Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình theo luật Hôn nhân và gia đình năm 2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (985.84 KB, 115 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LÊ THỊ THU HÀ






QUAN HỆ TÀI SẢN
GIỮA CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC












HÀ NỘI - 2010





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LÊ THỊ THU HÀ





QUAN HỆ TÀI SẢN
GIỮA CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hà Thị Mai Hiên





HÀ NỘI – 2010




1
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục



MỞ ĐẦU
1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ TÀI SẢN GIỮA CÁC
THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH
7
1.1.
Khái niệm và đặc điểm chung của quan hệ tài sản giữa các thành viên
trong gia đình
7
1.1.1.
Khái niệm quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình
7
1.1.2.
Phân loại và đặc điểm của quan hệ tài sản giữa các thành viên trong
gia đình
11
1.1.2.1.
Phân loại quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình
11
1.1.2.2.
Đặc điểm của quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình
12
1.2.
Điều chỉnh pháp luật và phân loại chế độ pháp lý về tài sản giữa các
thành viên trong gia đình
15
1.2.1.
Quá trình điều chỉnh pháp luật về quan hệ tài sản giữa các thành viên

trong gia đình
15
1.2.2.
Phân loại chế độ pháp lý về quan hệ tài sản giữa các thành viên trong
gia đình
20
1.2.2.1.
Dựa trên chủ thể của từng loại quan hệ tài sản
21
1.2.2.2.
Dựa trên đối tượng của từng loại quan hệ tài sản
24
1.3.
Khái quát một số nét cơ bản về quan hệ tài sản giữa các thành viên
trong gia đình trong pháp luật các nước
25

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUAN
HỆ TÀI SẢN GIỮA CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA
ĐÌNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
32
2.1.
Quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình trong Luật Hôn nhân
32


2
và gia đình năm 2000
2.1.1.
Quan hệ sở hữu

32
2.1.1.1.
Quan hệ sở hữu giữa vợ và chồng
32
2.1.1.2.
Quan hệ sở hữu giữa cha mẹ và con
55
2.1.1.3.
Quan hệ sở hữu giữa anh chị em, ông bà và các cháu, giữa các thành
viên khác trong gia đình
62
2.1.2.
Quan hệ cấp dưỡng
63
2.1.2.1.
Quan hệ cấp dưỡng giữa vợ và chồng
63
2.1.2.2.
Quan hệ cấp dưỡng giữa bố mẹ và con
65
2.1.2.3.
Quan hệ cấp dưỡng giữa anh chị em, ông bà và các cháu, giữa các
thành viên khác trong gia đình
67
2.1.3.
Quan hệ thừa kế
69
2.1.3.1.
Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng
69

2.1.3.2.
Quan hệ thừa kế giữa bố mẹ và con
74
2.1.3.3.
Quan hệ thừa kế giữa ông bà và các cháu, giữa anh chị em, giữa các
thành viên khác trong gia đình
75
2.2.
Thực tiễn thi hành, áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của toà
án đối với các vụ việc liên quan đến tài sản giữa các thành viên trong
gia đình
76

Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH VỀ QUAN HỆ
TÀI SẢN GIỮA CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH
TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000
82
3.1.
Một số định hướng của việc hoàn thiện chế định về quan hệ tài sản
giữa các thành viên trong gia đình
82
3.2.
Một số giải pháp hoàn thiện chế định về quan hệ tài sản giữa các
thành viên trong gia đình trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
84
3.2.1.
Sửa đổi, bổ sung một số chế định về quan hệ sở hữu giữa các thành
viên trong gia đình trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
84
3.2.1.1.

Trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân còn tồn tại
84


3
3.2.1.2.
Trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên chết trước
hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết
86
3.2.1.3.
Trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
87
3.2.1.4.
Trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi có lý do chính đáng
khác
88
3.2.1.5.
Trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
không có văn bản thỏa thuận
89
3.2.1.6.
Trường hợp chia tài sản chung khi vợ chồng đã ly hôn
90
3.2.1.7.
Trường hợp phân chia tài sản chung khi vợ chồng không thỏa thuận
được việc chia tài sản
91
3.2.1.8.
Trường hợp toàn bộ tài sản chung của vợ chồng đã được phân chia,
phát sinh các khoản mục chi tiêu chung khác

91
3.2.1.9.
Trường hợp một bên vợ hoặc chồng bị tòa án tuyên bố là đã chết nay
quay trở về
93
3.2.2.
Sửa đổi, bổ sung một số chế định về quan hệ cấp dưỡng giữa các
thành viên trong gia đình trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
94
3.2.3.
Sửa đổi, bổ sung một số chế định về quan hệ thừa kế giữa các thành
viên trong gia đình trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
97
3.2.3.1.
Điều kiện thừa kế
97
3.2.3.2.
Thừa kế giữa ông bà và cháu trường hợp cháu chết trước ông, bà
98

