
3.3.1.

Điều kiện về hành vi cố ý buộc bên kia thực hiện giao dịch 106
3.3.2.

Điều kiện ràng buộc để hợp đồng có thể bị tuyên vô hiệu do bị
đe dọa
107
3.4. Giả tạo dẫn tới hợp đồng dân sự vô hiệu 108
3.5. Vấn đề vi phạm hình thức hợp đồng và tương quan sự vô hiệu
hợp đồng
109
3.5.1.

"Trường hợp pháp luật có quy định khác" tại đoạn 2 khoản 2
Điều 401 Bộ luật Dân sự năm 2005
109
3.5.2.

Điều kiện không thực hiện khắc phục hình thức và vấn đề hợp
đồng vô hiệu do vi phạm hình thức
112

3.6. Cách tính thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu
theo quy định tại khoản 1 điều 136 bộ luật dân sự
113
3.7. Xây dựng nguyên tắc "tự do hợp đồng" để duy trì hiệu lực hợp
đồng dân sự khi vô hiệu
115

6
3.8. Sử dụng án lệ khi giải quyết hợp đồng dân sự vô hiệu 117

KẾT LUẬN
119

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
121


7



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BLDS : Bộ luật dân sự
HĐDS : Hợp đồng dân sự
PACL : Bộ nguyên tắc Luật hợp đồng Châu Á
PLDS : Pháp luật dân sự
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao




8
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc xác lập hợp đồng dân sự là một trong những phương thức hiệu
quả đối với các chủ thể khi tham gia xác lập quan hệ pháp luật dân sự (PLDS)
nhằm hướng tới quyền, lợi ích muốn đạt được. Hơn thế, đặt trong tương quan
với pháp luật thế giới và sự phát sinh nhiều quan hệ dân sự mới thì hợp đồng
dân sự (HĐDS) lại có ý nghĩa quan trọng, vì hợp đồng ghi nhận và ràng buộc
quyền, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ. Bởi thế PLDS Việt Nam quy định
khá chi tiết, cụ thể, phù hợp với điều kiện xã hội, hoàn cảnh cũng như pháp
luật thế giới về hợp đồng. Đây là cơ sở duy trì tính ổn định của các quan hệ
dân sự trong giao lưu dân sự. Để được pháp luật công nhận và bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp thì các bên trong hợp đồng phải tuân thủ một số điều kiện
nhất định - đó là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Việc vi phạm một trong
các điều kiện có hiệu lực sẽ dẫn tới hậu quả là hợp đồng bị vô hiệu. Tuy
nhiên, khi vận dụng quy định của PLDS về tính vô hiệu của hợp đồng vào
thực tế, người áp dụng pháp luật đã có những cách hiểu khác nhau, vận dụng
khác nhau dẫn tới đường lối xử lý chưa thống nhất, chưa rõ ràng. Ngay trong
nội tại chế định hợp đồng vô hiệu việc hiểu như thế nào là "nhầm lẫn" để
được coi là một trong những yếu tố tuyên bố hợp đồng vô hiệu khi điều này
xảy ra? Hay như việc xác lập HĐDS của người chưa thành niên đối với những
giao dịch giá trị không lớn có bị coi là vô hiệu hay không? Giá trị hợp đồng
như thế nào được coi là giá trị nhỏ và giá trị lớn; Hoặc là hai bên mua bán tài
sản hình thành trong tương lai nhưng cuối cùng đối tượng của hợp đồng lại
không thể thực hiện được thì giải quyết theo hướng nào? … Ngoài ra, theo xu
hướng phát triển của nền kinh tế với quá trình phát triển một cách nhanh

chóng liên quan đến bất động sản và hàng loạt giao dịch bất động sản đang
hiện diện thực tế trong đời sống xã hội. Điều này kéo theo sự lách luật - nhất

9
là trong nghĩa vụ nộp thuế khi chuyển nhượng, sang tên quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở. Do đó giá trị hợp đồng so với giá trị thực tế mà các bên
giao dịch có sự không đồng nhất hoặc việc mua bán giữa các bên không lập
hợp đồng bằng văn bản theo quy định Cho nên số lượng tranh chấp liên
quan đến HĐDS đang có xu hướng gia tăng, mà chính sự vi phạm điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Hơn thế việc xử lý hậu
quả khi HĐDS vô hiệu còn nhiều hạn chế. Chẳng hạn như việc hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận giữa các bên chủ thể trong hợp đồng được thực hiện
trên thực tế như thế nào? Hay đối với những tài sản khi chuyển giao theo
hợp đồng mua bán đất đai mà người mua đã xây dựng nhà kiên cố và đã
được sử dụng trong một thời gian dài thì khi hợp đồng này vô hiệu các bên
hoàn trả ra sao? Chính bởi vậy, nghiên cứu một cách có hệ thống quy định
này giúp làm rõ lý luận cơ bản và những nguyên tắc chung nhất cho việc áp
dụng vào thực tế. Qua đó cũng khái quát vấn đề để đề xuất cơ quan, ban,
ngành có liên quan hướng hoàn thiện nhất định nhằm đảm bảo lợi ích của
các chủ thể tham gia trong quan hệ dân sự, cao và xa hơn nữa là lợi ích kinh
tế, sự bình ổn xã hội.
Vì các lẽ trên, tác giả lựa chọn đề tài "Một số vấn đề về hợp đồng dân
sự vô hiệu - Thực trạng và hướng hoàn thiện" cho luận văn tốt nghiệp cao
học luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hợp đồng dân sự vô hiệu đã được nhiều nhà khoa học pháp lý nghiên
cứu dưới góc độ lý luận cũng như thực tiễn giải quyết tranh chấp, có thể trực
tiếp hoặc gián tiếp, chẳng hạn như: "Chế định hợp đồng dân sự vô hiệu và yêu
cầu sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự năm 2005", của Bùi Thị Thanh Hằng,
Tạp chí Khoa học (Kinh tế - Luật), 2010; "Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối

và giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối", của TS. Bùi Đăng Hiếu, Tạp chí Luật
học, số 5, 2001; "Tính chất đền bù của hợp đồng dân sự vô hiệu", của TS. Bùi

10
Đăng Hiếu, Tạp chí Luật học, số 11, 2006; "Hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu
quả pháp lý của nó", Theo Lelawfirm, ; "Coi chừng vi
phạm hình thức hợp đồng", của Lê Trọng Dũng - Văn phòng Luật sư Gia
Phạm, đăng trên Thời báo kinh tế Sài Gòn; "Để tránh lạm dụng tuyên hợp
đồng vô hiệu", của TS. Nguyễn Quốc Vinh, đăng trên Thời báo kinh tế Sài
Gòn; "Hợp đồng dân sự vô hiệu và giá trị của hợp đồng dân sự với người thứ
ba" của TS. Lê Kim Quế, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2, 2006… Điều này
cho thấy vấn đề HĐDS đã, đang được quan tâm rất lớn từ những nhà nghiên
cứu, giảng dạy pháp luật cho đến những người áp dụng, thực hiện pháp luật.
Mỗi bài viết nêu trên của các tác giả đã tiếp cận về vấn đề HĐDS ở nhiều góc
độ khác nhau và là tài liệu quý giá cho quá trình nghiên cứu của tác giả.
Chẳng hạn, với bài viết của TS. Bùi Đăng Hiếu cho thấy cái nhìn tổng quan,
khái quát nhất về phân biệt loại HĐDS vô hiệu, hay ảnh hưởng tới người thứ
ba khi HĐDS vô hiệu với việc xác lập hợp đồng có tính chất đền bù hoặc
không đền bù, qua đó giúp những nhà nghiên cứu, thực thi luật có cách tiếp
cận, áp dụng phù hợp nhất; hay như bài viết của tác giả Bùi Thị Thanh Hằng
nêu trên lại tiếp cận HĐDS vô hiệu trên cơ sở thực tiễn áp dụng; hoặc như bài
viết của TS. Nguyễn Quốc Vinh thì lại chỉ ra xu hướng lạm dụng vấn đề vô
hiệu của hợp đồng để chiếm đoạt lợi ích riêng cho bản thân chủ thể, chứ việc
xác lập hợp đồng không dựa trên nguyên tắc tự do thỏa thuận, công bằng,
trung thực.
Đối với đề tài mà tác giả lựa chọn để làm luận văn cao học, tác giả chỉ
xem xét trong một số phạm vi nhất định - đó là một số yếu tố trên thực tế còn
có những điểm hạn chế cần phải giải quyết - để hy vọng đóng góp một phần
rất nhỏ trong định hướng cải cách PLDS phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh xã
hội và nền kinh tế của đất nước. Tác giả cũng mong muốn đề tài có tính bước

đệm sau này trong quá trình nghiên cứu và đề xuất hoàn thiện chế định HĐDS
vô hiệu.

11
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ các khía cạnh liên quan đến
chế định HĐDS vô hiệu được quy định trong PLDS Việt Nam, từ sự phát
triển của chế định trên cho đến sự áp dụng vào thực tiễn. Bên cạnh đó luận
giải khái niệm, đặc điểm pháp lý và ý nghĩa của HĐDS vô hiệu trong chế định
chung về hợp đồng. Ngoài ra, luận văn sẽ phân tích thực tiễn giải quyết hậu
quả pháp lý khi HĐDS vô hiệu. Từ những nội dung nêu trên và đặt cạnh các
quy định của pháp luật thế giới để thấy tính ưu nhược của các quy định hiện
hành, nhằm có cách nhìn nhận đánh giá hiệu quả mà PLDS hiện hành quy
định. Luận văn còn có những đề xuất phương hướng hoàn thiện, góp phần
thúc đẩy giao lưu dân sự trong đời sống xã hội và nền kinh tế của đất nước.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích và luận giải các khái niệm cơ bản của HĐDS vô hiệu; phân
loại chúng; đánh giá ý nghĩa của quy định này và hậu quả cũng như cách xử
lý khi HĐDS vô hiệu xảy ra;
- Khái quát được quá trình hình thành và phát triển của chế định HĐDS
vô hiệu qua các giai đoạn quan hệ PLDS khác nhau của Việt Nam;
- Tìm hiểu và chọn lọc các quy định của một số nước trên thế giới
như: Pháp, Nhật, Đức, Mỹ … để thấy được tính hiện đại và sự tương quan với
sự ghi nhận của PLDS Việt Nam;
- Nghiên cứu thực tiễn quá trình áp dụng quy định này; những mặt tích
cực, hạn chế thông qua những vụ việc cụ thể;
- Đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về
HĐDS vô hiệu và phần nào định hướng cho nhà làm luật trong tương lai coi

là nguồn tham khảo đầy ý nghĩa.

