Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (902.3 KB, 92 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG




NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG CỦA CÁ NHÂN

Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60 38 30



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS Phùng Trung Tập



HÀ NỘI - 2013





LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi
đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét
để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Thị Thúy Hằng







MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan

Mục lục
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
5. Cơ cấu của luận văn 4
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH
NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
CỦA CÁ NHÂN 5
1.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 5
1.1.1. Khái niệm 5
1.1.2. Đặc điểm 7
1.1.3. Ý nghĩa của việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng 11
1.1.4. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng của cá nhân 12
1.2. Sơ lược lịch sử phát triển các quy định về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân trong pháp luật dân sự Việt Nam 15
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1945 15
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước 1995 18
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1995 đến trước năm 2005 24
1.2.4. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay 26


Chương 2: NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CỦA CÁ NHÂN THEO
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH 28
2.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân có đầy đủ năng lực

hành vi dân sự 29
2.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân từ đủ mười lăm
tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi 34
2.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cha, mẹ 38
2.4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người giám hộ và trường
hợp loại trừ 46
2.4.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người được giám hộ là
người chưa thành niên gây ra 50
2.4.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi
dân sự gây ra 52
2.5. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của trường học, bệnh viện, tổ
chức khác và trường hợp loại trừ 54
2.5.1. Bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi gây ra trong
thời gian nhà trường quản lý 57
2.5.2. Bồi thường thiệt hại do người mất năng lực hành vi dân sự gây
ra trong thời gian bệnh viện, tổ chức khác quản lý 59
2.5.3. Căn cứ loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà trường,
bệnh viện, tổ chức khi người dưới mười lăm tuổi và người mất
năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian được quản lý 60
Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỂ GIẢI
QUYẾT NHỮNG TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN XÁC
ĐỊNH NĂNG LỰC TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI CỦA CÁ NHÂN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT 63


3.1. Áp dụng các quy định của pháp luật về năng lực chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân tại Tòa án 63
3.1.1. Nội dung vu án thứ 1 64
3.1.2. Nội dung vụ án thứ 2 69

3.1.3. Nội dung vu án thứ 3 72
3.2. Giải pháp hoàn thiện những qui định của pháp luật về năng lực chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân. 76
3.2.1. Về khía cạnh lập pháp 76
3.2.2. Tuyên truyền giáo dục pháp luật, nâng cao nhận thức của nhân
dân về chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 80
KẾT LUẬN 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
1
BLDS
: Bộ luật dân sự
2
BTTH
: Bồi thường thiệt hại
3
BL
: Bút lục
4
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao







1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một chế định quan
trọng trong luật dân sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho những
người bị thiệt hại từ những hành vi trái pháp luật của những chủ thể khác. Bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn gọi là trách nhiệm dân sự do gây thiệt
hại, trách nhiệm này gắn liền với quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi người
cho nên được pháp luật ghi nhận từ rất sớm.
Ở Việt Nam ý niệm này đã được hình thành từ thời vua Lê Thánh Tông
đánh dấu bởi sự ra đời của Bộ luật Hồng Đức. Tuy nhiên, cùng với sự phát
triển của hệ thống pháp luật nói chung phải đến lúc BLDS 1995 ban hành, bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng mới được định hình với tư cách là một chế
định trách nhiệm. Chế định này ghi nhận tương đối đầy đủ các căn cứ phát
sinh, nguyên tắc bồi thường, cách xác định thiệt hại, năng lực chịu trách
nhiệm về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và được hoàn chỉnh chính thức
trong BLDS 2005. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bao gồm
trách nhiệm bồi thường về vật chất và trách nhiệm bồi thường về tinh thần
phát sinh do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín… được quy định từ Điều 604 đến Điều 630 BLDS năm 2005. Các quy
định này chính là cơ sở pháp lý giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại,
góp phần quan trọng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể trong giao
lưu dân sự.
Nhưng những quan hệ dân sự thì luôn luôn phát triển đa dạng, phức tạp
nên đôi khi pháp luật không thể bắt kịp hết các quan hệ mới phát sinh trên thực

tiễn. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng vẫn được
pháp luật điều chỉnh, song chịu ảnh hưởng của các quan hệ đạo đức, truyền
thống, phong tục tập quán. Hơn nữa, các quy định pháp luật nước ta về trách


