Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (901.95 KB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN QUỲNH HƯƠNG



XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ LIÊN ĐỚI CỦA
VỢ CHỒNG TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM




LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC




HÀ NỘI - 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN QUỲNH HƯƠNG


XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ LIÊN ĐỚI CỦA VỢ CHỒNG


TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM


Chuyên ngành : Luật Dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN CỪ


HÀ NỘI - 2012

2
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan 1
Mục lục 2
Danh mục các chữ viết tắt 5
MỞ ĐẦU 6
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
LIÊN ĐỚI CỦA VỢ CHỒNG
1.1. Khái niệm chung về trách nhiệm dân sự liên đới và trách nhiệm dân
sự liên đới của vợ chồng…………………… 1
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm dân sự…………………………… 11
1.1.2. Khái niệm trách nhiệm dân sự liên đới ………………………………15
1.1.3. Khái niệm trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng……………… 17
1.2. Ý nghĩa của việc xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ
chồng…… 20

1.3. Sơ lƣợc về trách nhiệm liên dân sự đới của vợ chồng trong hệ thống
pháp luật Việt Nam………………………………………………….21
1.3.1. Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo những quy định về chế
độ hôn sản bậc nhất ở Nam kỳ trước năm 1959………………………21
1.3.2. Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo theo chế độ hôn sản bậc
nhất ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ trước năm 1959…………………………24
1.3.3. Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo Luật HN&GĐ trong thời kỳ
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (từ 1945 đến 1954)……………… 27

3
1.3.4. Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo Luật Gia đình năm
1959, Sắc luật số 15/64 năm 1964 và bộ Dân luật Sài Gòn năm 1972 ở miền
Nam …………………………………………………………………………29
1.3.5. Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm
1959 của Nhà nước ta………………….…………………………………….33
1.3.6. Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm
1986, 2000………………………………………………………………… 36
CHƢƠNG 2: XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ LIÊN ĐỚI CỦA
VỢ CHỒNG TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
2.1. Xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng đối với giao dịch
do một bên vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt
thiết yếu của gia đình………………………………………………………41
2.2. Xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong trƣờng hợp
vợ, chồng thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản có giá trị lớn, tài
sản là nguồn sống duy nhất của gia đình, tài sản đầu tƣ kinh doanh, tài
sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản đó là nguồn sống duy nhất của gia
đình………………………………………………………………………….46
2.3. Xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong trƣờng hợp
bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng………………………………………58
2.3.1. Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong việc bồi thường thiệt

hại ngoài hợp đồng do tài sản của vợ, chồng gây ra……………………… 59
2.3.2 Một số vấn đề còn tồn tại xung quanh việc xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra…………………………… 70

4
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ LIÊN
ĐỚI CỦA VỢ CHỒNG.
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về xác định trách nhiệm dân sự liên đới
của vợ chồng……………………………………………………………… 73
3.1.1. Nhận xét chung về thực tiễn áp dụng pháp luật xác định trách nhiệm
dân sự liên đới của vợ chồng……………………………………………… 73
3.1.2. Một số vụ việc cụ thể…………………………………………………74
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xác định trách nhiệm dân
sự liên đới của vợ chồng……………………………………………………80
KẾT LUẬN…………………………………………………………………87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………….88
PHỤ LỤC………………………………………………………………… 94











5

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

HN&GĐ
: HN&GĐ
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001
của Chính phủ quy định chi tiết Luật Hôn nhâ và
gia đình năm 2000
: Nghị định số
70/2001/NĐ-CP
BLDS
: BLDS
Dân Luật Bắc
: DLB
Dân Luật Trung
: DLT
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992
: Hiến pháp năm 1992
Sắc lệnh số 97-SL ngày 22/5/1950 về sửa đổi, bổ
sung một số quy lệ và chế định trong dân luật
: Sắc lệnh số 97-SL
Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 quy định về
giá thú, tử hệ và tài sản cộng đồng
: Sắc luật số 15/64
Tòa án Nhân dân tối cao
: TANDTC
Tòa án Nhân dân
: TAND










