Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.07 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 3
I. NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI CỦA CÁ NHÂN DO HÀNH VI GÂY THIỆT HẠI
– MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN.
3
1. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người
đã thành niên.
3
2. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người
chưa thành niên.
4
3. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người
mất năng lực hành vi dân sự.
7
II. NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI CỦA CÁ NHÂN DO HÀNH VI GÂY THIỆT HẠI
– MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN.
8
1. Bồi thường thiệt hại do hành vi của người đã thành niên gây ra. 8
2. Bồi thường thiệt hại do hành vi của người chưa thành niên gây ra. 12
3. Bồi thường thiệt hại do hành vi của người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự gây ra.
14
III.NHẬN XÉT CHUNG 15
1. Những quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn về
năng lực bồi thường thiệt hại
15
2. Một số đề xuất cá nhân 18
KẾT LUẬN 19



1
LỜI MỞ ĐẦU
Nếu trách nhiệm BTTH theo hợp đồng bao giờ cũng được phát sinh trên cơ
sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách
nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành vi trái pháp luật xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hiện nay, pháp luật Việt
Nam quy định chủ yếu về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đối với hành vi xâm
phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của các cá nhân
và tổ chức khác. Như vậy, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng có thể được hiểu là
một loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do
pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác thì phải BTTH do mình gây ra.
Trên thực tế, trách nhiệm BTTH của cá nhân có thể phát sinh với người trực
tiếp có hành vi gây thiệt hại hoặc người khác không có hành vi gây thiệt hại hoặc
đôi khi thiệt hại bị xem như là rủi do. Tưởng chừng có vể mâu thuẫn nhưng bản
chất lại không hề mâu thuẫn. Trách nhiệm BTTH của cá nhân do gây thiệt hại
ngoài hợp đồng cơ bản phụ thuộc vào năng lực chịu trách nhiệm BTTH của cá
nhân mà hiểu sâu hơn nữa chính là năng lực chủ thể của cá nhân khi tham gia quan
hệ dân sự.
Vậy, pháp luật quy định thế nào về năng lực chịu trách nhiệm BTTH của cá
nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng? Thực tiễn vấn đề này có gì đáng chú ý?
Cùng nhau nghiên cứu đề tài: “Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của cá nhân do gây thiệt hại ngoài hợp đồng – Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” để tìm câu trả lời cho những thắc mắc trên.

2
NỘI DUNG
I. NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA
CÁ NHÂN DO HÀNH VI GÂY THIỆT HẠI – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ

LUẬN.
Xuất phát từ năng lực chủ thể của cá nhân khi tham vào quan hệ dân sự,
BLDS quy định năng lực chịu trách nhiệm của cá nhân phụ thuộc vào mức độ năng
lực hành vi, tình trạng tài sản và khả năng bồi thường của cá nhân. Cụ thể là:
1. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người đã thành niên.
Người đã thành niên được xác định là những người có độ tuổi từ đủ 18 trở
lên, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, có khả năng bằng hành vi của mình tự tạo
ra quyền và thực hiện nghĩa vụ (Điều 19 BLDS năm 2005).
Khoản 1 Điều 606 BLDS năm 2005 quy định về năng lực chịu trách nhiệm
BTTH của người đã thành niên như sau: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây
thiệt hại thì phải tự bồi thường.”. Điều này có nghĩa là họ phải dùng tài sản của
chính mình để BTTH do hành vi bất hợp pháp của mình. Tuy nhiên, trên thực tế,
nhiều người có đầy đủ năng lực hành vi nhưng khả năng về tài sản không có, tức là
những họ không có bất cứ thu nhập nào và cũng không có tài sản riêng để bồi
thường. Vì thế, khi quyết định bồi thường đối với những người này, có thể động
viên cha mẹ bồi thường thay cho con em họ, nếu cha mẹ tự nguyện bồi thường thì
ghi nhận sự tự nguyện đó mà không buộc cha mẹ bồi thường thay cho con em họ.
Những người từ đủ 18 tuổi trở lên là cán bộ, công chức hay người có thẩm
quyền của cơ quan tiến hành tố tụng khi gây ra thiệt hại không phải với tư cách là
công dân bình thường thì việc BTTH của họ trong trường hợp này cũng khác. Điều
này được quy định tại Điều 619 và Điều 620 BLDS năm 2005, theo đó:
Ðiều 619: Bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra
“Cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức phải bồi thường thiệt hại do
cán bộ, công chức của mình gây ra trong khi thi hành công vụ.
Cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức có trách nhiệm yêu cầu cán bộ,

