Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 97 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



LÊ VĂN CAO



NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60 38 30




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Công Bình





HÀ NỘI - 2013



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và trích dẫn trong luận văn là chính xác và trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã
thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này kính đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Đà Nẵng, ngày tháng 01 năm 2013
TÁC GIẢ LUẬN VĂN



LÊ VĂN CAO









MỤC LỤC

Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài 3
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài 3
5. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài 3
6. Tính mới và những đóng góp của luận văn 4
7. Kết cấu của luận văn 4
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC HAI
CẤP XÉT XỬ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 6
1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC HAI CẤP
XÉT XỬ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 6
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự 6
1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự 12
1.2. CƠ SỞ CỦA NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 14
1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố
tụng dân sự 14
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự 18
1.3. MỐI QUAN HỆ CỦA NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VỚI MỘT SỐ NGUYÊN TẮC
CƠ BẢN KHÁC CỦA LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 18



1.3.1. Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự với nguyên tắc
đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng dân sự 19
1.3.2. Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự với nguyên tắc
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật 20
1.3.3. Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự với nguyên tắc
trách nhiệm của cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng 22
1.3.4. Nguyên tắc hai cấp xét xử với nguyên tắc cung cấp chứng cứ và
chứng minh trong tố tụng dân sự 23
1.4. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG QUYẾT ĐỊNH ĐẾN VIỆC
THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 24
1.4.1. Ý thức, trình độ am hiểu pháp luật của đƣơng sự 25
1.4.2. Sự hỗ trợ đƣơng sự tham gia tố tụng của ngƣời đại diện và bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự 26
1.4.3. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ Thẩm phán và trách
nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng 27
Kết luận Chương 1 28
Chương 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN 29
2.1. NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ TÕA ÁN THỰC HIỆN CHẾ
ĐỘ HAI CẤP XÉT XỬ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN 29
2.1.1. Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về
cấp xét xử sơ thẩm và thực tiễn thực hiện 29
2.1.2. Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về
cấp xét xử phúc thẩm và thực tiễn thực hiện 43


2.2. NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ XÉT LẠI BẢN ÁN, QUYẾT

ĐỊNH CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN 49
2.2.1. Tính chất của việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật 49
2.2.2. Những vấn đề chung về thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật 51
Kết luận Chương 2 55
Chương 3: NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐIỀU CHỈNH CỦA NGUYÊN
TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 56
3.1. CÁC YÊU CẦU NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐIỀU CHÍNH CỦA
NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 56
3.1.1. Yêu cầu từ đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc 56
3.1.2. Yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội và quá trình hội nhập
quốc tế 57
3.2. CÁC KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐIỀU
CHỈNH CỦA NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM 58
3.2.1. Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật 58
3.2.2. Kiến nghị về một số biện pháp đảm bảo thực hiện nguyên tắc hai
cấp xét xử trong tố tụng dân sự Việt Nam 70
Kết luận chương 3 83
KẾT LUẬN 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004
HĐTPTANDTC: Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
HĐXX: Hội đồng xét xử
HTND: Hội thẩm nhân dân

KSV: Kiểm sát viên
LSĐBSBLTTDS: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2011
LTCTAND: Luật tổ chức Tòa án nhân dân
PLTTGQCTCLĐ: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động 1996
PLTTGQCVADS: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989
PLTTGQCVAKT: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế 1994
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TTDS: Tố tụng dân sự
UBND: Ủy ban nhân dân
UBTP: Ủy ban thẩm phán
VADS: Vụ án dân sự
VKS: Viện kiểm sát
VVDS: Vụ việc dân sự
XHCN: Xã hội chủ nghĩa

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 (LTCTAND), Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS) đƣợc ban hành và có hiệu lực thi hành,
thẩm quyền, trình tự và thủ tục xét xử các vụ án dân sự (VADS) đã đƣợc quy
định các văn bản này và các văn bản hƣớng dẫn khá cụ thể và khoa học. Tuy
nhiên, qua quá trình thực hiện tại các Tòa án vẫn còn hiện tƣợng các VADS
đƣợc giải quyết một cách chậm trễ, kéo dài gây lãng phí, tốn kém cho ngƣời
dân và Nhà nƣớc. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình
trạng đó là do các quy định về những vấn đề liên quan đến nguyên tắc hai cấp

xét xử và việc thực hiện chúng còn nhiều bất cập, khiến cho tình trạng chồng
chéo thẩm quyền, lấn sân, lẫn lộn trách nhiệm giải quyết VADS giữa các Tòa
án khác cấp với nhau vẫn xảy ra thƣờng xuyên.
Theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005
của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020, thì Tòa án là
trung tâm của quá trình cải cách tƣ pháp. Trong quá trình cái cách tƣ pháp đối
với Tòa án, việc đình hình rõ, điều chỉnh và bổ sung các quy định của pháp luật
về tổ chức Tòa án và pháp luật tố tụng để đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử
đƣợc sử dụng một cách phù hợp, tạo thuận lợi cho quá trình xét xử các VADS,
đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đƣơng sự và bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa (XHCN) [17]. Trên thực tế hiện nay, ở nƣớc ta đang triển khai thí
điểm xây dựng mô hình Tòa án khu vực ở các địa phƣơng nhằm có những đổi
mới căn bản về tổ chức, thẩm quyền của các cơ quan trong hệ thống Tòa án.
Việc thí điểm này rất cần sự nghiên cứu, đánh giá ở nhiều khía cạnh nhằm tìm
ra mô hình tổ chức Tòa án hợp lý nhất, trong đó có những vấn đề cụ thể liên
quan đến các cấp xét xử trong tố tụng dân sự (TTDS). Việc nghiên cứu nguyên