12
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề HĐDS vô hiệu và thực tiễn giải
quyết một số trường hợp HĐDS vô hiệu và đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp
luật trong việc xử lý HĐDS vô hiệu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã vận dụng phương pháp phân tích để chỉ ra những khía cạnh
khác nhau của các quy định pháp luật, qua đó nêu bật được tinh thần của
điều luật và góp phần giải thích luật trong thực tế quá trình áp dụng thực
tiễn. Chế định HĐDS vô hiệu tồn tại không chỉ ngay trong thời kỳ Nhà nước
Việt Nam giành được độc lập và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà ngay
từ thời kỳ phong kiến hay tư sản các quy định HĐDS vô hiệu đã hiện diện.
Vì thế trong quá trình nghiên cứu, đề tài cũng sử dụng phương pháp hệ
thống hóa nhằm mục đích tổng kết sơ bộ quá trình hình thành và phát triển
của chế định làm tiền đề đánh giá tinh thần chung của các quy định liên
quan. Một trong những phương pháp quan trọng không hề kém đó là phương
pháp so sánh luật học. So sánh luật học không chỉ dừng lại ở việc so sánh
các quy định pháp luật trong nước với nhau mà đề tài còn hướng tới so sánh
với pháp luật về HĐDS vô hiệu ở một số nước trên thế giới, nhằm tìm thấy
điểm tương đồng giữa các quy định về cùng một vấn đề; những mặt còn tồn
tại hay những mặt tiên tiến cần phải điều chỉnh, tiếp thu để các quy định
pháp luật hiện hành về HĐDS vô hiệu phù hợp với thực tế quan hệ dân sự
đang tồn tại trong xã hội. Ngoài một số phương pháp nghiên cứu nêu trên đề
tài cũng sử dụng cách thức tiếp cận truyền thống là đi từ nghiên cứu lý
thuyết cơ bản cho đến thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng và đề
xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
6. Những điểm mới của luận văn
- Có sự tham khảo, so sánh, phân tích quá trình thay đổi của các quy

định PLDS Việt Nam về HĐDS vô hiệu và PLDS một số nước trên thế giới.

13
Qua đó cho thấy sự kế thừa và phát triển, đề ra những định hướng trong thời
gian tới của quy định chế định trên trong mối quan hệ PLDS.
- Tổng hợp một số quan điểm và đưa ra khái niệm khoa học mới trong
PLDS Việt Nam về các vấn đề xung quanh HĐDS vô hiệu.
- Chỉ ra tính tích cực, khả thi mà PLDS đã giải quyết được. Đồng thời
nêu bật lên những hạn chế còn tồn tại trong thực hiện, áp dụng, xử lý trong
trường hợp HĐDS vô hiệu.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện về mặt luật nội dung cũng như thực tiễn
áp dụng.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu về HĐDS vô hiệu
trong bối cảnh vai trò hợp đồng chiếm một vị trí ngày càng quan trọng trong
các giao dịch dân sự hiện nay.
- Luận văn chỉ ra những hạn chế và đề xuất hướng giải pháp qua đó
đảm bảo tốt hơn quyền lợi ích của chủ thể tham gia quan hệ PLDS; quyền tự
do hợp đồng của các bên.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu bổ ích cho những
người làm công tác áp dụng pháp luật.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các sinh viên
luật và những người không chuyên về luật và cho những đối tượng khác nhau.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hợp đồng dân sự vô hiệu.
Chương 2: Thực tiễn giải quyết một số trường hợp hợp đồng dân sự
vô hiệu.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng

dân sự vô hiệu.

14
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU

1.1. KHÁI NIỆM HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU
1.1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự và sự tác động của hợp đồng
dân sự trong quan hệ pháp luật dân sự
1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự
Việc điều chỉnh bằng quan hệ xã hội bằng hợp đồng đã được áp dụng
từ lâu và được hoàn thiện hơn khi Việt Nam xây dựng đất nước nhất là phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cho nên chế định
hợp đồng được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo Geoffrey Samuel:
Khái niệm hợp đồng trong hệ thống Civil Law bị chi phối
bởi ba nguyên tắc: (1) hợp đồng được xem là kết quả chung của sự
gặp gỡ ý chí của các bên; (2) pháp luật do các bên lập ra để ràng
buộc chính các bên trong hợp đồng. Vì sự ràng buộc của hợp đồng
không chỉ là hiệu lực pháp lý được dự liệu bởi các bên, mà đó còn
là hiệu lực được đảm bảo bởi pháp luật, bởi tập quán hoặc bởi yêu
cầu của nguyên tắc thiện chí, nhằm xác lập trách nhiệm thực thi hợp
đồng phù hợp với bản chất của hợp đồng; (3) tự do hợp đồng: các
bên được tự do, trong phạm vi giới hạn của luật công và trật tự công
cộng, để tạo ra loại hợp đồng mà họ muốn, thậm chí điều đó có thể
là vô lý theo cách nhìn nhận của người khác [63].
Theo hệ thống pháp luật Common Law thì hợp đồng được coi là cam
kết đơn giản, thể hiện bằng những hành vi pháp lý cụ thể của mỗi bên và sau
này, các "thẩm phán theo chủ nghĩa thực dụng (pragmatic) ở Anh đã xem xét
hợp đồng như là một nghĩa vụ được tạo ra bởi sự gặp gỡ ý chí giữa các bên" [63].
Tại Việt Nam, hợp đồng được xem xét dưới hai phương diện: khách quan và