3
công chức phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, nếu cán bộ,
công chức có lỗi trong khi thi hành công vụ.”.
Ðiều 620: Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến

hành tố tụng gây ra
“Cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền
của mình gây ra khi thực hiện nhiệm vụ trong quá trình tiến hành tố tụng.
Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu người có thẩm quyền đã
gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, nếu người
có thẩm quyền có lỗi trong khi thi hành nhiệm vụ.”
Trường hợp quy định riêng việc BTTH đối với cán bộ, công chức hoặc
người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng là cụ thể hóa quy định của
pháp luật về trách nhiệm BTTH đối với người đã thành niên. Suy cho cùng, người
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ bao giờ cũng là người phải chịu trách nhiệm
BTTH về hành vi vi phạm pháp luật của mình song việc quy định riêng cách thức
BTTH với cán bộ, công chức hoặc người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố
tụng là nhấn mạnh hơn nữa vai trò quản lý của cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ,
công chức hoặc cơ quan tiến hành tố tụng. Vì thế, trong các trường hợp này, trách
nhiệm BTTH trước hết thuộc về cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức hoặc
cơ quan tiến hành tố tụng.
Nếu người từ đủ 18 tuổi trở lên là người làm công, học nghề gây ra thiệt hại
thì trách nhiệm BTTH trường hợp này cũng khác. Đó là: “Cá nhân, pháp nhân và
các chủ thể khác phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây
ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu người làm công,
người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy
định của pháp luật.”. Điều này được quy định tại Điều 622 BLDS năm 2005.
2. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên.
Người chưa thành niên là những người chưa đủ 18 tuổi, không có hoặc có
một phần năng lực hành vi dân sự. Vì vậy, không giống như người đã thành niên,

4
khi gây ra thiệt hại, cha mẹ sẽ là người đứng ra cùng họ chịu trách nhiệm BTTH.
Luật dân sự Việt Nam chia nhóm này thành hai nhóm nhỏ hơn là người dưới 15
tuổi và người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi. Sở dĩ, có sự phân chia như vậy là do

với điều kiện thực tế ở nước ta, những người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có khả
năng lao động để tạo ra thu nhập hoặc có tài sản riêng. Vì vậy, cách thức BTTH
giữa hai nhóm là khác nhau. Điều này được quy định tại Khoản 2 Điều 606 BLDS
năm 2005 như sau:
- Đối với những người dưới 15 tuổi: “Người chưa thành niên dưới mười
lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại;
nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt
hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp
quy định tại Ðiều 621 của Bộ luật này…”.
Như vậy, cũng xuất phát từ quan điểm cha mẹ sẽ đứng ra cùng con chưa
thành niên BTTH thì trường hợp con chưa đủ 15 tuổi (tức là chưa có năng lực hành
vi dân sự) gây ra thiệt hại thì cha mẹ sẽ là người bồi thường toàn bộ thiệt hại; và
chỉ khi tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây
thiệt hại có tài sản riêng thì mới lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu. Nếu
cha, mẹ không còn hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì theo quy định của pháp
luật, người dưới 15 tuổi buộc phải có người giám hộ. Tuy nhiên, khi có thiệt hại do
hành vi của người dưới 15 tuổi gây ra, người giám hộ sẽ đứng lên cùng người được
giám hộ BTTH nhưng dùng tài sản của người được giám hộ trước, nếu thiếu, người
giám hộ phải có nghĩa vụ bổ sung.
Về cơ bản, trách nhiệm BTTH trường hợp này trước hết thuộc về cha, mẹ vì
cha, mệ là người trực tiếp trông nom, quản lý và chăm sóc con cái. Do đó, khi
người dưới 15 tuổi không trực tiếp chịu sự quản lý của cha, mẹ mà chịu sự quản lý
của một cơ quan, tổ chức khác như trường học thì việc BTTH được xác định theo
Khoản 1 và Khoản 3 Điều 621 BLDS năm 2005 như sau:
“1. Người dưới mười lăm tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại
thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.

5

3. Trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Ðiều này, nếu

trường học… chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý thì cha, mẹ, người
giám hộ của người dưới mười lăm tuổi… phải bồi thường.”
Lỗi của trường học xét đến ở đây là lỗi trong quản lý, giáo dục, họ đã không
thực hiện tốt chức năng của họ, do quản lý không tốt, người dưới 15 tuổi đã gây ra
thiệt hại cho người khác. Điều này cũng có nghĩa, nếu cơ quan, tổ chức quản lý
chứng minh được họ không có lỗi thì cha, mẹ, người giám hộ phải BTTH.
- Đối với những người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi: “… Người từ đủ
mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài
sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần
còn thiếu bằng tài sản của mình.”.
Ở Việt Nam, do những điều kiện và hoàn cảnh riêng, một số người từ đủ 15
tuổi đến dưới 18 tuổi đã tham gia lao động, từ tạo thu nhập cho chính mình hoặc
một số khác đã có tài sản riêng. Vì thế, khi những người thuộc nhóm này gây ra
thiệt hại thì cha mẹ sẽ cùng họ BTTH nhưng việc BTTH khác với những người
dưới 15 tuổi ở chỗ họ phải bồi thường bằng tài sản của mình; và chỉ khi không đủ
tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của
cha mẹ. Điều này có nghĩa là những người đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, có một
phần năng lực hành vi dân sự thì họ trước hết phải là người chịu trách nhiệm về
hành vi trái pháp luật của mình.
Nếu cha, mẹ người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi không còn hoặc mất năng
lực hành vi dân sự mà có người giám hộ thì lúc này người giám hộ cũng đóng vai
trò tương tự cha, mẹ là cùng với được giám hộ BTTH theo quy định trên. Tuy
nhiên, theo nguyên tắc tại Khoản 2 Điều 67 BLDS năm 2005, người từ đủ 15 tuổi
đến 18 tuổi không còn cha, mẹ hoặc cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự thì không
buộc phải có người giám hộ. Và theo nguyên tắc chung, người từ đủ 15 tuổi đến 18
tuổi phải chịu trách nhiệm dân sự, do vậy nếu có hành vi gây thiệt hại thì lấy tài