2

tắc hai cấp xét xử trong TTDS Việt Nam là một vấn đề hết sức cần thiết về
phƣơng diện lý luận cũng nhƣ ở phƣơng diện thực tiễn. Vì vậy, học viên đã lựa
chọn đề tài: "Nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam" làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng nói chung và nguyên tắc hai
cấp trong pháp luật TTDS nói riêng là một vấn đề tố tụng cơ bản. Do đó,
trong những năm qua đã có nhiều bài viết, công trình khoa học nghiên cứu về
vấn đề này ở những mức độ khác nhau nhƣ bài "Đổi mới tổ chức và hoạt
động của Tòa án nhân dân” đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số
11/2003 và bài “Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc áp dụng nguyên tắc đó vào

việc tổ chức Toà án các cấp” đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số
5/2007 của Phó giáo sƣ, tiến sỹ Trần Văn Độ; bài“Về chế độ hai cấp xét xử”
của Vũ Văn Nhiêm đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 7/2003); bài
“Quan niệm về nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự nước ta” của
Thạc sỹ Tống Công Cƣờng đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 6/2006;
bài “Thực hiện chế độ hai cấp xét xử - cơ chế bảo vệ quyền con người trong
tố tụng dân sự” của tiến sỹ Nguyễn Quang Hiền đăng trên Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp số 8, tháng 4/2010; luận án tiến sĩ luật học “Phân cấp thẩm
quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay” của nghiên cứu sinh Lê Thị Hà bảo vệ tại Trƣờng Đại
học Luật Hà Nội năm 2005 v.v Các công trình này đã nghiên cứu làm sáng
tỏ đƣợc nhiều nội dung của “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng” nói
chung và “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự” nói riêng nhƣng
cũng còn nhiều nội dung chƣa đƣợc các công trình này nghiên cứu sâu và
toàn diện. Tuy vậy, đây vẫn là những tài liệu quan trọng để học viên tham
khảo trong quá trình nghiên cứu đề tài.

3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tƣợng nghiên cứu là những vấn đề lý luận về “Nguyên tắc hai cấp
xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam,” các quy định của pháp luật
TTDS Việt Nam về nguyên tắc này và thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa
án các cấp.
Phạm vi nghiên cứu đề tài của luận văn chỉ giới hạn trong những vấn đề
lý luận cơ bản về “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam” nhƣ khái niệm, ý nghĩa, cơ sở, mối quan hệ và các yếu tố quyết định
đến việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự Việt Nam và
thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa án trong những năm gần đây, đặc biệt là
các nội dung liên quan đến cấp XXST và XXPT đối với các VADS.

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
của triết học Mác - Lênin về Nhà nƣớc và pháp luật, những quan điểm của
Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền, về cải cách tƣ pháp
và cải cách nền hành chính quốc gia. Việc thực hiện luận văn còn dựa vào
thực tiễn xét xử, những tổng kết, đánh giá của ngành Tòa án, những số liệu
thống kê về tình hình xét xử, về tổ chức cán bộ để những kiến nghị, đề xuất
về các cấp xét xử trong tố tụng có cơ sở thực tiễn.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu học viên còn sử dụng các phƣơng
pháp nghiên cứu khoa học nhƣ phƣơng pháp so sánh, tổng hợp, tiếp cận hệ
thống, lịch sử, thống kê v.v để hoàn thành luận văn này.
5. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Học viên nghiên cứu đề tài này, trƣớc hết với mục đích để học hỏi,
trao dồi kiến thức, rèn luyện, nâng cao trình độ của chính bản thân về pháp
luật dân sự và hoàn thành chƣơng trình học luật dân sự. Bên cạnh đó, thông
qua công trình nghiên cứu, tác giả mong muốn đóng góp một số kiến nghị

4

nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về nguyên
tắc hai cấp xét xử trong TTDS Việt Nam hiện nay.
6. Tính mới và những đóng góp của luận văn
Luận văn với đề tài "Nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam” là công trình nghiên cứu một cách hệ thống về các nội
dung liên quan đến nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTDS hiện Việt Nam hiện
nay và có những điểm mới cụ thể sau:
Thứ nhất, luận văn đã hệ thống những vấn đề liên quan đến các nội
dung của nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật TTDS và làm rõ thêm
những vấn đề lý luận về nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật TTDS.
Thứ hai, luận văn phân tích làm rõ các quy định của pháp luật Việt

Nam về nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTDS nhƣ thẩm quyền xét xử theo
các cấp sơ thẩm, phúc thẩm và những nội dung liên quan đến các cấp xét xử
này. Từ đó, luận văn đã chỉ ra những bất cập, những đòi hỏi cần đƣợc sửa đổi,
bổ sung cho phù hợp với thực tiễn xét xử các VADS tại Tòa án, hạn chế và đi
đến khắc phục, chấm dứt tình trạng các VADS bị kèo dài thời gian giải quyết,
các Tòa án đẩy đi đẩy lại cho nhau qua nhiều lần xét xử không mang lại hiệu
quả giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, luận văn nêu lên những đề xuất các kiến nghị nhằm thực hiện
định hƣớng của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020, trong đó có vấn đề
liên quan đến việc tổ chức thực hiện có hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét xử
trong tố tụng dân sự Việt Nam nhằm nâng cao chất lƣợng xét xử trong TTDS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận án gồm 3 chƣơng:

5

Chương 1: Những vấn đề lý luận về nguyên tắc hai cấp xét xử trong
pháp luật tố tụng dân sự
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam về nguyên
tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện
Chương 3: Yêu cầu và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh
của nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