15
chủ quan. Theo phương diện khách quan, HĐDS là một bộ phận các quy phạm
pháp luật được quy định cụ thể trong Bộ luật Dân sự (BLDS), thể hiện thừa
nhận, yêu cầu của Nhà nước đối với giao lưu dân sự, thể hiện ý chí của Nhà
nước, "nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội (chủ yếu là quan hệ tài sản) trong quá
trình dịch chuyển lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau" [36]. Theo
phương diện chủ quan thì HĐDS là kết quả của sự thỏa thuận, thống nhất ý
chí của các bên chủ thể nhằm mục đích "… xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự" [56] được thỏa thuận cụ thể của mỗi bên để có cơ sở
cùng nhau thực hiện. Luật Hợp đồng Trung Quốc quy định:
Hợp đồng theo quy định của Luật này là sự thỏa thuận về
việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các chủ
thể bình đẳng tự nhiên nhân, các tổ chức khác. Các thỏa thuận liên
quan đến quan hệ hôn nhân, nhận con nuôi, giám hộ… thích dụng
với quy định của các luật khác [53].
Hay theo PLDS của nước Nga "Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai
hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự" [57].
Hoặc như ghi nhận tại PLDS Canada thì "Hợp đồng dân sự là sự thống nhất
ý chí, theo đó một hoặc nhiều chủ thể phải thực hiện những cam kết đã định
vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác" [55]. Như vậy về bản chất
HĐDS được tạo ra bởi sự thỏa thuận của các bên, là kết quả của quá trình
đàm phán, thương lượng thống nhất ý chí giữa các bên để làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ đối với nhau, trừ những quyền, nghĩa
vụ mà pháp luật quy định không thể thay đổi hoặc chấm dứt bằng sự thỏa
thuận của các bên. Và theo các nhà soạn thảo quy định của luật dân sự Việt
Nam định nghĩa "Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự" [28, Điều 388] là sự
hợp lý tất yếu và thuyết phục, có tính khái quát cao, phản ánh đúng bản chất
quan hệ dân sự.


16
1.1.1.2. Sự tác động của hợp đồng dân sự trong mối quan hệ pháp
luật dân sự
- Quan hệ PLDS
Trong quan hệ PLDS có sự tham gia của các chủ thể mang quyền,
nghĩa vụ nhất định. Chủ thể quan hệ PLDS bao gồm: cá nhân (công dân Việt
Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch), pháp nhân, hộ gia đình, tổ
hợp tác và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (chủ thể đặc biệt).
Tham gia trong quan hệ này ít nhất là có hai bên: một bên có quyền và một
bên có nghĩa vụ, các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể có tính chất
tương xứng và đối lập nhau, nhằm hướng tới khách thể nhất định. Khách thể
là một trong các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật nói chung và quan hệ
PLDS nói riêng. Khách thể chính là "cái" mà các chủ thể hướng tới. Chẳng
hạn trong quan hệ pháp luật về quyền sở hữu thì khách thể là tài sản, trong
quan hệ nhân thân là các giá trị nhân thân… Do vậy nội dung của quan hệ
PLDS chính là tổng hợp các quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự của chủ thể
trong một quan hệ PLDS cụ thể. Tuy nhiên, để đảm bảo và kết nối lợi ích,
cũng như quyền của chủ thể trong quan hệ hay giá trị các bên chủ thể hướng
tới thì cần phải có một biện pháp ghi nhận lại sự thể hiện, giao kết giữa các
bên trong quan hệ.
- Sự tác động của HĐDS trong mối quan hệ PLDS
Thứ nhất, trong giao dịch dân sự mỗi bên đều hướng tới mục đích, lợi
ích riêng, và hợp đồng là kết quả của sự dung hòa các lợi ích đối lập này. Tuy
nhiên mục đích của hợp đồng luôn mang tính pháp lý - khách thể của quan hệ
PLDS ("cái" mà các bên hướng tới trong quan hệ hợp đồng) chính là những
hậu quả pháp lý: nhằm phát sinh, thay đổi chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự
nhất định. Nếu đơn thuần chỉ là sự thỏa thuận giữa các bên không nhằm làm
phát sinh, thay đổi hay chấm dứt bất kỳ một quyền hoặc nghĩa vụ dân sự cụ
thể nào thì sẽ không hình thành nên quan hệ hợp đồng.