KẾT LUẬN
100

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
102









4
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đời sống con người bao gồm hai khía cạnh đời sống vật chất và đời
sống tinh thần. Đời sống vật chất và tinh thần luôn có mối quan hệ chặt chẽ và
phản ánh lẫn nhau. Cùng với lịch sử phát triển các chế độ xã hội, vị trí của vật
chất và sự phân chia, sở hữu vật chất giữa các thành viên trong cộng đồng xã
hội cũng có những biến đổi ảnh hưởng không nhỏ tới tinh thần của các thành
viên trong xã hội. Xã hội ngày càng phát triển, những tranh chấp phát sinh từ
quan hệ tài sản càng trở nên phức tạp. Để giải quyết những tranh chấp này tất
yếu đòi hỏi cộng đồng xã hội thiết lập những quy tắc, quy định trong cộng
đồng. Nhà nước nào cũng thông qua pháp luật để điều chỉnh các quan hệ tài
sản. Tuy nhiên, tùy thuộc vào các chế độ xã hội và mức độ phát triển kinh tế -
xã hội trong từng thời kỳ của một chế độ xã hội nhất định, hệ thống pháp luật
liên quan đến vấn đề này có những nét đặc thù riêng.
Quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình là một quan hệ dân
sự, nó mang những nét chung của quan hệ tài sản giữa các thành viên trong xã
hội nói chung. Mặt khác, nó mang những đặc thù riêng, bởi giữa các chủ thể
trong quan hệ này có mối quan hệ hôn nhân - gia đình. Quan hệ tài sản trong
gia đình là một vấn đề rất nhạy cảm, rất dễ làm cho các thành viên trong gia
đình mâu thuẫn, tranh chấp. Quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia
đình nếu được giải quyết tốt sẽ là cơ sở cho sự quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ
lẫn nhau, nếu không được giải quyết tốt sẽ dẫn đến những tổn thương của các
thành viên trong gia đình và ảnh hưởng to lớn đến hạnh phúc gia đình. Do
vậy, việc điều chỉnh quan hệ về tài sản giữa các thành viên trong gia đình là
rất quan trọng và cần thiết, góp phần làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội,

đặc biệt là trong mỗi gia đình - tế bào của xã hội - và hạn chế được nhiều mâu
thuẫn tiềm tàng.


5
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, Đảng và Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy
định liên quan đến quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình như:
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật Dân sự, Luật
Hôn nhân và Gia đình Với việc ban hành Bộ luật Dân sự năm 2005 và các
đạo luật khác về dân sự, các quan hệ tài sản trong lĩnh vực hôn nhân gia đình
được xác định là một bộ phận thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự.
Những quy định của pháp luật hiện hành đã phần nào đáp ứng được yêu cầu,
đòi hỏi của xã hội trong giai đoạn hiện nay nhưng vẫn còn tản mạn, chưa
đồng bộ. Quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về việc chia tài sản chung
của vợ chồng đã tạo ra sự biệt lập về tài sản vợ và chồng nhưng lại chưa có
quy định về cơ sở tài sản chung cho gia đình khi thực hiện mục tiêu chung.
Bên cạnh đó, đặc thù chế độ sở hữu tài sản trong gia đình thuộc các nhóm dân
cư khác nhau ở thành phố và nông thôn chưa được ghi nhận. Một số nội dung
đang nổi cộm hiện nay nhưng chưa được quy định cụ thể như: quan hệ tài sản
giữa các thành viên trong gia đình có yếu tố nước ngoài; đối tượng sở hữu tài
sản là sở hữu trí tuệ, là cổ phiếu, cổ phần trong doanh nghiệp, lợi nhuận kinh
doanh, quyền sử dụng đất Đặc biệt, trong điều kiện Việt Nam đang trong
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập
nền kinh tế quốc tế thì các quy định của pháp luật nói chung và các quy định
của pháp luật về quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình còn nhiều
nội dung chồng chéo, thiếu cụ thể, không rõ ràng gây khó khăn trong quá trình
thực hiện.
Xuất phát từ lý luận và yêu cầu thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu
quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình theo Luật Hôn nhân và Gia

đình năm 2000 là một việc làm vô cùng cấp thiết và mới mẻ. Trên cơ sở phân
tích những quy định hiện hành trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000,
luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về quan hệ


6
tài sản giữa các thành viên trong gia đình, góp phần xây dựng một hệ thống
luật pháp hoàn chỉnh phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.
Đề tài luận văn được biểu đạt với tiêu đề "Quan hệ tài sản giữa các
thành viên trong gia đình theo luật Hôn nhân và gia đình năm 2000".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình là một vấn đề được
nhiều tác giả nghiên cứu. Mỗi tác giả đề cập vấn đề dưới các khía cạnh khác
nhau như: tài sản chung, tài sản riêng của các thành viên, quyền và nghĩa vụ tài
sản giữa các thành viên, chế định cấp dưỡng trong luật hôn nhân và gia đình,
quan hệ thừa kế Tác giả Nguyễn Văn Cừ nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ
và chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam (luận án tiến sĩ của Nguyễn
Văn Cừ, Hà Nội, 2005); tác giả Ngô Thị Hường đã tập trung vào nội dung chế
định cấp dưỡng của các thành viên trong gia đình (luận án tiến sĩ của Ngô Thị
Hường, Hà Nội, 2006); tác giả Tạ Thị Phúc nghiên cứu chế độ tài sản của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân…; các nội dung về quan hệ tài sản giữa vợ và
chồng trong thời kỳ hôn nhâ (luận văn thạc sĩ của Tạ Thị Phúc, Hà Nội, 2007)
Ngoài ra, có nhiều giáo trình, tài liệu tham khảo và các bài đăng trên
các tạp chí chuyên ngành luật viết về vấn đề này. Như Nguyễn Ngọc Điện -
tác giả của giáo trình Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và Gia đình Việt
Nam (tập 2 - Các quan hệ tài sản giữa vợ chồng, Nxb Trẻ, Hà Nội, 2005); Hà
Thị Mai Hiên tác giả của Tập bài giảng tài sản và quyền sở hữu (Đại học
Huế, 1999); Tác giả Nguyễn Phương Lan viết bài "Vấn đề cấp dưỡng trong
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000" đăng trên tạp chí Luật học, số 11 năm
2001

Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách tổng
quát quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình, được thể hiện trên ba
khía cạnh: quan hệ sở hữu, quan hệ cấp dưỡng và quan hệ thừa kế. Cũng như
thể hiện cả ba nhóm sở hữu, cấp dưỡng, thừa kế đó trên mối qua hệ giữa vợ