6

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ


1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT
XỬ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng
dân sự
Để tìm hiểu khái niệm nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật TTDS
Việt Nam một cách toàn diện, trƣớc hết cần tìm hiểu các khái niệm liên quan
nhƣ “nguyên tắc”, “xét xử”, “sơ thẩm”, “phúc thẩm”. Đồng thời tìm hiểu mối
liến hệ giữa các cấp xét xử với nhau trong mối tƣơng quan của hoạt động TTDS.
“Nguyên tắc” trong tiếng Việt là “cách thức làm đầu mối cho các việc
khác” [2, tr.1029], hay nguyên tắc là thuật ngữ đƣợc dùng để chỉ “điều cơ bản
đã định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm” [26, tr.694].
Trong khi đó, nguyên tắc cơ bản trong một đạo luật là những quy định mang
tính khái quát, những quan điểm, tƣ tƣởng chỉ đạo xuyên suốt trong cả đạo
luật đó [47, tr.16]. Những nguyên tắc này thể hiện nhận thức, quan điểm về
mục đích, vai trò của TTDS, quan niệm về tổ chức tƣ pháp dân sự cũng nhƣ
việc thực hiện các hoạt động TTDS.
“Xét xử” trong tiếng Việt có nghĩa là “xét rõ các sự kiện rồi xử theo
đúng pháp luật” [2, tr.1652]. Còn theo Từ điển Luật học, “xét xử” là hoạt
động do Tòa án tiến hành theo pháp luật tố tụng, trong đó Tòa án, sau khi
nghiên cứu một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ các các tình tiết của vụ
án, tiến hành giải quyết và xử lí vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định
cần thiết có liên quan” [43, tr.88]. Bên cạnh đó, về phƣơng diện tổ chức
quyền lực nhà nƣớc xét xử còn đƣợc hiểu là hoạt động đặc trƣng, là chức

7

năng, nhiệm vụ của Tòa án. Tòa án là cơ quan duy nhất ở nƣớc ta có chức
năng xét xử, mọi bản án do các Tòa án tuyên đều phải thông qua hoạt động
xét xử. Từ phƣơng diện này, có thể hiểu xét xử là một dạng hoạt động đặc biệt

của Nhà nƣớc do Tòa án tiến hành theo trình tự, thủ tục và các nguyên tắc
nhất định nhằm giải quyết khách quan, toàn diện, đầy đủ các vụ án. Đối với
khái niệm xét xử vụ việc dân sự (VVDS) đƣợc hiểu là dạng hoạt động đặc
biệt của Tòa án tiến hành theo trình tự, thủ tục và các nguyên tắc nhất định
nhằm giải quyết các VVDS bằng việc ra bán án, quyết định theo quy định của
pháp luật.
“Cấp” trong tiếng Việt nghĩa là “tầng lớp sự việc” [2, tr.179]. Hiện nay
mặc dù trong hoạt động tố tụng nói riêng hay trong hoạt động và tổ chức của
lĩnh vực tƣ pháp nhiều ngƣời đề cập đến cấp xét xử một cách phổ biến. Thế
nhƣng pháp luật hiện hành lại không định nghĩa cụ thể khái niệm “cấp xét
xử”. Trong khoa học pháp lý Liên xô cũ, ngƣời ta quan niệm cấp
xét xửnhƣ là “giai đoạn xem xét vụ án tại Toà án với thẩm quyền xác định.”
Quan niệm này cũng đƣợc nhận thức tƣơng đối phổ biến trong khoa học pháp
lý nƣớc ta. Xuất phát từ đây, ngƣời ta cho rằng trong tố tụng tồn tại các cấp
xét xử là xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm và tái thẩm.
[20] Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng cấp xét xử là hình thức tổ chức tố
tụng thể hiện quan điểm của Nhà nƣớc về xét xử các vụ án nhằm bảo đảm
tính chính xác, khách quan trong phán quyết của Toà án,bảo vệ các quyền tự
do dân chủ của công dân. Vì vậy, các quốc gia đều áp dụng nguyên tắc vụ án
có thể đƣợc tổ chức xét xử nhiều lần và tổ chức hệ thống Toà án để thực hiện
nguyên tắc đó trong thực tế. Cấp xét xử không đơn thuần chỉ là thủ tục tố
tụng; nó còn liên quan nhiều đến cách tổ chức tố tụng, tổ chức Toà án để thực
hiện việc xét xử lại vụ án [20].
“Tố tụng, tố tụng dân sự” theo từ điển Hán Việt "tố tụng" là việc thƣa

8

kiện, "tố tụng pháp lý" là việc pháp luật quy định những thủ tục về cách tố
tụng [1, tr. 302]. Hay Tố tụng" là vạch tội và đƣa ra cửa công để phân giải
phải trái do chữ "tố" là vạch tội; chữ "tụng" là thƣa kiện ở cửa công để xin