17
Thứ hai, HĐDS là căn cứ chủ yếu phát sinh nghĩa vụ dân sự, ràng
buộc trách nhiệm với các bên trong quan hệ PLDS, cũng như khi giải quyết
tranh chấp giữa các bên. BLDS 2005 định nghĩa:
Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể
(sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển
giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc
không thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều
chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền) [28, Điều 280].
HĐDS chính là nơi thể hiện và ghi nhận các bên trong quan hệ nghĩa
vụ dân sự; một bên có quyền và một bên có nghĩa vụ gắn bó với nhau bởi các
quy định trong từng điều khoản cụ thể của hợp đồng phát sinh theo quy phạm
của pháp luật.
Thứ ba, trong quan hệ PLDS, các bên chủ thể luôn hướng tới một mục
đích nhất định để đạt được. Mục đích này được mỗi bên xây dựng và thỏa
thuận thống nhất với nhau bằng văn bản, ràng buộc bởi quy định cụ thể.
Quyền của chủ thể này tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể kia. Mỗi bên tham
gia trong hợp đồng đều chịu sự điều chỉnh bởi quy định đã được đặt ra dựa
trên ý chí chung xác lập. Bất kỳ chủ thể nào nếu thực hiện trái với sự ghi nhận
đó đều phải chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình. Các bên chủ thể phải
tuân thủ và thực hiện cho đến thời điểm chấm dứt nghĩa vụ tương ứng của
mỗi bên. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng, mỗi bên đều có thể
thay đổi nội dung trong hợp đồng trên cơ sở thỏa thuận
1.1.2. Hiệu lực của hợp đồng dân sự và việc vô hiệu của hợp đồng
dân sự
1.1.2.1 Hiệu lực của hợp đồng dân sự
- Khái niệm hiệu lực của hợp đồng dân sự
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học thì "hiệu lực của hợp đồng
dân sự" là "giá trị bắt buộc thi hành đối với các chủ thể tham gia giao kết hợp


18
đồng" [37], và như vậy chủ thể giao kết hợp đồng hoặc chủ thể thực hiện
hợp đồng chưa chắc là chủ thể của hợp đồng đó. Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm
1931 và Bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936 cũng có đề cập đến hiệu lực của
hợp đồng, theo đó "các hợp ước được kết lập cũng có hiệu lực như luật pháp
đối với các bên kết ước" [2, Điều 673]. Hoặc tại Bộ Dân luật Sài Gòn năm
1972 quy định về hiệu lực của khế ước, theo đó có giá trị là luật với các bên,
chỉ có thể hủy bỏ trên cơ sở thỏa thuận chung hoặc theo những căn cứ do pháp
luật quy định [4, Điều 713]. Như vậy các bên không thể hủy bỏ hợp đồng nếu
không dựa trên ý chí tự nguyện của tất cả các bên tham gia trong quan hệ
hoặc có những căn cứ khác do pháp luật quy định dẫn chiếu đến. Điều này
được kề thừa và ghi nhận tại Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991: "Hợp
đồng dân sự chỉ được sửa đổi, chấm dứt theo thỏa thuận của các bên hoặc
theo quy định của pháp luật" [51, Điều 8]. Bên cạnh đó BLDS năm 1995 lại
quy định về hiệu lực hợp đồng như sau: "1. Hợp đồng được giao kết hợp pháp
có hiệu lực bắt buộc đối với các bên; 2. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc
hủy bỏ, nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định…" [26, Điều 404]. Đến
BLDS 2005 thì không quy định một cách cụ thể về hiệu lực hợp đồng mà chỉ
quy định khái quát "hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời
điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác" [28, Điều 405], đã thể hiện rõ bản chất của khái niệm hợp đồng; có sự
kết thừa và phát huy từ những quy định trước đó về hiệu lực hợp đồng. Như
vậy, qua một số nhận xét nêu trên có thể thấy hiệu lực của hợp đồng là một
giá trị pháp lý mà các bên tham gia trong quan hệ khi đã xác lập phải tôn
trọng và thực hiện nghiêm túc quyền và nghĩa vụ tương ứng của mình.
- Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự
Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là một trong những quy định được
PLDS nhiều nước trên thế giới thừa nhận. Theo quy định của PLDS Cộng hòa
Pháp thì hợp đồng có hiệu lực khi thỏa mãn bốn điều kiện chủ yếu [25, Điều 1108]:

(1) Các giao kết hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện; (2) Các bên giao kết

19
phải là người có năng lực để giao kết hợp đồng; (3) Đối tượng và nội dung
chủ yếu của hợp đồng phải được xác định; (4) Mục đích, căn cứ của hợp đồng
phải hợp pháp. BLDS năm 2005 quy định cũng khá tương đồng, trong đó xác
định điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự gồm có: (1) Người tham gia
giao dịch có năng lực hành vi dân sự; (2) Mục đích và nội dung của giao dịch
không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; (3) Người
tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện; (4) Hình thức giao dịch phải theo
quy định trong trường hợp pháp luật có quy định. Mặt khác, tại BLDS năm 2005
đặt ra vấn đề: không có hiệu lực trong trường hợp hình thức hợp đồng không
tuân theo quy định của pháp luật nếu pháp luật quy định hình thức giao dịch
tương ứng với giao dịch. Theo hệ thống pháp luật Common Law, để hợp đồng
có hiệu lực thì phải tuân thủ các yêu cầu: (1) Có sự đề nghị; (2) Có sự chấp nhận
đề nghị; (3) Lợi ích đối ứng; (4) Các bên phải có ý định thực sự muốn giao kết
hợp đồng; (5) Cam kết chắc chắn và sự thỏa thuận hoàn chỉnh [62, tr. 57-68];
(6) Hoặc phải tuân thủ các quy định khác về: (a) các bên phải có năng lực chủ
thể giao kết hợp đồng; (b) không thiếu những yếu tố mà thiếu nó có thể làm
cho hợp đồng vô hiệu, bị hủy bỏ, hoặc không có giá trị pháp lý [60, tr. 3-4].
Như vậy, có thể thấy điểm chung pháp luật một số nước trên thế giới trong đó
có Việt Nam đều thừa nhận những điều kiện sau là yếu tố bắt buộc có hiệu lực
của hợp đồng.
• Chủ thể tham gia hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự
Chủ thể của HĐDS là người phải có một năng lực chủ thể nhất định.
"Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi
của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự" [28, Điều 17]. Người có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì được tự mình xác lập, thực hiện các HĐDS
trừ trường hợp người đó mất năng lực hành vi dân sự thì giao dịch của họ phải
do người giám hộ thực hiện hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì các