7
và chồng, giữa bố mẹ và con, giữa ông bà và cháu, anh chị em và các thành
viên trong gia đình. Các nghiên cứu cũng mới dừng lại ở việc phân tích các
quy định pháp luật hiện hành tại luật dân sự, luật hôn nhân và gia đình qua
các thời kỳ. Chính vì vậy các giải pháp góp phần hoàn thiện các chế định
quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình trong luật hôn nhân và gia
đình chưa được đề cập theo một hệ thống toàn diện.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình được đề cập trong
nhiều văn bản pháp luật, luận văn tập trung nghiên cứu các quy định trong
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Quan hệ tài sản (quan hệ sở hữu, quan hệ cấp dưỡng và quan hệ thừa
kế) giữa các thành viên trong gia đình được thể hiện ở: mối quan hệ giữa vợ
và chồng, mối quan hệ giữa bố mẹ và con, mối quan hệ giữa ông bà và cháu,
anh chị em, những người thân trong gia đình.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
4.1. Mục đích
Đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định về quan hệ tài sản giữa các
thành viên trong gia đình trong Luật Hôn nhân và gia đình, góp phần hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, vì một mục tiêu
xã hội vững mạnh của mọi người dân
4.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quan hệ tài sản giữa các thành
viên trong gia đình.

- Phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về quan
hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình trong Bộ luật Dân sự, Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 và những văn bản pháp luật liên quan.


8
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành trong hoạt động
xét xử của ngành Tòa án.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định về các quan hệ tài sản
giữa các thành viên trong gia đình trong luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Pháp luật là một bộ phận của
kiến trúc thượng tầng, được hình thành từ cơ sở hạ tầng phù hợp. Các quy
định của pháp luật phải phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế xã
hội thì mới có tính khả thi trong quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật. Vì
vậy, tính lịch sử cụ thể của phương pháp luận duy vật biện chứng đòi hỏi phải
đặt ra và giải quyết các vấn đề này trong bối cảnh đất nước Việt Nam đang trong
thời kỳ hội nhập và phát triển, phù hợp với truyền thống văn hoá của dân tộc
Việt Nam.
Phương pháp tiếp cận hệ thống cấu trúc cũng cần được đặt ra trong
nghiên cứu quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình. Quan hệ tài sản
giữa các cá nhân trước hết là quan hệ dân sự. Nếu giữa họ có quan hệ gia đình
thì các quan hệ tài sản sản này sẽ có những đặc điểm riêng trên nền chung của
quan hệ tài sản dân sự. Mặt khác, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia
đình chịu sự tác động của yếu tố hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng. Và
giữa các quan hệ này chịu sự tác động ảnh hưởng hệ thống với nhau.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
* Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Sử dụng các phương pháp như phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống

hóa, khái quát hóa, lịch sử. Các phương pháp được sử dụng để tổng hợp và
phân tích hệ thống các quan điểm, các nghiên cứu về quan hệ tài sản giữa các
thành viên trong gia đình trong hệ thống pháp luật của một số quốc gia trên


9
thế giới và Việt Nam cũng như quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia
đình qua các thời kỳ phát triển xã hội.
* Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra, quan sát, thống kê được sử dụng trong quá trình
mô tả thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành trong hoạt động xét xử quan hệ
tài sản giữa các thành viên trong gia đình của ngành Tòa án.
6. Những đóng góp mới của luận văn
6.1. Về lý luận
- Hệ thống hóa lý luận về quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia
đình
- Phân tích, hệ thống hóa các quy định của pháp luật hiện hành về quan
hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình tại một số nước trên thế giới
6.2. Về thực tiễn
- Nhận diện thực trạng các quy định của pháp luật hiện hành tại Việt
Nam về quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình, thực tiễn áp dụng
trong hoạt động xét xử của ngành Tòa án.
- Xây dựng hệ thống giải pháp hoàn thiện các quy định về quan hệ tài
sản giữa các thành viên trong gia đình trong Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quan hệ tài sản giữa các thành viên trong
gia đình.

Chương 2: Thực trạng pháp luật hiện hành về quan hệ tài sản giữa các
thành viên trong gia đình và thực tiễn áp dụng.


10
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về
quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình trong luật Hôn nhân và Gia
đình năm 2000.


11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ TÀI SẢN
GIỮA CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH

1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA QUAN HỆ TÀI SẢN GIỮA
CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH
1.1.1. Khái niệm quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình
Tài sản
Từ xa xưa, con người đã có ý thức thu lượm thức ăn để sống. Họ cũng
ý thức rằng muốn có nhiều thức ăn hơn phải có những công cụ thích hợp. Của
cải lúc này không chỉ là những sản phẩm tự nhiên mà nhờ có công cụ lao
động nó đã trở thành những thứ có giá trị hơn, trở thành tài sản. Tài sản là
một khái niệm rộng, được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và đã được thay
đổi theo từng giai đoạn lịch sử phát triển chế độ chính trị - kinh tế - xã hội của
mỗi đất nước. Theo Điều 163 Bộ Luật Dân sự năm 2005 thì "tài sản bao gồm
vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [28].
Quan hệ tài sản
Dưới bất kỳ một xã hội nào, con người muốn tồn tại thì họ phải tham
gia vào các quan hệ xã hội, nhằm đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần

trong cuộc sống. Dưới góc độ pháp lý, các quan hệ mà con người tham gia
nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần cho mình được gọi là quan hệ nhân thân, các
quan hệ nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất gọi là quan hệ tài sản.
Tài sản là một khái niệm thay đổi với thời gian vì vậy quan hệ tài sản
giữa các thành viên trong xã hội cũng không phải bất biến mà luôn thay đổi
với sự phát triển của kinh tế - xã hội. Quan hệ tài sản trước hết là quan hệ xã
hội giữa người với người về tài sản. Nhưng khi xã hội phát triển, của cải vật
chất bắt đầu dư thừa, xuất hiện tư tưởng chiếm giữ làm của riêng - đó cũng là