phân phải trái" [21, tr.1027-1028]. Nhƣ vậy có thể hiểu đơn giản “tố tụng” là
việc thƣa kiện ở Tòa án. TTDS đƣợc hiểu là trình tự, thủ tục giải quyết các
VVDS, các VADS tại Tòa án; trình tự, thủ tục thi hành án dân sự.
“Sơ thẩm”, trong tiếng Việt là “xét xử một vụ án với tƣ cách là Tòa án
ở cấp xử thấp nhất" [45, tr.869] hay là “xét xử lần đầu một vụ việc ở Tòa án
cấp thấp” [48, tr.1460]. Dƣới góc độ thuật ngữ pháp lý, "Sơ thẩm là việc Tòa
án xét xử lần đầu một vụ án" [33, tr. 312]. Từ những khái niệm trên có thể
hiểu, XXST là hoạt động xét xử lần đầu VVDS của Tòa án cấp cấp sơ thẩm,
kết quả giải quyết vụ việc đƣợc thể hiện bằng bản án, quyết định của Tòa án
và có thể bị kháng cáo, kháng nghị để xét xử lại ở Tòa án cấp phúc thẩm theo
trình tự, thủ tục luật định.
“Phúc thẩm”, trong tiếng Việt là “việc Tòa án cấp trên xét xử lại một vụ
án do Tòa án cấp dƣới đã xử sơ thẩm mà có chống án” [45, tr.790-791]. Dƣới
góc độ thuật ngữ pháp lý “Phúc thẩm dân sự là việc Tòa án cấp trên trực tiếp
xét lại VADS mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp dƣới chƣa có
hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật [40,
tr.174] hay « Phúc thẩm dân sự là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại VADS
mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật
bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật [41, tr.303]. Nhƣ vậy có
thể hiểu XXPT là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại bản án, quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.
Trong hoạt động TTDS của Tòa án, dựa trên nội dung, mục đích và
cơ sở pháp lý, hai cấp XXST và phúc thẩm có mối liên hệ với nhau đƣợc
thể hiện ở các điểm sau:

9

Thứ nhất, tại cấp XXST tất cả những vấn đề thuộc nội dung vụ việc lần
đầu đƣợc xem xét, đánh giá và kết luận, trong khi đó cấp phúc thẩm xét xử lại
vụ việc đƣợc xét xử ở cấp sơ thẩm mà bán án, quyết định bị kháng cáo, kháng

nghị theo quy định của pháp luật. Nhƣ thế, việc XXPT luôn đi sau, dựa trên
bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm. Có bản án, quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị mới có việc
XXPT, mới có bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm.
Thứ hai, mục đích của XXST là giải quyết các vấn đề dựa trên yêu cầu
của các đƣơng sự theo quy định của pháp luật để có quyết định, bản án bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Trong khi đó, mục
đích của XXPT là nhằm kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án,
quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực bị kháng cáo, kháng nghị. XXPT nhằm
khắc phục, sửa chữa những sai lầm có thể có trong những bản án, quyết định
chƣa có hiệu lực của Tòa án cấp sơ thẩm.
Thứ ba, cơ sở phát sinh hoạt động giải quyết các VADS ở cấp sơ thẩm
là dựa trên yêu cầu, hành vi khởi kiện của các cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Trong khi đó cơ sở phát sinh của cấp XXPT là dựa trên kháng cáo của
đƣơng sự, ngƣời đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức hoặc kháng nghị
của Viện kiểm sát (VKS). Từ nội dung kháng cáo, kháng nghị Tòa án cấp
phúc thẩm sẽ xem xét tính hợp pháp và tính có căn cứ của các phán quyết
mà Tòa án cấp sơ thẩm đã đƣa ra. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm không thể
xét xử những nội dung vƣợt ra ngoài phạm vi những vấn đề mà cấp sơ thẩm
đã xem xét, quyết định.
Hoạt động TTDS là một dạng của hoạt động thực tiễn, có tính khoa
học. Để đảm bảo hoạt động này hoàn toàn tuân thủ pháp luật, khách quan,
một yêu cầu tất yếu đặt ra là các cơ quan tiến hành tố tụng phải hoạt động
trong khuôn khổ các nguyên tắc tố tụng. Nguyên tắc TTDS đƣợc hiểu là

10

những quy định pháp luật cơ bản có tính bắt buộc chung, định hƣớng cho toàn
bộ quá trình tố tụng hoặc một số hoạt động tố tụng nhất định đƣợc quy định
trong các văn bản quy phạm pháp luật.

Hai cấp xét xử là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động
của nền tƣ pháp nƣớc ta nói riêng và trong các nƣớc theo hệ thống luật dân sự,
với mô hình truyền thống của các nƣớc châu Âu lục địa. Khác với nguyên tắc
chung thẩm ở các nƣớc theo hệ thống thông luật nhƣ Anh, Mỹ [13, tr.74] [14].
Ở nƣớc ta, nguyên tắc hai cấp xét xử trƣớc đây đƣợc quy định tại Điều
9 Luật tổ chức Tòa án năm 1960 và tại Điều 8 Sắc luật số 01/SL/76 ngày
15/3/1976 của Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam quy định về tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) và viện kiểm sát
nhân dân (VKSND). Tuy nguyên tắc này không đƣợc quy định trong Luật tổ
chức Tòa án năm 1980 nhƣng đến LTCTAND thì nguyên tắc này lại đƣợc
quy định tại Điều 11. Khi BLTTDS đƣợc ban hành thì nguyên tắc thực hiện
chế độ hai cấp xét xử đƣợc quy định tại Điều 17 của Luật này [10, tr.45].
Nội dung cơ bản của nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật TTDS
nƣớc ta hiện nay đƣợc thể hiện tại các Điều 17 BLTTDS và các điều luật khác
nhƣ Điều 245 (Thời hạn kháng cáo), Điều 247 (Kháng cáo quá hạn) và Điều
252 (Thời hạn kháng nghị) của BLTTDS với những nội dung cơ bản sau:
Một là, bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo,
kháng nghị mà chƣa có hiệu lực ngay.
Hai là, bản án, quyết định cấp phúc thẩm có hiệu lực ngay mà không
bị kháng cáo kháng nghị. Nội dung này nhằm đảm bảo tính nhanh chóng
trong hoạt động tố tụng, tránh việc lạm dụng quyền yêu cầu kháng cáo,
kháng nghị để kéo dài vụ án. Nếu không quy định bản án cấp phúc thẩm có
hiệu lực ngay sẽ dẫn đến cách hiểu bất kỳ quyết định, bản án nào của Tòa án
đều có thể kháng cáo, kháng nghị, điều này sẽ làm kéo dài thêm thời gian