2
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chưa có sự gắn kết với các quy định
trong những phần khác của BLDS gây ra tình trạng khó áp dụng trong thực tiễn
tại các Tòa án, nhất là các vụ việc có liên quan đến việc xác định năng lực chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân theo hợp đồng và ngoài hợp đồng.
Vì vậy, vấn đề xác định năng lực chủ thể trong trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng luôn luôn đặt ra cho các nhà làm luật, những người thừa hành pháp luật
cũng như các nhà nghiên cứu luật pháp những vấn đề nan giải khi tiếp cận.
Xuất phát từ đó tôi chọn đề tài: “Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng của cá nhân” để làm luận văn thạc sĩ.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu chung của đề tài là làm rõ cơ sở lí luận và thực trạng quy định
của pháp luật về năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân
trong pháp luật dân sự Việt Nam. Từ đó đưa ra các kiến nghị, đề xuất nhằm
hoàn thiện các quy định của pháp luật trong vấn đề này, bảo đảm cho việc
nhận thức và áp dụng chúng một cách thống nhất trong thực tiễn.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Thứ nhất, xây dựng một khái niệm khoa học về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, đưa ra cơ sở lý luận của việc xác định năng lực bồi
thường thiệt hại theo quy định trong BLDS Việt Nam. Đồng thời, luận văn
đưa ra một số trường hợp ngoại lệ trong việc vận dụng các điều kiện phát sinh
trách nhiệm liên đới trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Thứ hai, nhận thức đúng việc áp dụng các quy định của BLDS hiện
hành về năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng áp dụng tại các Tòa án

thông qua việc phân tích một số vụ án cụ thể đã được Tòa án giải quyết. Trên
cơ sở đó, chỉ ra được những bất cập của chúng, đánh giá thực tiễn áp dụng
năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân.


3
Thứ ba, luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện và khắc
phục được các bất cập trong việc áp dụng và thực thi pháp luật dân sự Việt
Nam về vấn đề năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân trên
thực tiễn, để làm cơ sở cho việc xác định năng lực chủ thể chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được thống nhất, đạt hiệu quả cao.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên
quan đến năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của
cá nhân. Trong luận văn có những điểm mới sau đây:
- Phân tích có hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành có liên
quan đến năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
của cá nhân.
- Chỉ ra được các khuyết điểm, bất cập trong các quy định đó khi áp
dụng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân.
Đóng góp đề tài: Nghiên cứu và làm sáng rõ cơ sở lý luận về năng lực
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân, đề xuất
được những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực thi những quy định của
pháp luật về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
của cá nhân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận chung về
năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân
trên cơ sở pháp luật dân sự của Việt Nam, thực tiễn giải quyết tranh chấp dân

sự về xác định năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân tại
các Tòa án Việt Nam.
Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong BLDS bao gồm


4
nhiều vấn đề và nội dung rộng lớn như các điều kiện phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, thời hiệu khởi kiện, cách thức xác định thiệt hại vật chất và tinh
thần… Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu làm rõ vấn đề liên quan đến năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân quy định tại Điều 606 BLDS 2005.
5. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân.
Chương 2: Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng của cá nhân theo quy định của pháp luật hiện.
Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật để giải quyết những tranh
chấp liên quan đến xác định năng lực trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá
nhân và những giải pháp hoàn thiện pháp luật.



5
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CỦA CÁ NHÂN


1.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1.1.1. Khái niệm
Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phải
là khái niệm xa lạ trong Cổ Luật Việt Nam. Có thể nói rằng ý niệm này đã
được hình thành từ thời vua Lê Thánh Tông với Bộ luật Hồng Đức và cùng
với sự phát triển của hệ thống pháp luật dần dần được định hình với tư cách là
một chế định trách nhiệm. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
là một chế định quan trọng trong BLDS nhằm điều chỉnh các quan hệ trong
trường hợp có thiệt hại về tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người
khác do hành vi trái pháp luật của con người gây ra hoặc trách nhiệm do súc
vật, cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra.
Theo quy định BLDS 2005, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng được hiểu: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng,
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác
của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể
khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường” [8; Đ604].
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một dạng trách
nhiệm dân sự phát sinh từ sự kiện gây thiệt trái pháp luật, trong đó chủ thể
gây thiệt hại phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi trái
pháp luật của mình gây ra. Trong bất kỳ một xã hội nào, việc xảy ra các hành
vi gây ra thiệt hại cho các chủ thể khác, một hiện tượng phổ biến và giải pháp
cụ thể để bảo vệ người bị thiệt hại là áp đặt trách nhiệm bồi thường thiệt hại
cho chủ thể đã có hành vi gây hại. Vì lẽ đó trách nhiệm dân sự được đặt ra


6
nhằm giải quyết những tổn thất, sự suy giảm về lợi ích khi có thiệt hại xảy ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bao gồm các yếu tố:
- Có thiệt hại xảy ra;
- Có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật;