6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa tới nay, HN&GĐ luôn là một hiện tượng xã hội được các nhà
triết học, xã hội học, sử học, luật học tìm hiểu và nghiên cứu. Hôn nhân là
cơ sở của gia đình, còn gia đình là tế bào của xã hội mà trong đó kết hợp lợi
ích hài hòa của mỗi công dân, Nhà nước và xã hội.
Trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, vợ chồng ngày càng tham gia
tích cực vào nhiều các mối quan hệ xã hội nhằm đáp ứng những nhu cầu về
tinh thần và vật chất của cá nhân và của gia đình. Mối quan hệ mật thiết giữa
vợ chồng trong các mối quan hệ xã hội thể hiện vai trò và trách nhiệm của họ
đối với gia đình và xã hội. Việc xác định đúng đắn trách nhiệm của vợ chồng
trong các mối quan hệ xã hội đó là cần thiết bởi điều đó góp phần bảo đảm sự
công bằng xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể có liên quan. Tuy
nhiên, trong thực tế vợ chồng tham gia vào các quan hệ dân sự, kinh tế là rất
đa dạng và phức tạp, việc xác định trách nhiệm của vợ chồng trong từng mối
quan hệ đó là rất khó khăn. Đặc biệt, việc xác định trách nhiệm dân sự liên
đới của vợ chồng đối với những giao dịch do vợ, chồng thực hiện là một vấn
đề quan trọng cần được nghiên cứu một cách toàn diện và triệt để.
Theo hệ thống pháp luật về HN&GĐ của Nhà nước ta từ năm 1945 đến
nay đã có một số quy định liên quan đến việc xác định trách nhiệm liên đới
của vợ chồng: từ chế độ cộng đồng toàn sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ
năm 1959, đến chế độ cộng đồng tạo sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ

năm 1986 và năm 2000. Pháp luật điều chỉnh về trách nhiệm dân sự liên đới
của vợ chồng vừa mang tính khách quan, vừa thể hiện ý chí chủ quan của Nhà
nước. Kế thừa và phát triển các quy định về trách nhiệm dân sự liên đới của
vợ chồng trong pháp luật Việt Nam, Luật HN&GĐ năm 2000 của Nhà nước

7
ta đã dành Điều 25 trong chương III: “Quan hệ giữa vợ và chồng” để quy định
về vấn đề này, cụ thể: ““Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối
với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình” [44].
Tuy nhiên, việc áp dụng quy định này trên thực tế cho thấy còn xuất
hiện khá phổ biến những vụ án mà vợ hoặc chồng đưa đơn ra toà đề nghị tòa
án hủy giao dịch do một bên thực hiện (chủ yếu nhất là hợp đồng dân sự) mà
một bên không hay biết. Tòa án sẽ tuyên giao dịch đó vô hiệu nhưng việc xác
định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng rất phức tạp và có sự giải quyết
khác nhau giữa các tòa án.
Việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá về trách nhiệm dân sự liên đới của
vợ chồng là vấn đề có ý nghĩa thiết thực, vừa làm rõ những ưu điểm, hạn chế,
vừa đề ra những giải pháp trứơc mắt và lâu dài nhằm nâng cao hơn nữa vai
trò, trách nhiệm của vợ chồng đối với đời sống của gia đình nói riêng và toàn
xã hội nói chung. Vì thế, việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài “ Xác định trách
nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam” làm luận
văn thạc sỹ sẽ phần nào đáp ứng được những đòi hỏi cấp bách hiện nay trên
cả phương diện khoa học và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trách nhiệm dân sự nói chung và trách nhiệm dân sự liên đới nói riêng
là một chế định quan trọng được quy định trong hệ thống pháp luật dân sự từ
trước tới nay và đã có nhiều công trình khoa học, bài viết đề cập tới vấn đề
này. Tuy nhiên, nghiên cứu về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng khi
một bên thực hiện giao dịch dân sự vì lợi ích thiết yếu của gia đình với tư

cách là đối tượng nghiên cứu riêng thì hiện nay còn khá mới mẻ. Tìm hiểu
qua sách báo, tạp chí, chúng ta thấy có bài “Trách nhiệm liên đới của vợ