11

giải quyết VADS tại Tòa án, gây lãng phí thời gian và tiền bạc của các
đƣơng sự và nhà nƣớc.
Ba là, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử trong phạm vi những phần

đƣơng sự đã kháng cáo, những nội dung mà VKS kháng nghị thuộc nội dung
bản án sơ thẩm đã giải quyết. Nếu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết vƣợt ra
ngoài phạm vi nêu trên, xét xử cả những yêu cầu mới sẽ vi phạm nguyên tắc
hai cấp xét xử. Nội dung này cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa hai cấp xét
xử với nhau, trong đó cấp sơ thẩm là tiền đề là bƣớc giải quyết cơ bản và
quan trọng nhất, chỉ những trƣờng hợp cần thiết phải xem xét lại, kiểm tra
lại bản án trong một thời hạn mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
chƣa có hiệu lực và có kháng cáo, kháng nghị thì mới đƣợc xem xét giải
quyết ở cấp phúc thẩm.
Bốn là, bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải
đƣợc mọi chủ thể tuyệt đối chấp hành và không thể bị thay đổi hay bãi bỏ.
Liên quan đến thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm đây đƣợc xem là một
thủ tục đặc biệt để xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
trong những trƣờng hợp đặc biệt. Mặc dù cũng là việc xét lại bản án, quyết
định của Tòa án cấp dƣới, nhƣng thủ tục giám đốc thẩm cơ bản khác với thủ
tục phúc thẩm từ trình tự kháng nghị cho đến thủ tục giám đốc. Nếu đối tƣợng
của phúc thẩm là bản án, quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật, thì
đối tƣợng giám đốc thẩm là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật. Đƣơng sự không đƣợc quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Ngƣời kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm phải là ngƣời có thẩm quyền
của TAND hoặc VKSND.
Từ những nội dung trình bày trên đây, có thể đến kết luận: “Nguyên tắc
hai cấp xét xử trong pháp luật TTDS Việt Nam là một trong những nguyên tắc
cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, là tư tưởng chỉ đạo mang tính

12

quyền lực Nhà nước trong việc tổ chức tố tụng để xét xử các VADS, theo đó
một VADS được xét xử lần đầu ở cấp XXST và có thể được xét xử lại lần thứ
hai ở cấp XXPT nếu có kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố

tụng dân sự.”
1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng
dân sự
1.1.2.1. Ý nghĩa pháp lý của nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp
luật tố tụng dân sự
Ở khía cạnh pháp lý, nguyên tắc hai cấp xét xử là một nguyên tắc quan
trọng trong tổ chức và hoạt động TTDS ở nƣớc ta nói riêng, trong hệ thống tƣ
pháp ở nƣớc ta nói chung. Trong tiến trình lập pháp, những nguyên tắc cơ bản
và quan trọng nhƣ nguyên tắc hai cấp xét xử sẽ là một định hƣớng rất quan
trọng để các nhà làm luật xây dựng quy trình tố tụng phù hợp với thực tiễn,
đồng thời là một cơ sở mang tính pháp lý nền tảng để xây dựng hệ thống xét
xử trong TTDS một cách đồng bộ và ngày càng hoàn thiện. Nếu quyết định,
bản án của Tòa án cấp sơ thẩm chƣa có hiệu lực có thể bị kháng cáo, kháng
nghị và XXPT sẽ làm cho phát quyết cuối cùng của Tòa án có độ chính xác
cao hơn, qua đó các chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị bảo vệ đƣợc
quyền, lợi ích của mình, lợi ích của công dân, nhà nƣớc. Thủ tục phúc thẩm sẽ
bảo đảm cho những phán quyết nhân danh Nhà nƣớc của Tòa án, trƣớc khi có
hiệu lực pháp luật phải luôn đƣợc xem xét một cách thận trọng, bảo đảm tính
đúng pháp luật.
Về phía Tòa án, việc quy định nguyên tắc hai cấp xét xử theo đó Tòa án
cấp phúc thẩm có quyền sửa, hủy bản án, quyết định sơ thẩm sẽ kịp thời sửa
chữa những sai lầm hoặc các vi phạm pháp luật mà cấp sơ thẩm đã mắc phải,
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Nguyên tắc hai cấp xét xử
cũng tạo ra điều kiện để Tòa án cấp trên có thể kiểm tra chất lƣợng xét xử của