12
giai đoạn sơ khai của chế độ tư hữu tài sản thì cũng nẩy sinh nhu cầu được ghi
nhận những tài sản của mình bằng một chế định pháp luật. Khi được pháp luật
điều chỉnh thì quan hệ tài sản trở thành quan hệ pháp luật.
Các thành viên trong gia đình
Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 định nghĩa: "Gia đình là
tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc
do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với
nhau" [25]. Như vậy, có thể hiểu thành viên trong gia đình là những người có
quan hệ do hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng.
Gia đình có vị trí quan trọng đối với sự phát triển của một xã hội và
từng thành viên trong gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình có tốt
thì xã hội mới tốt. Gia đình là môi trường gìn giữ và phát huy văn hóa truyền
thống, là nơi giáo dục nề nếp, giúp hình thành nhân cách con người. Gia đình
là môi trường đầu tiên mà mỗi con người hoàn thiện thể chất và tinh thần,
chuẩn bị hành trang hòa nhập với cộng đồng, với đời sống xã hội. Hôn nhân
và gia đình là những hiện tượng phát sinh trong quá trình phát triển của xã hội
loài người. Hiện tượng này cũng chịu sự tác động của các điều kiện kinh tế,
xã hội như các hiện tượng khác. Khi xuất hiện Nhà nước, sự liên kết của các
cá nhân nhằm xây dựng gia đình được coi là sự kiện pháp lý làm phát sinh,

thay đổi quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ pháp luật. Quan hệ
hôn nhân và gia đình không chỉ mang ý chí cá nhân mà còn thể hiện cả ý chí
của Nhà nước. Quan hệ hôn nhân và gia đình khi được pháp luật điều chỉnh
trở thành các quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình. Đó là những quan hệ về
nhân thân và quan hệ về tài sản phát sinh giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và
con Thông thường quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình chỉ giới hạn giữa
các thành viên trong gia đình, trừ một số trường hợp chủ thể của quan hệ pháp
luật hôn nhân và gia đình không phải là thành viên của gia đình. Các chủ thể
trong quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình thường gắn kết với nhau bởi
quan hệ tình cảm hoặc huyết thống hoặc cả hai yếu tố.


13
Quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình
Quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình cũng là mối quan
hệ giữa người với người liên quan tới tài sản nhưng không phải là sở hữu của
từng thành viên trong gia đình mà là mối quan hệ ràng buộc, gắn kết bởi quan
hệ hôn nhân và gia đình. Trong đời sống hàng ngày, các thành viên trong gia
đình tham gia các quan hệ xã hội, sản xuất ra của cải vật chất nhằm đáp ứng
nhu cầu cuộc sống hàng ngày của bản thân cũng như tạo lập nền tảng kinh tế,
vật chất, tinh thần để xây dựng cuộc sống gia đình Như vậy, mỗi thành viên
trong gia đình khi tham gia các quan hệ xã hội đều có thể là những chủ thể
độc lập của quyền sở hữu cá nhân, nhưng trong quan hệ gia đình mỗi thành
viên đều có trách nhiệm đóng góp công sức của mình để tạo lập cuộc sống
chung của cả gia đình. Mối quan hệ ràng buộc này xuất phát từ quan hệ huyết
thống, nhu cầu tình cảm, quan hệ nuôi dưỡng và nó chỉ tồn tại khi có quan hệ
hôn nhân và gia đình.
Trong gia đình, ngoài yếu tố tình cảm, huyết thống, nuôi dưỡng thì
cũng cần phải có tài sản để đảm bảo cho cuộc sống của cả gia đình. Vì vậy,
mỗi thành viên trong gia đình cần nỗ lực đóng góp công sức để phục vụ

những nhu cầu chung trong gia đình và khi họ tách ra thì có nghĩa họ đã tạo
lập một gia đình mới với những thành viên mới nhưng đồng thời vẫn có nghĩa
vụ với những thành viên trong gia đình vốn có bởi sự ràng buộc nói trên,
thêm vào đó là sự ràng buộc với những thành viên trong gia đình mới. Trong
cuộc sống, mỗi thành viên trong gia đình đều có những quan hệ xã hội khác,
ngoài quan hệ hôn nhân và gia đình. Họ tham gia vào các quan hệ như giao
dịch, trao đổi, mua bán với nhiều người như mua đồ dùng cho gia đình, bản
thân họ có được thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh với người khác,
được cho tặng riêng một tài sản nào đó Tất cả những quan hệ này diễn ra
hàng ngày trong cuộc sống gia đình do đó đòi hỏi cần có quy định nào đó về
cách xử sự chung cho phù hợp để các quan hệ này không gây ảnh hưởng đến
lợi ích của các thành viên trong gia đình cũng như của người thứ ba. Cụ thể,