- Người gây ra thiệt hại có lỗi;
- Mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Như vậy, thiệt hại do hành vi trái pháp luật là căn cứ làm phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Mọi hành vi xâm phạm đến
người khác, tài sản hợp pháp của người khác đều có khả năng gánh chịu một
hay một số loại trách nhiệm pháp lý mà chủ yếu là trách nhiệm bồi thường
những tổn thất do hành vi trái pháp luật gây ra. Có hành vi trái pháp luật là cơ
sở xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Giữa người gây
thiệt hại và người bị thiệt hại lúc này phát sinh quan hệ mà người gây thiệt hại
phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
Từ sự phân tích trên ta có thể rút ra khái niệm trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng là trách nhiệm dân sự phát sinh giữa các chủ thể mà trước đó không có
quan hệ hợp đồng hoặc tuy có quan hệ hợp đồng nhưng hành vi của người
gây ra thiệt hại không thuộc về nghĩa vụ thi hành theo hợp đồng đã giao kết.
Từ khái niệm đó ta có thể hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng là trách nhiệm dân sự phát sinh giữa người gây thiệt hại và người bị
thiệt hại mà trước đó giữa họ không có quan hệ hợp đồng nào và thậm chí
giữa họ có thể chưa bao giờ tồn tại một quan hệ cụ thể, chẳng hạn việc bồi
thường phát sinh trong các tai nạn giao thông, trong các vụ ẩu đả…, hoặc tuy
có quan hệ hợp đồng nhưng việc gây thiệt hại không liên quan đến nghĩa vụ
thực hiện hợp đồng. Ngoài ra còn tồn tại khả năng là các quyền, lợi ích bị
xâm phạm vốn đã được pháp luật bảo vệ một cách mặc định, cho dù các bên


7
có tồn tại quan hệ hợp đồng hay không ví dụ như việc bồi thường thiệt hại của
chủ xe chở hành khách khi tai nạn xảy ra được xác định là trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và trong nhiều trường hợp là cả

các thiệt hại về tinh thần. Khi thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng cũng có nhiều biện pháp như buộc chấm dứt hành vi vi
phạm, xin lỗi, cải chính công khai nhưng biện pháp chủ yếu vẫn là bồi
thường bằng tài sản.
1.1.2. Đặc điểm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách
nhiệm dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Khi nói đến trách
nhiệm bồi thường là đề cập đến một tình thế buộc người phải thực hiện một
hành vi hoặc có trách nhiệm phải gánh chịu những bất lợi về tài sản hoặc
nhân thân của người mang trách nhiệm đó.
Vì là một loại trách nhiệm dân sự cho nên bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng cũng mang những đặc điểm của trách nhiệm dân sự nói chung như:
Mang tính tài sản, được thực hiện dựa trên sự cưỡng chế nhà nước hoặc sự
thỏa thuận giữa các bên chủ thể. Đó là loại trách nhiệm tài sản nhằm khôi
phục thiệt hại của người bị thiệt hại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp
dụng. Chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại này có thể là những công
dân hay các pháp nhân. Trong một số trường hợp, các cơ quan nhà nước, cơ
quan tiến hành tố tụng cũng có thể trở thành bên có quyền hoặc bên có trách
nhiệm. Người bị thiệt hại (người có quyền) và người gây ra thiệt hại (người
có trách nhiệm) là các bên tham gia vào quan hệ bồi thường thiệt hại. Chủ thể
có quyền cũng như chủ thể có trách nhiệm có thể là một hoặc nhiều người.
Trách nhiệm bồi thường có thể là liên đới, riêng lẽ, hoặc theo phần tùy vào
điều kiện hoàn cảnh và đối tượng bị xâm hại.


8
Ngoài những đặc điểm chung của trách nhiệm dân sự, theo quy định
của pháp luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng có những
đặc điểm pháp lý riêng biệt:
- Căn cứ phát sinh trách nhiệm đồng thời là căn cứ phát sinh nghĩa vụ.

Như vậy, trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thời điểm phát sinh nghĩa
vụ và trách nhiệm bồi thường xuất hiện cùng một lúc nên thiệt hại vừa là điều
kiện phát sinh nghĩa vụ bồi thường, vừa là điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi
thường. Nói cách khác nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh
ngay khi phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp
luật mà không dựa trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên như trong quan hệ
hợp đồng. Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, hành vi
trái pháp luật đóng vai trò là nguyên nhân làm phát sinh hậu quả là thiệt hại.
Một người chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với những thiệt hại xảy
ra là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật - là nguyên nhân trực tiếp hoặc
là nguyên nhân có ý nghĩa quyết định đối với thiệt hại đã xảy ra. Điều này
nhằm phân biệt với bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. Trong bồi thường
theo hợp đồng, xác định nghĩa vụ và thực hiện trách nhiệm phát sinh ở hai
thời điểm khác nhau, có nghĩa là vào trước lúc phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại theo hợp đồng thì các chủ thể đã ký kết và thỏa thuận với
nhau về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do bên nào có vi phạm hợp đồng và
việc phạt vi phạm chỉ xẩy ra khi một bên vi phạm hợp đồng, gây thiệt hại cho
bên kia. Cho nên, đối với quan hệ hợp đồng thì thiệt hại xảy ra chỉ là điều
kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
- Cơ sở của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hoàn toàn
do luật định: cơ sở phát sinh, chủ thể chịu trách nhiệm, cách thức bồi thường,
mức bồi thường… được pháp luật quy định sẵn mà không phụ thuộc vào thỏa
thuận trước của các bên. Do đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp


9
đồng được quy định và áp dụng hoàn toàn nằm ngoài ý chí của các chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật dân sự. Vì giữa các chủ thể trong quan hệ bồi
thường ngoài hợp đồng không có quan hệ hợp đồng, thậm chí chưa từng có
một quan hệ cụ thể nào hoặc có những sự kiện gây thiệt hại không nằm trong

nghĩa vụ thực hiện hợp đồng đã thỏa thuận. Trong một số trường hợp đặc biệt,
thiệt hại xảy ra và hành vi gây thiệt hại có liên quan đến nội dung của hợp
đồng đã được xác lập trước đó giữ các chủ thể nhưng trách nhiệm vẫn được
coi là ngoài hợp đồng. Đó là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe con người trong
hợp đồng vận chuyển hành khách [8; K1Đ533], hay bồi thường thiệt hại cho
bên thuê nhà trong trường hợp bên thuê nhà không bảo dưỡng và sửa chữa
nhà cho thuê dẫn đến việc gây thiệt hại [8; Đ493].
- Trong một số trường hợp chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi: về cơ bản, lỗi là căn cứ để xác định
có tồn tại hay không trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy
nhiên trong các trường hợp đã được luật xác định sẵn, chủ thể gây hại phải
bồi thường thiệt hại ngay cả khi hoàn toàn không có lỗi [8; K2Đ604]. Cụ thể
là các trường hợp bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Điều 623 và bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường [8; Đ624]. Mặt
khác, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh không những
do hành vi trái pháp luật gây ra, mà còn là trách nhiệm phát sinh do súc vật,
cây cối, nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra. Nhưng đối với bồi thường
theo hợp đồng thì lỗi là điều kiện bắt buộc.
- Khi thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, người
gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại cả thiệt hại vật chất lẫn thiệt hại do tổn
thất về tinh thần, cả thiệt hại trực tiếp lẫn thiệt hại gián tiếp xác định được,
BLDS và văn bản hướng dẫn có quy định rõ về việc chủ thể gây thiệt hại phải
bồi thường: Các thiệt hại vật chất, đây là các thiệt hại chủ yếu và ban đầu.


10
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần: trong nhiều trường hợp đây là loại thiệt hại
thứ phát và không tồn tại trong mọi trường hợp vì thiệt hại về tài sản không
làm phát sinh thiệt hại do tổn thất về tinh thần. Mặt khác, thiệt hại được bồi
thường không chỉ là các thiệt hại hiện hữu vào thời điểm xảy ra hành vi gây

thiệt hại mà còn có các thiệt hại trong tương lai có quan hệ nhân quả với hành
vi gây thiệt hại. Hơn nữa, người gây thực hiện không chỉ phải bồi thường các
thiệt hại xảy ra trực tiếp cho người bị thiệt hại mà cho cả các chủ thể có liên
quan chẳng hạn bồi thường thu nhập giảm sút cho người chăm sóc người phải
nằm bệnh viện, hoặc việc bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người thân của
người bị thiệt hại về tính mạng.
- Khi bồi thường thiệt hại phải đảm bảo bốn nguyên tắc sau đây: Thiệt
hại phải được bồi thường toàn bộ; bồi thường phải kịp thời; người gây thiệt
hại có thể được giảm mức bồi thường với 2 điều kiện là thiệt hại do lỗi vô ý
và thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của
người gây thiệt hại; mức bồi thường thiệt hại phải phù hợp với thực tế.
- Đối với bồi thường ngoài hợp đồng, khi chủ thể thực hiện xong trách
nhiệm bồi thường cũng đồng thời là chấm dứt quan hệ nghĩa vụ giữa các bên,
nhưng đối với nghĩa vụ hợp đồng thì việc bồi thường thiệt hại thì không giải
phóng người có nghĩa vụ khỏi trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ một cách thực
tế (giao vật, thực hiện công việc). Ví dụ, A làm hư hại tài sản của B do A cố
tình phá tài sản của B do mẫu thuẫn gia đình thì sau khi A bồi thường cho B,
quan hệ giữa A và B chấm dứt. Ngược lại, nếu A phải giao cho B một tài sản
theo hợp đồng những vì lý do nào đó cá nhân A không giao đúng thời hạn. Do
không giao đúng thời hạn nên hoạt động của B bị ảnh hưởng và làm phát sinh
một số chi phí. Ở đây hành vi không thực hiện đúng hợp đồng của A gây thiệt
hại cho B nên A có trách nhiệm bồi thường. Việc A bồi thường không làm
chấm dứt quan hệ tài sản giữa họ vì B có quyền yêu cầu A giao tài sản đã thỏa