13

Tòa án cấp dƣới, hƣớng dẫn Tòa án cấp dƣới xét xử đúng pháp luật, từ đó
nâng cao chất lƣợng xét xử tại các cấp xét xử của Tòa án qua việc thƣờng
xuyên hƣớng dẫn, bồi dƣỡng nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm cho đội ngũ

thẩm phán.
Nhƣ vậy, ở phƣơng diện pháp lý nguyên tắc hai cấp xét xử là một
nguyên tắc rất quan trọng đối với tiến trình TTDS nói riêng, có ý nghĩa rất to
lớn đối với thực tiễn áp dụng pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật nói chung.
1.1.2.2. Ý nghĩa chính trị, xã hội của nguyên tắc hai cấp xét xử trong
pháp luật tố tụng dân sự
Thứ nhất, về ý nghĩa chính trị thì việc pháp luật tố tụng nƣớc ta hiện
hành quy định nguyên tắc hai cấp xét xử là phù hợp với mục tiêu của Đảng và
Nhà nƣớc ta là thực hiện dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh đƣợc ghi nhận tại Điều 3 của Hiến pháp năm 1992 [28]. Nguyên
tắc hai cấp xét xử còn thể hiện nhận thức tôn trọng sự vận động và phát triển
phù hợp với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự vận động và phát
triển là không ngừng nghỉ. Theo đó nhận thức của con ngƣời về sự vật, hiện
tƣợng cũng luôn có sự vận động, phát triển nên không phải khi nào con ngƣời
cũng nhìn nhận sự vật, hiện tƣợng đúng đắn ngay từ lần nhận thức thứ nhất.
Quy định nguyên tắc hai cấp xét xử phù hợp với quy luật nhận thức nhằm
đảm bảo tính khách quan, đúng đắn của hoạt động xét xử của Tòa án đồng
thời thể hiện thái độ thận trọng của Nhà nƣớc trong việc đƣa ra phán quyết
đồng thời khi thấy phán quyết sai thì phải sửa chữa, khắc phục sai lầm, thể
hiện rõ bản chất của nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam là nhà nƣớc của dân, do
dân và vì dân.
Ngoài ra, với nguyên tắc hai cấp xét xử, quyền con ngƣời trong lĩnh
vực tƣ pháp đƣợc tôn trọng và bảo vệ một cách hiệu quả. Các chủ thể tham
gia tố tụng có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình không chỉ một

14

lần duy nhất, mà với nguyên tắc này họ có quyền kháng cáo, đề nghị cơ quan
có thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm để bảo vệ quyền, lợi ích của mình.
Thứ hai, về ý nghĩa xã hội, cũng nhƣ các nguyên tắc cơ bản khác của

TTDS, nguyên tắc hai cấp xét xử có vai trò tác động lên ý thức pháp luật của
mọi công dân, giúp công dân hiểu rõ đƣợc đƣờng lối, chính sách của Đảng và
Nhà nƣớc về bản chất của pháp luật TTDS. Nguyên tắc hai cấp xét xử góp
phần củng cố lòng tin của nhân dân vào sự công tâm, minh bạch, uy tín trong
hoạt động xét xử của Tòa án thông qua việc sửa chữa sai lầm, khắc phục hậu
quả ở cấp xét xử thứ hai.
1.2. CƠ SỞ CỦA NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật
tố tụng dân sự
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nƣớc và pháp luật
thì nguyên tắc của pháp luật là nguyên lý, tƣ tƣởng chỉ đạo cơ bản, có tính
chất xuất phát điểm, cấu thành một bộ phận quan trọng nhất, thể hiện tính
toàn diện, linh hoạt, thấm nhuần toàn bộ nội dung cũng nhƣ hình thức của hệ
thống pháp luật, là cơ sở chỉ đạo toàn bộ hoạt động xây dựng và thực hiện
pháp luật. Hoạt động TTDS là một dạng hoạt động tƣ pháp với nhiệm vụ bảo
đảm cho việc giải quyết vụ án đƣợc tiến hành nhanh chóng và đúng pháp
luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích
Nhà nƣớc, lợi ích công cộng. Vì vậy, hoạt động TTDS đƣợc tiến hành theo
những trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật TTDS quy định với những
nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc của TTDS là những nguyên lý, những tƣ
tƣởng chỉ đạo, các định hƣớng chi phối tất cả các giai đoạn hoặc một số giai
đoạn nhất định của quá trình TTDS đƣợc thể hiện dƣới hình thức các quy
phạm pháp luật TTDS [42, tr.13].

15

Trên thế giới, các nƣớc theo hệ thống tranh tụng nhƣ Anh, Mỹ không
áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử, mà áp dụng nguyên tắc xét xử chung
thẩm. Theo đó, quyết định, bản án sau khi ban hành sẽ có hiệu lực pháp luật

ngay, trừ những trƣờng hợp đặc biệt vi phạm về thủ tục tố tụng hoặc những
sai lầm về mặt pháp lý thì sẽ đƣợc Tòa phúc thẩm xem xét lại. Tuy nhiên Tòa
phúc thẩm cũng chỉ xem xét lại về mặt pháp lý và thủ tục chứ không xét lại
những nội dung sự kiện đã đƣợc bồi thẩm đoàn quyết định tại Tòa sơ thẩm.
Trong những VADS phức tạp hoặc tranh chấp có giá trị lớn đều có bồi thẩm
đoàn tham gia phiên Tòa sơ thẩm. Nếu VADS xét xử có bồi thẩm đoàn thì tại
phiên Tòa, bồi thẩm đoàn chỉ xem xét và quyết định về những vấn đề sự kiện
còn những nội dung pháp lý sẽ do thẩm phán quyết định. Nhƣ thế việc đề cao
vai trò của bồi thẩm đoàn trong xét xử vụ án đã thể hiện sự cẩn trọng của việc
giải quyết vụ án tại Tòa án với nguyên tắc xét xử chung thẩm [14].
Ngƣợc lại, ở phần lớn các quốc gia khác trên thế giới thì nguyên tắc
xét xử đặc trƣng là hai cấp xét xử. Các nhà làm luật ở các quốc gia áp dụng
nguyên tắc hai cấp xét xử quan niệm rằng thẩm phán mặc dù đƣợc đào tạo
kỹ càng về chuyên môn, nghiệp vụ, có kinh nghiệm và có sự hỗ trợ của đội
ngũ hội thẩm khi xét xử nhƣng vẫn là những con ngƣời bình thƣờng có thể
mắc sai lầm do trình độ, nhận thức hoặc bởi cảm tính cả nhân. Do đó, nhằm
khắc phục những sai sót có thể xảy ra, pháp luật tạo điều kiện cho các đƣơng
sự sau khi xét xử lần đầu có cơ hội yêu cầu Tòa áp cấp trên xem xét lại một
lần nữa. Tòa án cấp phúc thẩm với một đội ngũ thẩm phán có kinh nghiệm
hơn, có thẩm quyền cao hơn sẽ giúp cho vụ án đƣợc giải quyết công bằng,
khách quan. Bên cạnh đó, về nguyên tắc bản án, quyết định có thể bị xem
xét lại còn có tác dụng nâng cao tinh thần trách nhiệm của các thẩm phán
của Tòa án cấp sơ thẩm. Một khi các phán quyết của mình có thể sẽ bị phúc
thẩm để xem xét lại sẽ làm cho các thẩm phán cảnh giác hơn, thận trọng hơn
trong xét xử [13, tr.74,75].