giao dịch liên quan tới tài sản của họ phải được sự đồng ý của người đại diện
theo pháp luật, trừ giao dịch phụ vụ nhu cầu hàng ngày; người chưa thành niên

20
"…từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi thì việc xác lập, thực hiện các hợp
đồng của người này phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch
phục vụ sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định
khác" [28, khoản 1 Điều 20]; người "từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài
sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác" [28, khoản 2 Điều 20];
người "chưa đủ 6 tuổi không có năng lực hành vi dân sự" [28, Điều 21] và
mọi giao dịch dân sự của người này phải do người đại diện theo pháp luật xác
lập, thực hiện.
• Mục đích, nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội.
Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên
chủ thể tham gia hợp đồng được thể chế bằng các điều khoản trong hợp đồng.
Mục đích của hợp đồng là "lợi ích hợp pháp mà cá bên mong muốn đạt được khi
xác lập giao dịch đó" [28, Điều 123]. Bên cạnh "điều cấm của pháp luật là những
quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất
định ; đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người
trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng" [28, Điều 128].
Điều này có trái với quy định tại Điều 4 BLDS năm 2005 hay không. Hoàn
toàn không trái, vì thỏa thuận của chủ thể tham gia trong quan hệ hợp đồng
luôn có sự hạn chế nhất định nhằm đảm bảo thỏa thuận đó thực hiện được
trong thực tế và nội dung đó không gây phương hại cho bên thứ ba nào khác.
• Người tham gia giao dịch phải hoàn toàn tự nguyện
Tự nguyện xác lập, thực hiện hợp đồng là việc chủ thể bằng chính hành
vi của mình, không bị ép buộc hay tác động của bên nào khác, tự mình quyết
định tham gia hay không tham gia vào quan hệ hợp đồng. Tính tự nguyện

xuất phát từ ý chí chủ thể và thuộc về yếu tố chủ quan, nếu không được biểu
hiện ra bên ngoài thì người khác không thể nào biết được. Bởi thế:

21
Người tham gia giao dịch (hợp đồng) hoàn toàn tự nguyện
được hiểu là: các bên tham gia giao dịch hoàn toàn tự do bày tỏ ý
chí, nguyện vọng của mình, tự nguyện thỏa thuận với nhau về các
nội dung của giao dịch mà không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép từ
phía bên kia hoặc của người khác; các bên tự nguyện thỏa thuận các
vấn đề nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự của mình [44].
• Hình thức của giao dịch phải theo quy định của pháp luật
Hình thức hợp đồng là sự biểu hiện ra bên ngoài của nội dung hợp
đồng, gồm tổng hợp các cách thức, thủ tục, phương tiện để thể hiện và công
bố ý chí của các bên, ghi nhận nội dung hợp đồng và là biểu hiện cho sự tồn
tại của hợp đồng. Theo quy định của BLDS năm 2005 hợp đồng được thể hiện
bằng một trong ba hình thức "…bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi
cụ thể khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng
một hình thức nhất định" [28, Điều 401]. Hình thức bằng lời nói hay còn gọi
là hợp đồng miệng: là sự thể hiện giao kết của các chủ thể thông qua trao đổi
trực tiếp bằng ngôn ngữ nói hoặc hành động trong việc xác lập, giao kết hợp
đồng. Hợp đồng miệng tồn tại phổ biến và thường được áp dụng đối với
những giao dịch giá trị không lớn, có sự tin tưởng giữa các chủ thể, có thể
thực hiện và chấm dứt trong khoảng thời gian ngắn. Tuy nhiên cũng chính từ
lòng tin giữa các chủ thể dẫn tới sự lợi dụng và tranh chấp khó giải quyết khi
mà pháp luật luôn đặt chứng cứ chứng minh lên hàng đầu. Quyết định Giám
đốc thẩm số 25/2005/DS-GĐT ngày 16/09/2005 của Hội đồng thẩm phán về
vụ án tranh chấp "đòi tài sản", các bên đã thỏa thuận việc mua bán nhà bằng
miệng, nên giá trị pháp lý của hợp đồng không được thừa nhận [46, tr. 259-263].
Rõ ràng việc giao kết bằng miệng luôn tiềm ẩn sự không an toàn pháp lý cho

các chủ thể trong quan hệ giao dịch. Hình thức hợp đồng bằng văn bản: là việc
giao kết giữa các chủ thể được thể hiện bằng ngôn ngữ viết hoặc thư điện tử
có giá trị ràng buộc pháp lý cao. Hình thức hợp đồng bằng văn bản được pháp