11
thuận. Khác với việc bồi thường thiệt hại trong hợp đồng, các bên có thể thỏa
thuận về việc chấm dứt quan hệ hợp đồng sau khi đã bồi thường hoặc trong
trường hợp ngược lại nếu các bên không có thỏa thuận thì quan hệ hợp đồng
vẫn tồn tại cho đến khi chấm dứt trong các trường hợp luật định.

- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ đặt ra khi thoả mãn các điều kiện
nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi vi phạm pháp luật, có mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra, có lỗi của
người gây thiệt hại (trong một số trường hợp lỗi không phải là điều kiện bắt
buộc). Đây là những điều kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một
người phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp đặc biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể phát sinh khi
không có đủ các điều kiện trên điển hình là các trường hợp bồi thường thiệt
hại do tài sản gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn mang đến một hậu quả bất lợi về
tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây ra tổn thất cho
người khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền hoặc phải được pháp
luật quy định là một đại lượng vật chất nhất định nếu không sẽ không thể thực
hiện được việc bồi thường. Do đó, những thiệt hại về tinh thần mặc dù không
thể tính toán được nhưng cũng sẽ được xác định theo quy định của pháp luật
để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt hại. Và cũng chính vì vậy, thực hiện
trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại.
1.1.3. Ý nghĩa của việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng
Trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với nhiều mối quan hệ phức
tạp không thể tránh khỏi việc cá nhân, tổ chức này gây thiệt hại cho cá nhân,
tổ chức khác. Do vậy, chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng được hình thành sẽ làm thước đo chuẩn mực cho cách xử sự của các chủ


12
thể, tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi tham gia quan hệ dân sự, góp phần đảm bảo
trật tự, an toàn xã hội.
Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng còn nhằm đảm

bảo cho việc bù đắp những tổn thất cho người bị thiệt hại do hành vi trái pháp
luật gây thiệt hại. Thông qua việc áp dụng trách nhiệm, các biện pháp chế tài
giúp cho chủ thể nhận thức được hậu quả bất lợi mà mình sẽ phải gánh chịu
khi thực hiện hành vi gây thiệt hại trái pháp luật, và do đó có tác dụng phòng
ngừa các hành vi vi phạm pháp luật. Đồng thời giáo dục ý thức tuân thủ pháp
luật, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.
Khi phát sinh tranh chấp, chế định bồi thường này sẽ là cơ sở và điều
kiện cho hoạt động xét xử, giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực bồi thường
thiệt hại một cách nhanh chóng, chính xác, công minh và khách quan góp
phần bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khoẻ, danh dự của cá nhân; tài sản, danh
dự, uy tín của các tổ chức.
1.1.4. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng của cá nhân
Chủ thể gây ra hành vi trái pháp luật có thể là bất cứ ai: cá nhân, pháp
nhân, cơ quan nhà nước… nhưng không phải mọi chủ thể gây thiệt hại đều có
năng lực chịu trách nhiệm bồi thường. Xuất phát từ năng lực chủ thể của cá
nhân khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự, BLDS qui định năng lực
chịu trách nhiệm của cá nhân phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi và khả
năng kinh tế. Việc xác định rõ chủ thể nào phải bồi thường thiệt hại để qui
trách nhiệm cho người đó phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Đồng
thời, nhằm bảo vệ lợi ích của người bị thiệt hại hoặc nhân thân của người bị
thiệt hại, để có căn cứ yêu cầu bồi thường thiệt hại, bảo đảm tính nghiêm
minh của pháp luật.


13
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân theo pháp luật hiện
hành được quy định tại Điều 606 BLDS 2005:
“1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
2. Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha,

mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ
không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng
thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại
Điều 621 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì
phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì
cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây
thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của
người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài
sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường
bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có
lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường”.
Và được hướng dẫn cụ thể tại tiểu mục 3.1 mục 3 phần I Nghị quyết
03/2006/ HĐTPTANDTC ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân Tối cao:
“- Trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 606 BLDS thì người
gây thiệt hại là bị đơn dân sự, trừ khi họ mất năng lực hành vi dân sự;
- Trong trường hợp quy định tại đoạn 1 khoản 2 Điều 606 BLDS thì cha,
mẹ của người gây thiệt hại là bị đơn dân sự;
- Trong trường hợp quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 606 BLDS thì
người gây thiệt hại là bị đơn dân sự và cha, mẹ của người gây thiệt hại là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;