16

Trở lại với pháp luật tố tụng ở nƣớc ta trƣớc đây, ngay trong Bộ Quốc
triều Hình luật, thành tựu lập pháp của triều đại nhà Lê có lịch sử kéo dài từ thế

kỷ XV đến thế kỷ XVIII cũng quy định khá rõ về vấn đề giải quyết vụ án theo
cấp xét xử. Theo đó, tại Điều 672 của Bộ Quốc triều Hình luật (Điều 15 của
chƣơng Đoán ngục) quy định "Nhân dân trong lộ, trong huyện có việc tranh
kiện nhau, việc rất nhỏ, đến kiện ở xã quan; việc nhỏ đến kiện ở lộ quan; việc
trung bình đến kiện ở quan phủ; các quan kể trên phải xét xử cho công bằng,
đúng pháp luật; còn việc lớn thì phải đến kinh. Nếu xã quan xử đoán không
hợp lẽ thì kêu đến quan huyện; quan huyện xử đoán không hợp lẽ thì kêu đến
quan lộ; quan lộ xử đoán không hợp lẽ thì mới đến kinh tâu bày” [32, tr.229].
Từ cách thức tổ chức xét xử đó của triều Lê cho thấy nhà làm luật xƣa
đã rất mong muốn tạo ra một công cụ pháp lý hƣớng đến một nền công lý hữu
hiệu, qua đó vừa duy trì đƣợc trật tự xã hội, vừa tôn trọng quyền lợi của
đƣơng sự. Việc phân cấp xét xử nêu trên tuy chƣa quy định rõ ràng thành hai
cấp xét xử nhƣng đã cho thấy có sự phân tầng, quy định điều kiện nào thì mới
đƣợc xét xử lại ở cấp cao hơn và qua đó thể hiện mong muốn giảm bớt các sự
kiện tụng tốn kém; bảo đảm một sự phán xử công minh, hợp pháp; tránh sự
lạm quyền, hà khắc từ cơ quan tài phán. Rõ ràng ngƣời xƣa đã cho thấy đƣợc
dù ở mỗi cấp khác nhau có xã quan, lộ quan, quan phủ hay quan ty ở kinh
thành nhƣng vẫn có lúc xử đoán không hợp lẽ và các đƣơng sự có quyền kêu
lên cấp xét xử cao hơn để đƣợc xét xử lại một cách công minh. Điều này cho
thấy nhà cầm quyền đã rất chú ý đến vai trò của cấp xét xử cấp trên đối với
các quyết định của cấp xét xử cấp dƣới trong những trƣờng hợp xét thấy tính
đúng đắn, nghiêm minh của pháp luật bị nghi ngờ. Quy định điều này trong
Quốc triều hình luật, Nhà nƣớc thời Lê đã tạo nên đƣợc công cụ hữu hiệu cho
nền tƣ pháp nhằm vừa bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ quyền lợi của giai cấp cầm
quyền, vừa bảo vệ quyền lợi của ngƣời dân.

17

Ở nƣớc ta hiện nay Hiến pháp và BLTTDS đều khẳng định Tòa án là cơ
quan thực hiện hoạt động Tƣ pháp, nhân danh Nhà nƣớc, nhân danh công lý để

thực hiện việc xét xử. Một quyết định, bản án đúng đắn của Tòa án khi nhân
danh Nhà nƣớc ban hành góp phần mang lại công bằng xã hội, bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con ngƣời do đó quyết định, bản án của Tòa án đƣợc đòi hỏi
chính xác, đúng pháp luật một cách tuyệt đối. Nguyên tắc hai hai cấp xét xử
đảm bảo bảo cho Tòa án thực hiện chế độ xét xử hai cấp, qua đó quyết định,
bản án của Tòa án đƣợc xem xét lại qua hai cấp sẽ giúp cho phán quyết cuối
cùng của Tòa án đƣa ra đƣợc chính xác, đúng đắn. Với sự phân công, phân
nhiệm trong hệ thống bộ máy nhà nƣớc hiện nay, chỉ duy nhất Tòa án là cơ
quan tƣ pháp có chức năng xét xử, và chỉ Tòa án khi giải quyết VVDS mới có
quyền nhân danh Nhà nƣớc để đƣa ra một phán quyết đối với các chủ thể tranh
chấp. Nhƣ thế có thể thấy giá trị, ý nghĩa của quyết định, bản án của Tòa án khi
có hiệu lực thi hành là rất cao, bắt buộc các chủ thể có trách nhiệm phải thi
hành một cách nghiêm túc. Thế nhƣng, không phải khi nào bản án, quyết định
của Tòa án cũng đúng đắn, công minh cho nên pháp luật cần mở ra cho đƣơng
sự quyền đƣợc kháng cáo những phần bản án, quyết định của Tòa án mà đƣơng
sự thấy chƣa đúng, chƣa bảo đảm đƣợc quyền và lợi ích của họ. Đồng thời,
pháp luật cũng mở ra khả năng cơ quan, cá nhân có thẩm quyền của nhà nƣớc
có quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm để hƣớng tới
một phán quyết cuối cùng nhân danh Nhà nƣớc có độ đúng đắn cao nhất, mang
lại công lý, bảo vệ quyền, lợi ích của công dân và của cá Nhà nƣớc.
Nhƣ vậy, cơ sở lý luận của nguyên tắc hai cấp xét xử xuất phát từ tƣ
tƣởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nƣớc ta trong việc tổ chức, phân cấp xét xử
theo hai cấp để đảm bảo VVDS đƣợc giải quyết đúng đắn, công minh nhằm
bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của công dân đồng thời thể hiện tính nghiêm
minh của pháp luật.