14
Nhà nước cần ban hành các quy phạm pháp luật để điều chỉnh hành vi của các
thành viên trong gia đình, đó là quy tắc xử sự chung và được tổng hợp thành
chế định về quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình.
Như vậy, quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình là chế
định thể hiện mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình về sở hữu tài sản
và phương thức thực hiện quyền sở hữu tài sản của các thành viên trong gia
đình. Ở đây, quan hệ tài sản không chỉ thể hiện tài sản thuộc về ai, do ai
chiếm hữu, sử dụng mà còn bao gồm cả việc dịch chuyển tài sản từ chủ thể
này sang chủ thể khác. Mỗi quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình
có những phương thức thực hiện quyền sở hữu riêng. Phương thức này có thể
là ước định (do các bên tự thỏa thuận) hay pháp định (do pháp luật quy định).
Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, các thành viên trong gia đình có thể thỏa
thuận mức đóng góp về tiền, tài sản, công sức… để đảm bảo cuộc sống chung
của cả gia đình, họ có thể phân công lao động cho phù hợp với từng vị trí, vai
trò của mỗi thành viên trong gia đình nhằm mục đích duy trì gia đình nói

chung và sự tồn tại, phát triển của mỗi thành viên trong gia đình nói riêng. Có
thể nói, quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình được xây dựng dựa
trên sự thỏa thuận của các bên không trái với pháp luật và đạo đức xã hội.
Theo đó họ có thể lựa chọn một chế độ tài sản phù hợp để duy trì cuộc sống
của cả gia đình đó là chế độ cộng đồng (sở hữu chung của tất cả thành viên)
và phân sản (sở hữu riêng của từng người). Tuy nhiên, ở chế độ cộng đồng thì
cần có sự thỏa thuận rõ về những tài sản chung, quyền và nghĩa vụ của mỗi
thành viên đối với khối tài sản chung đó, cách thức phân chia tài sản chung
Còn đối với chế độ phân sản thì cần dựa trên năng lực thực tế của mỗi thành
viên đóng góp nhằm đảm bảo cuộc sống chung của gia đình.
Chế độ tài sản pháp định đó là việc quy định về căn cứ, nguồn gốc,
thành phần các loại tài sản, quyền và nghĩa vụ của mỗi thành viên trong gia
đình đối với tài sản đó, các trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản
chung… Thực ra, chế độ tài sản cộng đồng và chế độ tài sản pháp định được


15
thể hiện rõ nét hơn cả ở quan hệ vợ chồng và được pháp luật ghi nhận một
cách đầy đủ hơn cả. Tuy nhiên, trong quan hệ hôn nhân và gia đình, ngoài
quan hệ vợ chồng còn có các mối quan hệ khác như quan hệ giữa cha mẹ và
con, quan hệ giữa ông bà nội ngoại và cháu, giữa anh chị em và các thành
viên khác trong gia đình. Có thể thấy đây là mối quan hệ rất rộng, bao trùm
đến ba thế hệ, nó không chỉ nằm ở một gia đình nhỏ mà là đại gia đình. Do
đó, quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình cũng vô cùng phức tạp.
Quan hệ này không chỉ xuất phát từ vấn đề huyết thống (liên quan đến cấp
dưỡng, thừa kế) mà còn xuất phát từ tình thương, trách nhiệm giữa người nọ
với người kia (nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục…).
1.1.2. Phân loại và đặc điểm của quan hệ tài sản giữa các thành
viên trong gia đình
1.1.2.1. Phân loại quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình

Quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình bao gồm ba khía
cạnh:
- Quan hệ sở hữu: Quan hệ sở hữu chỉ là một nội dung của quan hệ tài
sản nhưng là nội dung quan trọng, quyết định những nội dung sau của quan hệ
tài sản. Quan hệ sở hữu giữa các thành viên trong gia đình bao gồm hai nhóm:
quan hệ sở hữu đối với tài sản chung và quan hệ sở hữu đối với tài sản riêng.
Tùy thuộc vào chế độ xã hội khác nhau mà hai hình thức sở hữu này có thể
cùng được thừa nhận.
- Quan hệ thừa kế: Vợ chồng được thừa kế tài sản của nhau, con được
thừa kế tài sản của cha mẹ và ngược lại, anh chị em được thừa kế tài sản của
nhau khi không còn hàng thừa kế 1, cháu được thừa kế tài sản của ông bà và
ngược lại khi không có 2 hàng thừa kế trên.
- Quan hệ cấp dưỡng: Cấp dưỡng là một thuật ngữ pháp lý được sử
dụng trong pháp luật hôn nhân và gia đình để thể hiện mối quan tâm ràng


16
buộc về quyền và nghĩa vụ giữa những người không sống chung với nhau
nhưng đang có hoặc đã có quan hệ gia đình trong việc bảo đảm cuộc sống cho
những người chưa thành niên, người đã thành niên nhưng trong tình trạng mất
hoặc bị giảm sút khả năng lao động, không có thu nhập và không có tài sản
hoặc tuy có nhưng không đủ để bảo đảm cuộc sống của mình. Cấp dưỡng còn
là biện pháp chế tài đối với người có hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ
nuôi dưỡng.
Khái niệm này không chỉ nêu rõ mối quan hệ giữa các chủ thể của
quan hệ cấp dưỡng, thể hiện bản chất của quan hệ cấp dưỡng mà còn đặt cơ
sở lý luận cho việc quy định nội dung của chế định cấp dưỡng và hoàn thiện
luật về cấp dưỡng
1.1.2.2. Đặc điểm của quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình
Các thành viên trong gia đình cũng là thành viên của xã hội. Vì vậy,

quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình trước hết là quan hệ xã hội,
quan hệ dân sự. Khi quan hệ này được pháp luật điều chỉnh thì đó là quan hệ
pháp luật. Như vậy, quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình cũng
mang những đặc điểm của quan hệ xã hội, quan hệ dân sự và quan hệ pháp
luật.
Tuy nhiên, do tác động của các yếu tố hôn nhân, huyết thống và nuôi
dưỡng mà quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình có những điểm
khác biệt những quan hệ tài sản khác.
- Thông thường là sự đóng góp của cải, vật chất của thành viên nhằm
duy trì cuộc sống chung của gia đình. Tuy nhiên, có những trường hợp tạo
nên khối tài sản chung của các thành viên như được thừa kế, tặng cho chung
hoặc mua chung… Trong trường hợp gia đình là một tổ sản xuất cùng tham
gia sản xuất mang về lợi nhuận thì lợi nhuận đó thuộc sở hữu chung của các
thành viên trong gia đình. Sở hữu chung của các thành viên trong gia đình là
có thể phân chia được. Bên cạnh những tài sản thuộc sở hữu chung thì mỗi