22
luật thừa nhận là nguồn chứng cứ trong quá trình giải quyết tranh chấp. Cũng
chính từ yếu tố này mà trong thời gian gần đây các bên thường lựa chọn hình
thức giao kết bằng văn bản thay cho giao kết truyền thống bằng lời nói trước
kia. Bên cạnh đó pháp luật còn quy định chặt hơn khi pháp luật ràng buộc
hình thức hợp đồng bằng văn bản trong một số trường hợp đối với một số
giao dịch phải đảm bảo điều kiện công chứng hoặc chứng thực hoặc phải
đăng ký, xin phép thì hợp đồng mới phát sinh hiệu lực, chẳng hạn hợp đồng
cần phải công chứng hoặc chứng thực như: hợp đồng liên quan đến bất động
sản, trừ trường hợp hợp đồng liên quan đến cá nhân thuê nhà ở dưới sáu
tháng; bên bán, bên cho thuê nhà ở là tổ chức có chức năng kinh doanh nhà ở;
thuê mua nhà ở xã hội; bên tặng cho nhà ở là tổ chức [29, khoản 3 Điều 93],
hoặc động sản có đăng ký quyền sở hữu; hoặc là hợp đồng phải đăng ký hoặc
xin phép như thế chấp quyền sử dụng đất; thế chấp quyền sử dụng rừng, quyền
sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng; thế chấp tàu bay, tàu biển; thế chấp một tài
sản để đảm bảo thực hiện nhiều nghĩa vụ… [8, Điều 12]. Ngoài hình thức bằng
lời nói, bằng văn bản PLDS Việt Nam còn ghi nhận một hình thức giao kết mới,
hiện đại và phù hợp với xu thế chung trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập,
đó là thông điệp dữ liệu: "Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới
hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản" [28, Điều 124].
Điều này cũng thể hiện rất tương đồng trong quy định được ghi nhận tại Luật
Thương mại năm 2005: "Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao
gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định
của pháp luật" [30, khoản 5 Điều 3]. Vì vậy, Luật Giao dịch điện tử được ban
hành năm 2005 nhằm quy định và tổng hợp lại các quy phạm liên quan đến dữ
liệu điện tử, là cơ sở pháp lý, trích yếu và tham khảo cho các chủ thể liên quan

khi cần thiết, đó là "giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử không thể bị phủ nhận
chỉ vì hợp đồng đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu" [31, Điều 34].
Như vậy có thể nói việc sử dụng hình thức văn bản dưới dạng thông điệp dữ
liệu trong quá trình thiết lập giao dịch, hợp đồng đã bù trừ và giảm gánh nặng
cho việc giao kết bằng hình thức truyền thống. Ngoài ra, hình thức hợp đồng

23
bằng hành vi cụ thể đó là hành động, là sử sự có ý thức của các bên. Thông
thường hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể được sử dụng khi bên thực
hiện hành vi giao kết hợp đồng biết rõ nội dung hợp đồng và chấp thuận tất cả
các điều kiện mà bên kia đưa ra, và bên kia không loại trừ việc trả lời bằng
hành vi, hoặc không đưa ra một yêu cầu rõ ràng về hình thức của sự trả lời
chấp nhận. Hành vi cụ thể thường được sử dụng để xác lập các hợp đồng
thông dụng, được thực hiện ngay và trở thành thói quen phổ biến của lĩnh vực
hoạt động liên quan, tại nơi giao dịch được xác lập: hành vi mua hàng bằng
máy tự động, chụp ảnh bằng máy tự động…
- Hiệu lực của hợp đồng và việc vô hiệu của HĐDS
Khái niệm HĐDS vô hiệu:
Pháp luật dân sự Việt Nam chưa có định nghĩa về HĐDS vô hiệu.
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2003 của Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng thì
"vô hiệu" được hiểu là "không có hiệu lực, không mang lại kết quả". Tuy
nhiên trên cơ sở Điều 127 của BLDS năm 2005: "Giao dịch dân sự không có
một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô
hiệu" [28], Điều 410 khoản 1 của BLDS 2005: "Các quy định về giao dịch
dân sự vô hiệu từ Điều 127 đến Điều 138 của Bộ luật này cũng được áp dụng
đối với hợp đồng vô hiệu" [28], có thể hiểu HĐDS vô hiệu là hợp đồng vi
phạm một trong các điều kiện có hiệu lực theo quy định của pháp luật, hay
còn có cách hiểu khác khi cho rằng HĐDS vô hiệu là những giao dịch được
xác lập trái với các quy định của pháp luật nên không làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ ràng buộc các bên với nhau… Ở hai khái niệm nêu trên đã bao hàm

được mối tương quan chủ yếu của hợp đồng: hiệu lực, quyền và nghĩa vụ; tuy
nhiên đưa ra cách nhìn nhận đúng bản chất của HĐDS thì chưa đầy đủ bởi:
Thứ nhất, HĐDS vô hiệu là hợp đồng không có giá trị về mặt pháp lý.
Tại sao lại nói là "không có giá trị về mặt pháp lý". Một hợp đồng có giá trị
về mặt pháp lý khi và chỉ khi: (1) Hợp đồng đó được thỏa thuận xác lập đồng