18

1.2.2. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng
dân sự

Trong thực tiễn hoạt động xét xử các VVDS của Tòa án hiện nay có thể
thấy mục tiêu của hoạt động xét xử là nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
ngƣời dân. Trong đó nhiệm vụ thực thi công lý, thực thi pháp luật của ngƣời
thẩm phán chịu sự đòi hỏi rất cao bởi những điều kiện bổ nhiệm nhƣ trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác rất khắt khe so với nghề nghiệp
khác. Tuy vậy, dù chuyên môn nghiệp vụ đƣợc tuyển chọn gắt gao, điều kiện
bổ nhiệm thẩm phán khắt khe đến đâu thì trong thực tiễn hoạt động xét xử của
mình thẩm phán cũng sẽ phải đƣơng đầu với một thực tế họ cũng là những
con ngƣời nên có thể vẫn mắc những sai sót hoặc nhầm lẫn.
Nguyên tắc hai cấp xét xử chính là công cụ hữu hiệu mà pháp luật
tiên liệu đặt ra để khắc phục những sai sót của các thẩm phán ở cấp XXST.
Bên cạnh đó, mỗi khi xét xử, thẩm phán nhận thức đƣợc nếu xét xử không
đúng pháp luật, bản án, quyết định sơ thẩm có thể bị Tòa án cấp phúc thẩm
hủy bỏ hoặc sửa chữa thì tự ý thức của thẩm phán phải cẩn trọng hơn trong
việc xét xử.
Nhƣ vậy, từ sự đánh giá thực tiễn hoạt động xét xử của thẩm phán đến
ý thức cẩn trọng của ngƣời thẩm phán khi nhân danh công lý, nhân danh Nhà
nƣớc để xét xử đã làm cho nguyên tắc hai cấp xét xử hai thể hiện đƣợc ý
nghĩa rất quan trọng đó là bảo đảm tính đúng đắn, công minh hơn so với xét
xử một lần. Đó cùng là cơ sở, đòi hỏi cần thiết để quy định nguyên tắc hai cấp
xét xử trong tổ tụng dân sự Việt Nam.
1.3. MỐI QUAN HỆ CỦA NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VỚI MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
KHÁC CỦA LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
Pháp luật TTDS không chỉ có một nguyên tắc mà có nhiều nguyên tắc

19

đƣợc quy định khác nhau. Các nguyên tắc cơ bản của TTDS Việt Nam đƣợc
thể hiện trong BLTTDS từ Điều 3 đến Điều 24 có mối liên hệ với nhau, bổ

sung cho nhau tạo thành một hệ thống nguyên tắc. Nguyên tắc chế độ thực
hiện hai cấp xét xử tuy có tính độc lập tƣơng đối nhƣng cũng nằm trong hệ
thống các nguyên tắc và có mối liên hệ với các nguyên tắc khác của TTDS.
1.3.1. Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự với nguyên
tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng dân sự
Nguyên tắc đảm bảo pháp chế XHCN đã trở thành nguyên tắc Hiến
định của Nhà nƣớc Công hòa XHCN Việt Nam và đƣợc quy định tại Điều 12
Hiến pháp 1992: “Nhà nƣớc quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng
cƣờng pháp chế XHCN. Các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân và mọi công dân phải chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến
pháp và pháp luật” [28].
Điều đó cho thấy pháp chế XHCN là một nguyên tắc rất quan trọng
trong tổ chức của bộ máy nhà nƣớc, trong hoạt động của mỗi chủ thể, công
dân. Nguyên tắc pháp chế thể hiện những đặc tính cơ bản nhƣ tính thống nhất,
tính hợp lý và tính áp dụng chung (không có ngoại lệ). Nhƣ vậy, đặt trong
mối liên hệ với nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTDS có thể thấy sự gắn bó
một cách rõ ràng giữa hai nguyên tắc này. Theo đó, về cơ bản nguyên tắc
pháp chế XHCN có tính độc lập tƣơng đối nhƣng lại mang ý nghĩa chi phối
nguyên tắc hai cấp xét xử. Nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTDS phải đặt
trong sự chi phối của nguyên tắc pháp chế XHCN trong TTDS bởi lẽ chỉ khi
các cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng và các đƣơng sự tuân thủ nguyên tính
thống nhất, tính hợp lý, tính áp dụng chung của nguyên tắc pháp chế XHCN
trong việc vận dụng nguyên tắc hai cấp xét xử thì nguyên tắc này mới có giá
trị hữu hiệu trong hoạt động TTDS.

×