17
thành viên đều có thể là chủ thể của sở hữu cá nhân. Bởi vì, mỗi người có
những quan hệ xã hội khác, nghề nghiệp, công việc khác nhau, thu nhập khác
nhau.
- Quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình thực chất là các
quy định pháp luật có liên quan đến việc xác lập, chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản của các thành viên trong gia đình. Quan hệ tài sản này đảm bảo
quyền bình đẳng của các thành viên trong gia đình, quyền độc lập của mỗi
người, quyền tự do cá nhân vì hạnh phúc chung của cả gia đình, vì sự ổn định,
hòa thuận giữa các thành viên trong gia đình. Xuất phát từ tính chất và mục
đích đặc biệt của quan hệ hôn nhân - gia đình được xác lập, đó là tính cộng
đồng của quan hệ này, mặt khác mỗi thành viên trong gia đình vừa là chủ thể
của quan hệ hôn nhân và gia đình nhưng đồng thời cũng là chủ thể của các

quan hệ pháp luật dân sự khác khi tham gia các quan hệ này.
- Về mặt chủ thể: các bên phải có quan hệ hôn nhân và gia đình, có
nghĩa là ngoài việc phải đáp ứng các yêu cầu là chủ thể của quan hệ pháp luật
dân sự nói chung như đủ năng lực hành vi dân sự còn phải đáp ứng các điều
kiện cụ thể của quan hệ hôn nhân và gia đình (độ tuổi, không phạm phải điều
cấm, ý chí tự nguyện của các bên ). Đây là đặc điểm riêng có ở quan hệ hôn
nhân và gia đình và mối quan hệ ràng buộc giữa các thành viên trong gia đình
là mối quan hệ chỉ duy nhất tồn tại ở quan hệ này.
- Xuất phát từ vị trí, vai trò của gia đình đối với sự tồn tại và phát triển
của xã hội, cho nên các nhà làm luật khi quy định về quan hệ tài sản giữa các
thành viên trong gia đình đều bắt đầu từ mục đích trước tiên và chủ yếu nhằm
bảo đảm lợi ích chung của gia đình, trong đó có lợi ích của từng thành viên
trong gia đình. Sở hữu đối với tài sản chung là sở hữu theo phần. Sở hữu
chung theo phần là quyền sở hữu đối với một tài sản cụ thể thuộc các đồng sở
hữu chủ theo từng phần, nghĩa là một sở hữu chủ có một phần quyền nhất


18
đình đối với tài sản tương ứng với tỷ lệ phần quyền đối với toàn bộ tài sản.
Việc mỗi người trực tiếp sử dụng phần tài sản thực tế không làm thay đổi bản
chất quan hệ sở hữu chung theo phần. Việc mỗi cá nhân chiếm hữu, sử dụng
và định đoạt tài sản chung như thế nào được giải quyết theo nguyên tắc thỏa
thuận giữa các bên và theo quy định của pháp luật. Phần quyền đối với tài sản
thuộc sở hữu chung là khách thể quyền sở hữu, có thể là đối tượng của các
loại giao dịch như: mua bán, trao đổi, tặng cho, thừa kế và có thể là đối
tượng, khách thể quyền yêu cầu của các chủ nợ. Mỗi đồng sở hữu chủ có thể
tự mình định đoạt phần tài sản của mình trong khối tài sản chung nhưng vì
việc định đoạt này luôn ảnh hưởng đến lợi ích của các đồng sở hữu khác nên
sự định đoạt đó phải do pháp luật quy định. Việc tách phần quyền tài sản cho
một trong các thành viên được tiến hành khi điều đó không làm ảnh hưởng

đến giá trị kinh tế của tài sản đó. Nếu không khắc phục được thì người muốn
tách phần quyền tài sản chỉ có thể nhận đền bù tương xứng với phần quyền
của người đó trong khối tài sản chung.
- Căn cứ xác lập, thay đổi hay chấm dứt quan hệ tài sản giữa các thành
viên trong gia đình phụ thuộc vào sự kiện phát sinh và chấm dứt của quan hệ
hôn nhân gia đình. Tức là chỉ khi nào có quan hệ hôn nhân gia đình thì mới
làm phát sinh quan hệ hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình.
- Quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình mang những đặc
thù riêng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Đối với tài sản
chung của các thành viên trong gia đình thì bắt buộc mỗi thành viên khi tham
gia các giao dịch dân sự, kinh tế phải xuất phát từ lợi ích chung của gia đình.
Khi các thành viên trong gia đình sử dụng tài sản chung để phục vụ mục đích
thiết yếu của gia đình thì pháp luật coi là có sự thỏa thuận đương nhiên của
các thành viên trong gia đình, trừ những tài sản chung có giá trị lớn. Ví dụ:
đối với tài sản chung là bất động sản mà các thành viên trong gia đình là đồng
sở hữu thì việc sử dụng và định đoạt khối tài sản này phải có sự thỏa thuận