14
- Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 606 BLDS thì cá nhân,
tổ chức giám hộ là bị đơn dân sự”.
Như vậy, năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân được quy
định dựa trên mức độ năng lực hành vi, tình trạng tài sản, khả năng bồi

thường của cá nhân và xác định cá nhân gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm
bồi thường cho người bị thiệt hại theo mức độ năng lực hành vi dân sự khác
nhau. Pháp luật căn cứ vào điều kiện về độ tuổi và sự phát triển của trí tuệ,
nhận thức; căn cứ vào khả năng tạo lập tài sản của cá nhân để có cơ sở xác
định trong trường hợp cá nhân khi gây thiệt hại cho người khác, thì trách
nhiệm bồi thường được thực hiện với những mức độ nào.
Bản chất của việc bồi thường thiệt hại nói chung và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng nói riêng là khôi phục, bù đắp những mất mát, tổn thất về mặt
tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín, sức khỏe cho người bị thiệt hại thông qua
trách nhiệm tài sản. Do đó, việc xác định chủ thể nào là người có nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại là yếu tố đầu tiên cần xét đến để định rõ trách nhiệm. Pháp
luật dân sự quy định khá rõ chủ thể có năng lực trách nhiệm bồi thường thiệt
hại để bảo đảm quyền lợi của người bị thiệt hại. Có thể thấy người gây thiệt
hại là người chưa thành niên, người mất hay hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Đó là những người bị hạn chế về khả năng nhận thức, khả năng điều khiển
hành vi, pháp luật quy định những chủ thể này không phải chịu trách nhiệm
bồi thường. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định đối tượng trên cần phải có
người giám sát, chăm sóc… như cha, mẹ hoặc người giám hộ. Vì vậy, khi có
thiệt hại xảy ra những người giám hộ phải đóng vai trò đại diện cũng như chịu
trách nhiệm thay họ. Từ việc xác định được chủ thể bồi thường thiệt hại, ta có
thể giải quyết nhanh chóng, chính xác tranh chấp, khắc phục sớm tổn thất cho
người bị thiệt hại.
Việc quy định chủ thể nào có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại có ý nghĩa


15
hết sức quan trọng, vừa quy trách nhiệm bồi thường cho người đó, vừa là căn
cứ để xác định tư cách chủ thể trong tố tụng dân sự, ai là bị đơn dân sự phải
bồi thường theo trách nhiệm dân sự trước Tòa án trong trường hợp cá nhân
gây thiệt hại cho người khác. Đồng thời nó còn có ý nghĩa ràng buộc trách

nhiệm của cha, mẹ, người giám hộ, các tổ chức trong việc chăm nom, giám
sát đối với con cái hay người của tổ chức, cơ sở mình.
1.2. Sơ lược lịch sử phát triển các quy định về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân trong pháp luật dân sự Việt Nam
Có thể nói chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
của cá nhân trong pháp luật Việt Nam đã trải qua một thời gian dài hình thành
và phát triển. Ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, các nhà làm luật của Việt
Nam đã có rất nhiều cố gắng trong việc xây dựng các quy định của pháp luật
để điều chỉnh các quan hệ phát sinh khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại cho phù hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã hội của từng thời kỳ đó.
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1945
Ở Việt Nam trước năm 1945, trách nhiệm dân sự do hành vi gây thiệt
hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng cũng được hình thành từ rất sớm, được thể
hiện trong các Bộ luật cổ của Việt Nam. Một trong số đó, quy định về vấn đề
này được thể hiện rõ nhất trong Luật Hồng Ðức (Hay còn được gọi là Quốc
Triều Hình Luật). Theo Điều 581 Bộ luật Hồng Đức thì thì: “Người thả trâu,
ngựa cho dày xéo, ăn lúa, dâu của người khác thì phải xử phạt 80 trượng và
đền bù thiệt hại. Nếu cố ý thả cho dày xéo, phá hoại thì xử biếm một tư và đền
gấp đôi sự thiệt hại. Nếu vì trâu, ngựa chạy lồng lên không kìm hãm được thì
miễn tội trượng”, hoặc Điều 585 Bộ luật Hồng Đức qui định rằng: “Trâu của
hai nhà đánh nhau, con nào chết thì cả hai cùng thịt, con nào sống thì hai nhà
cùng cày, trái luật thì xử phạt 80 trượng”. Như vậy, trong trường hợp này vấn
đề bồi thường thiệt hại đã được xem là một trách nhiệm dân sự, hình phạt chỉ