24
nhất ý chí của các bên chủ thể tuân theo những điều kiện dẫn tới hiệu lực của
hợp đồng và nguyên tắc khi xác lập hợp đồng, (2) Hợp đồng đó phải được
thực thi áp dụng trên thực tế phù hợp với quyền, nghĩa vụ, lợi ích của mỗi bên
chủ thể trong quan hệ hợp đồng, (3) Khi tranh chấp xảy ra hợp đồng phải là
căn cứ để bảo vệ những thỏa thuận đã được xác lập trong hợp đồng theo như
mong muốn, nguyện vọng của chủ thể xác lập tức là phải làm phát sinh, thay
đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Khi hợp đồng
xác lập trái với ý chí của mỗi bên tham gia giao kết hợp đồng hoặc vi phạm
điều mà pháp luật không cho phép… thì rõ ràng các bên đã đi ngược lại
những điều mà pháp luật đang bảo vệ. Rõ ràng "không có giá trị về mặt pháp
lý" có một mối quan hệ chặt chẽ tới vấn đề hiệu lực của hợp đồng.
Thứ hai, hợp đồng vô hiệu được hiểu là hợp đồng không tồn tại theo
luật hoặc không có giá trị ràng buộc các bên giao kết hợp đồng. Không tồn tại ở
đây phải hiểu theo và dựa trên các quy định mà PLDS ghi nhận. Không tồn tại
nghĩa là chưa hề xảy ra việc giao kết hợp đồng. Việc nhận định "không tồn tại"
được xem xét và đánh giá trên ý chí đích thực của chủ thể tham gia giao kết,
xác lập hợp đồng và những điều kiện để một hợp đồng đã giao kết có hiệu lực
pháp lý ràng buộc theo Điều 122 BLDS năm 2005, được pháp luật bảo vệ trên
thực tế. Cũng chính bởi HĐDS vô hiệu được coi là không tồn tại, không có
giá trị pháp lý, vì thế quyền và nghĩa vụ các bên không phát sinh theo quy
định của pháp luật; điều này có nghĩa là hợp đồng vô hiệu không có giá trị
ràng buộc các bên giao kết hợp đồng.
Thứ ba, trên thực tế các bên giao kết hợp đồng phần lớn không nhận

biết được việc giao kết có phù hợp với quy định PLDS không, do đó vẫn thực
hiện theo những thỏa thuận mà hai bên đã xác lập và cho rằng như thế là phù
hợp với mục đích chung. Điều này dẫn tới khi có tranh chấp xảy ra và các bên
yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng chứ không yêu cầu Tòa án
tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu. Bởi trong cách hiểu đơn thuần của các bên, đó
là hợp đồng đã có giá trị. Vì vậy, lấy gì làm thước đo để xác định thời điểm

25
hợp đồng có hiệu lực và hợp đồng vô hiệu có ý nghĩa quan trọng trong quá
trình khái quát khái niệm HĐDS vô hiệu. Thông thường thời điểm này chính
là thời điểm xác lập hợp đồng giữa các bên. Như vậy thiết nghĩ và có thể hiểu
khái niệm HĐDS vô hiệu như sau: Hợp đồng dân sự vô hiệu là hợp đồng
chưa tuân thủ điều kiện có hiệu lực của hợp đồng được xác định tại thời điểm
xác lập hợp đồng và có hiệu lực khi khắc phục được khiếm khuyết về điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng.
Hiệu lực của hợp đồng và việc vô hiệu của HĐDS:
Thứ nhất, hợp đồng vô hiệu là kết quả của việc vi phạm ý chí đích
thực của chủ thể hoặc xâm phạm lợi ích công cộng, lợi ích của chủ thể khác
hay đôi khi là xâm phạm đến lợi ích của chính bản thân chủ thể. Ý chí chủ thể
là nội dung cơ bản và quan trọng nhất trong hợp đồng trên cơ sở nguyên tắc
tự do thỏa thuận mà hầu hết PLDS bất kỳ quốc gia nào đã, đang thừa nhận.
Chỉ khi nào có sự thống nhất ý chí hoặc thừa nhận, chấp thuận ý chí thì khi đó
hợp đồng mới được xác lập theo cách mà chủ thể mỗi bên mong muốn. Sự giả
tạo ý chí là sự vi phạm cơ bản tự do thỏa thuận và dẫn tới kết quả giao dịch
không như định đoạt mà chủ thể hướng tới. Đoạn 1 Điều 132 BLDS năm 2005
ghi nhận: "Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa
thì có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu…" [28].
Thứ hai, chủ thể của hợp đồng là một trong những điều kiện dẫn tới
HĐDS vô hiệu. Chủ thể hợp đồng là cá nhân, tổ chức phải có đủ năng lực
hành vi dân sự, năng lực PLDS. Nhận thức được hành vi thì mới thể hiện

được ý chí mà chính bản thân chủ thể hướng tới. Bởi thế tại Điều 130 BLDS
năm 2005 có quy định giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
là hoàn toàn phù hợp với Điều 19 BLDS năm 2005 khi xác định năng lực
hành vi dân sự của người thành niên: "Người thành niên có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại Điều 22 và Điều 23 của Bộ luật
này" [28]. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người

×