19
của các đồng sở hữu. Trường hợp một thành viên trong gia đình - là một đồng
sở hữu - muốn tách riêng phần tài sản của mình trong khối bất động sản trên
trước hết cần có sự đồng ý của các đồng sở hữu khác và phải đáp ứng được
những yêu cầu của pháp luật về việc chia tách thì mới có thể thực hiện được.
1.2. ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT VÀ PHÂN LOẠI CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ
TÀI SẢN GIỮA CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH
1.2.1. Quá trình điều chỉnh pháp luật về quan hệ tài sản giữa các
thành viên trong gia đình
Việc điều chỉnh pháp luật về quan hệ tài sản giữa các thành viên trong
gia đình xuất phát từ sự thay đổi về quan điểm, về bản chất các mối quan hệ
giữa các thành viên trong gia đình qua các giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội

khác nhau.
Có thể nói, từ xa xưa, gia đình truyền thống của Việt Nam là mẫu gia
đình gồm nhiều thế hệ chung sống dưới một mái nhà, gia đình này không chỉ
có những người cùng huyết thống như vợ - chồng, cha mẹ và con cái mà còn
bao gồm nhiều thành phần khác cùng sống chung như dâu, rể, con chung, con
riêng, con nuôi, ông bà nội ngoại… Với kiểu gia đình nhiều thế hệ như vậy
rất dễ xảy ra xung đột, mâu thuẫn do sự chênh lệch về tuổi tác, cách sống,
cách suy nghĩ… dẫn đến nhiều việc đáng tiếc xảy ra như đùn đẩy trách nhiệm
chăm sóc, phụng dưỡng bố mẹ già, không ai chăm lo cho cuộc sống chung
của cả gia đình, ý thức trách nhiệm của mỗi thành viên bị sao nhãng… Trước
thực tế này cần xác định trách nhiệm pháp lý cho các thành viên cùng chung
sống trong gia đình để điều chỉnh một cách toàn diện và đầy đủ hơn mối quan
hệ giữa các thành viên trong gia đình. Bởi, trong gia đình, ngoài mối quan hệ
tình cảm thì giữa các thành viên trong gia đình còn có những mối quan hệ
khác rất quan trọng, liên quan đến các quyền và nghĩa vụ pháp lý về mặt nhân
thân và tài sản. Các thành viên trong gia đình cần quan tâm, chăm sóc, giúp
đỡ lẫn nhau, sự chia sẻ trách nhiệm của mỗi thành viên trong gia đình sẽ làm


20
cho quan hệ gia đình ngày càng gắn bó, tạo nên một gia đình hòa thuận, tiến
bộ.
Bên cạnh tình cảm, sự quan tâm dành cho nhau, mỗi thành viên trong
gia đình cũng cần có trách nhiệm đóng góp công sức, tiền và tài sản khác để
duy trì cuộc sống chung của cả gia đình trên cơ sở phù hợp với thu nhập, khả
năng thực tế của mỗi người. Ở đây, sự bình đẳng của các thành viên được đề
cập rõ thông qua trách nhiệm đối với việc duy trì cuộc sống chung của gia
đình. Mỗi thành viên trong gia đình cần ý thức được trách nhiệm vật chất của
mình đối với cuộc sống chung của gia đình thì mới có thể duy trì được gia
đình đó, đảm bảo hạnh phúc gia đình. Đi đôi với trách nhiệm là quyền của

mỗi thành viên trong gia đình, họ cũng có quyền được hưởng sự chăm sóc,
giúp đỡ của thành viên khác. Quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên
trong gia đình được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Đây là quyền lợi
chính đáng của họ và được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự. Quy định như vậy
thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc giữ vững và phát huy
truyền thống gia đình tốt đẹp của người dân Việt Nam, khuyến khích các thành
viên trong gia đình quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, chung sức xây
dựng và duy trì một gia đình hòa thuận, hạnh phúc, là nơi nuôi dưỡng nhân
tài, nơi che chở cho người già, trẻ nhỏ và to lớn hơn nữa là tế bào của xã hội.
Như trên đã phân tích, quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia
đình là một dạng của quan hệ dân sự về tài sản. Vì vậy nó thuộc đối tượng
điều chỉnh của luật dân sự. Tuy nhiên, thực tế quan hệ tài sản giữa các thành
viên trong gia đình cơ những điểm khác biệt cơ bản so với quan hệ tài sản
thông thường mà luật dân sự điều chỉnh là căn cứ phát sinh quan hệ này là
quan hệ nhân thân mà nó được đánh dấu bằng sự kiện kết hôn. Còn quan hệ
tài sản của luật dân sự xuất hiện hoàn toàn dựa trên yếu tố ý chí của các bên.
Đây chính là căn cứ để các nhà làm luật tách và đưa luật hôn nhân gia đình trở
thành một luật độc lập trong hệ thống pháp luật của nước ta. Tuy nhiên, còn


21
rất nhiều nội dung về quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình được
xác định trong luật dân sự. Ngay trong các văn bản luật hôn nhân và gia đình,
các nội dung về quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình cũng luôn
được điều chỉnh qua các thời kỳ phát triển của đất nước. Thời kỳ trước Cách
mạng Tháng Tám, quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình cũng đã
được quy định trong bộ Quốc triều Hình luật thời Lê, bộ Hoàng Việt luật lệ
nhà Nguyễn, Dân luật Bắc kỳ, Hoàng việt Trung Kỳ hộ luật… Từ năm 1945
đến nay, Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã từng
bước xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật hôn nhân và