16
phải dùng đến khi các đương sự không tuân theo giải pháp dân sự đã được ấn
định. Tới thời điểm này, trong xã hội thì hai bên không được tự tiện trả thù
hay tự tiện thỏa thuận số tiền chuộc mà việc giải quyết tranh chấp phải bằng
cách bồi thường một khoản tiền mà pháp luật qui định. Khoản tiền bồi thường

này vừa có tính chất là hình phạt vừa có tính chất là bồi thường. Trong đó các
quy định mang tính chất dân sự đều theo hướng có lợi cho người bị thiệt hại
như một khoản bồi thường. Mức độ bồi thường phụ thuộc vào nhân thân của
người bị thiệt hại. Theo Điều 29 Bộ luật Hồng Đức thì tiền đền mạng được ấn
định tùy theo phẩm trật của kẻ bị chết như sau: Nhất phẩm, tòng nhất phẩm
được đền 15.000 quan, nhị phẩm, tòng nhị phẩm 9.000 quan, tam phẩm, tòng
tam phẩm 7.000 quan, tứ phẩm, tòng tứ phẩm 5.000 quan, ngũ phẩm, tòng
ngũ phẩm 2.000 quan, lục phẩm, tòng lục phẩm 1.000 quan, thất phẩm, tòng
thất phẩm 500 quan, bát phẩm đến cửu phẩm 300 quan, thứ dân trở xuống 150
quan. Trong trường hợp đánh người gây thương tích thì người phạm tội ngoài
hình phạt bị đánh roi còn phải bồi thường cho nạn nhân theo mức đã được
quy định trong Điều 466 Bộ luật Hồng Đức: “Sưng phù thì phải đền tiền
thương tổn 3 tiền, chảy máu thì phải 1 quan, gãy một ngón tay, một răng thì
đền 10 quan, đâm chém. Bị thương thì 15 quan. Đọa thai chưa hình thành thì
30 quan, đã thành hình thì 50 quan, gãy một chân, một tay, mù một mắt thì 50
quan, đứt lưỡi và hỏng âm, dương vất thì đền 100 quan. Về người quyền quý
thì xử khác”. Ngoài ra, trong Quốc triều Hình Luật còn quy định trách nhiệm
dân sự của cha mẹ phải bồi thường những thiệt hại do các con còn nhỏ gây ra
cho người khác và trách nhiệm của ông chủ, bà chủ về tài sản trong trường
hợp đầy tớ của mình gây ra thiệt hại. Chẳng hạn, Điều 475 của Quốc triều
hình luật quy định trách nhiệm của cha mẹ phải bồi thường tang vật thay cho
con khi con vi phạm những điều mà pháp luật cấm. Cụ thể: “Các con ở nhà
với cha mẹ, mà đi ăn trộm, thì cha bị xử tội biếm; ăn cướp thì cha bị xử tội


17
đồ; nặng thì xử tăng thêm tội; và đều phải bồi thường thay cho con những
tang vật ăn trộm ăn cướp”. Với quy định này Bộ luật Hồng Đức đã để lại
những dấu ấn sâu đậm cho đến tận ngày nay với trình độ lập pháp vượt xa các
thời đại phong kiến khác khi đề cập đến năng lực trách nhiệm bồi thường thiệt

hại của cha mẹ khi con chưa thành niên vi phạm pháp luật.
Trong Bộ luật Gia Long trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng được đề
cập đến khá chi tiết, tuy nhiên nó không chú trọng đến các khoản tiền bồi
thường như trong Điều 466 của Bộ luật Hồng Đức. Cụ thể: Điều 91 Bộ luật
Gia Long qui định về trường hợp khi vứt bỏ hay phá hoại đồ vật, mùa màng,
cây cối của người khác thì ngoài việc xử người vi phạm về tội trộm can phạm
mà còn phải bồi thường thiệt hại đã gây ra cho người cho người bị thiệt hại.
Tuy nhiên, nếu những đồ vật bị vứt bỏ hoặc bị phá hủy của tư nhân và sự vứt
bỏ, phá hoại do vô ý gây ra thì người gây ra thiệt hại chỉ phải bồi thường.
Điều 271 Bộ luật Gia Long chỉ dự liệu bồi thường trong các trường hợp
nặng nhất như hỏng mắt, gãy tay chân, làm hỏng bộ phận trong cơ thể… thì
ngoài hình phạt lưu 300 lý, 100 trượng thì 1/2 tài sản kẻ phạm tội được đền
cho nạn nhân để nuôi thân. Nếu kẻ giết người được ân xá, y phải trả cho gia
đình nạn nhân 20 lạng bạc. Nếu nghèo túng thì chỉ phải trả nửa số tiền ấy. Ðối
với trường hợp gây thương tích theo Ðiều 271 Bộ luật Gia Long cũng qui
định tỉ mỉ các hình phạt tùy theo thương tích từ nhẹ đến nặng nhưng đó chỉ là
những chế tài về hình sự chứ không không phải dân sự.
Như vậy, so với Bộ luật Hồng Đức thì chế định bồi thường thiệt hại
trong Bộ luật Gia Long đã đánh dấu sự can thiệp mạnh mẽ hơn của Nhà nước
bằng cách dự liệu những chế tài về hình sự để trừng phạt những kẻ nào xâm
phạm đến tài sản và nhân thân kẻ khác. Ngoài việc phải gánh chịu hình phạt
kẻ phạm tội còn phải bồi thường cho nạn nhân những thiệt hại mà họ đã gây
ra. Vì mang tính chất hình phạt nên số tiền bồi thường được ấn định gấp đôi,