6
sản của họ để bồi thường.
3. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người mất năng lực

hành vi dân sự.
Người mất năng lực hành vi dân sự là người không có khả năng nhận thức,
kiểm soát và điều chỉnh hành vi của mình (ví dụ như bị bệnh tâm thần), vì thế, khi
tham gia giao dịch dân sự, pháp luật quy định người giám hộ của họ có thể xác lập
thay. Người mất năng lực hành vi dân sự theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều
58 BLDS năm 2005 là người được giám hộ.
Khoản 3 Điều 606 BLDS năm 2005 quy định: “Người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người
giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người
được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám
hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được
mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi
thường.” Như vậy, hành vi được thực hiện bởi người mất năng lực hành vi dân sự
gây ra thiệt hại cho người khác thì người giám hộ đương nhiên, người giám hộ
được cử (đối với những người phải có người giám hộ quy định tại Khoản 2 Điều
58 BLDS năm 2005) sẽ dùng tài sản của người được giám hộ để BTTH. Người
giám hộ cũng có nghĩa vụ bổ sung nhưng nếu họ chứng minh được rằng hộ không
có lỗi trong việc giám hộ họ không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Trong
trường hợp người được giám hộ không có khả năng để bồi thường và người giám
hộ không có lỗi thì sẽ không có người BTTH. Lúc này, thiệt hại sẽ chỉ được xem
như rủi do.
Luật Dân sự Việt Nam quy định người giám hộ có nghĩa vụ bổ sung nếu tài
sản của người được giám hộ không đủ để BTTH bởi lẽ: người giám hộ đương
nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự thường là vợ hoặc chồng của người
mất năng lực hành vi dân sự, cha mẹ người mất năng lực hành vi dân sự, anh chị
em ruột của người mất năng lực hành vi dân sự (khi cha, mẹ người mất năng lực

7
hành vi dân sự đã chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự hoặc không đủ điều kiện
để làm người giám hộ),… Quan hệ giữa người giám hộ đương nhiên và người

được giám hộ là quan hệ giữa những người trong cùng gia đình nên việc quy định
nghĩa vụ bổ sung đối với người giám hộ là hợp tình, hợp lý.
Trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự gây ra thiệt hại trong thời
gian ở bệnh viện, tổ chức khác quản lý thì theo Khoản 2 và Khoản 3 Điều 621
BLDS năm 2005, trách nhiệm BTTH được quy định như sau:
“2. Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong
thời gian bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện, tổ chức khác phải
bồi thường thiệt hại xảy ra.
3. Trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Ðiều này, nếu …
bệnh viện, tổ chức khác chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý thì cha,
mẹ, người giám hộ của … người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường.”
Phân tích những quy định trên, ta nhận thấy, cũng tương tự như đối với
người chưa có năng lực hành vi dân sự, những người mất năng lực hành vi dân sự
gây ra thiệt hại thì trách nhiệm BTTH trước hết thuộc về người có trách nhiệm
quản lý họ và thường là người giám hộ, bệnh viện, tổ chức trực tiếp quản lý,… Tuy
nhiên, nếu trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại không trong
thời gian chịu sự quản lý của bệnh viện, tổ chức khác thì người giám hộ dùng tài
sản của người được giám hộ để bồi thường trước, nếu thiếu, người giám hộ mới có
nghĩa vụ bổ sung. Đây là khác biệt cơ bản với quy định đối với người chưa có năng
lực hành vi dân sự (dưới 15 tuổi): dùng tài sản của cha, mẹ để bồi thường trước,
nếu thiếu mới dùng tài sản của con. Sự khác biệt này có ý nghĩa quan trọng trong
việc giảm hiện tượng “từ chối” việc giám hộ người mất năng lực hành vi dân sự.
II. NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
CỦA CÁ NHÂN DO HÀNH VI GÂY THIỆT HẠI – MỘT SỐ VẤN ĐỀ
THỰC TIỄN.
1. Bồi thường thiệt hại do hành vi của người đã thành niên gây ra.

8

×