gia đình nói riêng. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành 3 đạo luật hôn nhân và
gia đình tương ứng với từng giai đoạn lịch sử là năm 1959, 1986 và 2000.
Phát huy tinh thần kế thừa và phát triển, nội dung quan hệ tài sản giữa các
thành viên trong gia đình đã có những thay đổi lớn trong từng văn bản luật.
Các văn bản sau đã kế thừa hầu hết những quy định tiến bộ của văn bản trước
và có những sửa đổi, bổ sung nhất định và cần thiết đáp ứng nhu cầu phát
triển của xã hội về lĩnh vực này. Cụ thể ở một số nét cơ bản sau:
- Do những nguyên nhân khách quan và điều kiện lịch sử cụ thể nên
Luật Hôn nhân và gia đình trước đây (năm 1959) mới chỉ chú trọng đến vấn
đề kết hôn, ly hôn, quan hệ giữa cha, mẹ và con cái; còn nhiều vấn đề trong
lĩnh vực hôn nhân và gia đình chưa được Luật điều chỉnh. Kế thừa và phát
huy nguyên tắc dân chủ, tiến bộ của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959,
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã ra đời trong những năm đầu của thời
kỳ đổi mới đã đề cập đến nhiều vấn đề khác như quan hệ giữa ông bà và cháu,
giữa anh chị em trong gia đình.
- Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và quá trình chủ động hội nhập kinh tế, quốc tế và khu vực, trong
lĩnh vực hôn nhân và gia đình nhiều nhân tố mới đã xuất hiện ở Việt Nam.
Quan hệ giữa ông bà, cha mẹ và con cái không còn mang tính áp đặt như
trước. Nam nữ bình đẳng hơn trong quan hệ gia đình, đặc biệt phụ nữ ngày


22
càng có nhiều cơ hội tham gia các công tác xã hội. Trẻ em được quan tâm hơn
và được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, bên cạnh những điều đã đạt được thì
cũng còn nhiều vấn đề nổi cộm thể hiện mặt trái của cơ chế thị trường. Con
người sống ích kỷ hơn, cá nhân hơn, xu hướng phủ nhận giá trị lịch sử, chay
theo lợi ích kinh tế, thương mại mà ít coi trọng những truyền thống gia đình
thể hiện quan quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình ngày càng rời rạc, thiếu
gắn kết đặc biệt thiếu sự quan tâm của con cháu đối với ông bà, cha mẹ, anh

chị em với nhau.
- Thực tiễn thi hành Luật Hôn nhân gia đình năm 1986 cho thấy một số
quy định của Luật nhằm điều chỉnh các mối quan hệ giữa các thành viên trong
gia đình còn mang tính nguyên tắc chung, thiếu cụ thể nên đã gây nên nhiều
khó khăn khi vận dụng, thiếu thống nhất khi thi hành. Trên cơ sở kế thừa và
phát huy những điểm tiến bộ của các luật hôn nhân và gia đình trước, Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có những quy định mới về quan hệ giữa
các thành viên trong gia đình nhằm củng cố quan hệ gia đình vững chắc. Mối
quan hệ giữa các thành viên trong gia đình được quy định rõ hơn với mục
đích khẳng định lại các quan hệ vốn thuộc phạm trù đạo đức, văn hóa truyền
thống trong pháp luật nhằm thể hiện ý chí của Nhà nước và xã hội trong việc
đề cao, tôn trọng và bảo vệ các truyền thống tốt đẹp vốn có của gia đình Việt
Nam.
- Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình phát sinh trên cơ sở quan
hệ hôn nhân và gia đình, thể hiện năng lực pháp luật và năng lực hành vi của
các chủ thể tham gia quan hệ này. Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
bao gồm quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản. Quan hệ nhân thân là yếu tố
tinh thần, tình cảm không mang nội dung kinh tế. Còn quan hệ tài sản luôn
gắn liền với nhân thân của mỗi chủ thể nhất định. Quan hệ tài sản giữa các
thành viên trong gia đình đó là các vấn đề liên quan tới tài sản giữa vợ và


23
chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa ông bà và cháu, giữa anh chị em với
nhau.
- Chế độ sở hữu của vợ chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình về
nguyên tắc là chế độ sở hữu chung hợp nhất pháp định. Tuy nhiên, sự thỏa
thuận của vợ chồng trong những trường hợp nhất định cũng có thể được thừa
nhận khi xác định một tài sản cụ thể thuộc sở hữu chung hay riêng của một
người nào đó, hoặc trong trường hợp chia tài sản để xác định nghĩa vụ của

một trong hai người đối với người thứ ba. Chỉ áp dụng chế độ sở hữu chung
hợp nhất đối với tài sản của vợ chồng.
- Trong hệ thống pháp luật Việt Nam có sự thừa nhận tính độc lập và
phân định tài sản giữa cha mẹ và các con. Do đó, giữa cha mẹ và các con nếu
có quan hệ sở hữu chung thì đó là sở hữu chung theo phần. Các con còn ở
chung với cha mẹ có quyền có tài sản riêng. Vì vậy, khi cha mẹ mở tài khoản
cho các con hoặc gửi tiền ngân hàng mang tên con mặc dù đó là thu nhập của
hai người trong thời kỳ hôn nhân thì nó vẫn được coi là tài sản thuộc sở hữu
riêng của người con đó mà không tính vào tài sản của cha mẹ. Khi ly hôn, tài
sản đó không bị tính vào tài sản chung của vợ chồng để chia.
- Chế độ sở hữu trong hộ gia đình, nhất là hộ nông dân có những đặc
điểm riêng của nó. Bộ luật Dân sự đã quy định về tài sản chung của hộ và
trách nhiệm dân sự của hộ gia đình khẳng định chế độ sở hữu chung hợp nhất
của hộ gia đình (Điều 108, 109). Tài sản chung của hộ gia đình bao gồm:
Tài sản do các thành viên tạo lập nên.
Tài sản được tặng cho chung.
Quyền sử dụng đất hợp pháp.
Các tài sản khác mà các thành viên thỏa thuận là tài sản chung của hộ.

×