18
gấp ba, gấp bốn lần thiệt hại thực tế đã xảy ra. Tuy nhiên, với chế định trách
nhiệm dân sự được quy định trong luật Hồng Đức thì bộ luật này được đánh
giá những bộ luật phong kiến tiến bộ, đặc sắc nhất trong lịch sử pháp luật Việt
Nam về tư tưởng và trình độ lập pháp và một trong những nội dung đó là bồi

thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Cùng với sự phát triển của xã hội chế định bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng cũng dần dần được thay đổi, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng không còn được coi là hình phạt mà là nghĩa vụ, bổn phận của
người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại nhằm khôi phục lại
tài sản cho người bị thiệt hại.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước 1995
Trước khi BLDS 1995 được ban hành thì vấn đề bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng được quy định rải rác ở nhiều văn bản luật khác nhau. Ở các
văn bản này không có một điều khoản nào quy định cụ thể về năng lực bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân, do đó, chúng ta chỉ có thể xác
định năng lực bồi thường của các chủ thể dựa trên cơ sở từng quy định đối với
từng trường hợp cụ thể.
Văn bản đầu tiên mà chúng ta đề cập đến là Nghị định số 246-TTg
ngày 17-5-1950 của Thủ tướng Chính phủ. Trong đó quy định đối với người
có giấy phép sử dụng súng săn như sau: người do sử dụng súng săn mà gây
thiệt hại thì tất nhiên cá nhân họ phải chịu trách nhiệm bồi thường. Nếu họ
cho mượn hay để người khác tò mò, nghịch súng gây tai nạn, thì việc bồi
thường thiệt hại được giải quyết tương tự theo đường lối đối với người sử
dụng vũ khí. Như vậy, ta có thể rút ra trách nhiệm bồi thường mà Nghị định
này đề cập đến chính là cá nhân.
Văn bản tiếp theo ghi nhận quyền được bồi thường thiệt hại của người bị
thiệt hại đó là Hiến pháp năm 1959, quyền được bồi thường của người dân đã


19
được ghi nhận tại Điều 29 như sau: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan Nhà nước nào về những
hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước. Những việc khiếu nại và
tố cáo phải được xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì hành vi

phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước có quyền được bồi thường”.
Tiếp đó là Nghị định số 157 - CP ngày 11-12-1961 của Hội đồng Chính
phủ về việc quản lý vũ khí quân dụng và vũ khí thể thao quốc phòng. Trách
nhiệm về bồi thường thiệt hại do việc sử dụng vũ khí hoặc súng săn gây nên.
Có mấy trường hợp cần chú ý: Người được giao sử dụng vũ khí trong khi thực
hiện nhiệm vụ được phân công, như: tuần tra, canh gác, luyện tập, lau chùi vũ
khí mà vô ý làm nổ súng gây thiệt hại, thì cơ quan, đơn vị, xí nghiệp đã
phân công nhiệm vụ, phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên,
nếu người đó rõ ràng đã sử dụng vũ khí vào việc riêng, như đem đi săn bắn ,
do đó mà gây thiệt hại, thì cá nhân họ phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Theo quy định tại Nghị định này thì tùy từng trường hợp vi phạm cụ
thể để xác định trách nhiệm bồi thường thuộc về ai, trách nhiệm này có thể
thuộc về cơ quan, đơn vị, xí nghiệp cũng có thể là cá nhân tùy theo mức độ lỗi
của hành vi vi phạm.
Phải đến năm 1972 với sự ra đời của Thông tư số 173 - Ủy ban Thẩm
phán của TANDTC ngày 23/3/1972 hướng dẫn xét xử về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng (sau đây được viết tắt là Thông tư 173/TANDTC) thì vấn đề
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định rõ nét hơn. Thông tư
137/TANDTC đã đề cập đến một số trường hợp bồi thường cụ thể như sau:
Trách nhiệm bồi thường liên đới, trách nhiệm của người không trực tiếp gây
thiệt hại, trách nhiệm hổn hợp. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người vị
thành niên hoặc người mới trưởng thành gây ra, có sự phân biệt trách nhiệm
của pháp nhân và cá nhân. Thông tư còn hướng dẫn cách tính toán thiệt hại và

×