8
chồng đối với hợp đồng dân sự do một bên thực hiện” của tác giả Nguyễn Hải
An – Tòa dân sự – Tòa án Nhân dân tối cao) đăng trên trang:
thongtinphapluatdansu.wordpress.com; tác giả khác với bài “Cần quy định
trách nhiệm liên đới trả nợ” trên trang: diendankienthuc.net; “ Trách nhiệm
dân sự liên đới bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự Việt Nam” – luận
án tiến sỹ luật học của Phạm Kim Anh; “Trách nhiệm dân sự trong hợp
đồng” – luận văn thạc sỹ luật học của Đinh Hồng Ngân; Tiến sỹ Ngô Huy
Cương- khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội với bài “ Trách nhiệm dân sự -
so sánh và phê phán”; Thạc sỹ Bùi Thị Mừng, khoa Luật Dân sự, Đại học
Luật Hà Nội với bài “Bồi thường thiệt hại do tài sản của vợ chồng gây ra";
tác giả Trần Việt Anh với bài “So sánh trách nhiệm dân sự trong hợp đồng
với trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng’’ đăng trên trang web:
www.kilobooks.com; nhóm sinh viên Đại học Kinh tế Quốc dân với đề tài
tiểu luận “Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng ’’ đăng trên trang web:
www.kilobooks.com; Tiến sỹ Phạm Kim Anh – Đại học Luật TP Hồ Chí
Minh với bài viết “Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự’’ đăng trên trang
web: .
Nhìn chung, những bài viết này mới chỉ đưa ra, xem xét, giải quyết
những khía cạnh liên quan tới trách nhiệm dân sự và trách nhiệm dân sự liên
đới của vợ chồng mà thôi còn vấn đề xác định một cách rõ ràng, cụ thể trách
nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng thì chưa có bài viết hay luận án nào
nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống. Thiết nghĩ, đây là vấn đề khá quan trọng,
bức xúc trong xã hội hiện nay và thực tế đã xảy ra rất nhiều tranh chấp, khiếu
kiện phức tạp gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình
giải quyết. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài “ Xác định trách nhiệm dân sự liên
đới của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ là rất cần


9
thiết. Đây sẽ là một công trình nghiên cứu có hệ thống cả về mặt lý luận và
thực tiễn.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của
triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Mác Xít, trong đó chủ yếu sử
dụng phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh. Luận văn cũng sử dụng một số phương pháp khác của khoa
học thống kê để thống kê số liệu liên quan đến các vụ án HN&GĐ tại thành
phố Đà Nẵng – nơi tác giả đang sinh sống và làm việc.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những quy định của BLDS năm 1995 và 2005 về
trách nhiệm dân sự, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản, đối với
gia đình. Từ đó, tác giả đi sâu nghiên cứu cụ thể về những quy định liên quan
tới trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong pháp luật về HN&GĐ thời
kỳ từ năm 1945 đến nay trong mối liên hệ với thực tiễn để đề tài thêm phần
phong phú và có sức thuyết phục hơn.
5. Mục đích của đề tài - Những kết quả đã đạt đƣơc
* Mục đích nghiên cứu đề tài: Trên cơ sở phân tích lý luận và đánh giá
thực trạng việc thực hiện các quy định về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ
chồng, luận văn sẽ tập trung làm sáng tỏ những quy định về trách nhiệm liên
đới, tìm được những tồn tại của pháp luật về vấn đề này, từ đó đưa ra những
đề xuất, giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn pháp luật HN&GĐ cũng như góp
phần giải quyết những vấn đề, vướng mắc còn tồn tại xung quanh các vụ án
liên quan tới trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong thực tế.
* Những điểm mới của Luận văn

10
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên phân tích một cách toàn diện,

đầy đủ và có hệ thống về chế độ chịu trách nhiệm dân sự liên đới của vợ
chồng theo pháp luật dân sự Việt Nam nói chung và Luật HN&GĐ nói riêng.
Ngoài những điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2000 quy định về chế độ tài
sản của vợ chồng trong đó đặc biệt chú ý tới quy định liên quan đến trách
nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một
bên vợ, chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia
đình, luận văn được trình bày với những điểm mới sau đây :
- Nghiên cứu, phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về trách
nhiệm dân sự liên đới và xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng
trong một số trường hợp cụ thể liên quan.
- Nghiên cứu thực tiễn của việc xác định, áp dụng những quy định pháp
luật dân sự về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng ở Việt Nam trong
thời gian qua.
- Đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm thực hiện có hiệu
quả hơn nữa việc xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong
thực tế.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được chia thành 3 chương.
Chương 1: Khái quát chung về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng.
Chương 2: Xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong pháp luật
Việt Nam hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xác
định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng.

11
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ LIÊN ĐỚI CỦA
VỢ CHỒNG
1.1. Khái niệm chung về trách nhiệm dân sự liên đới và trách nhiệm dân

sự liên đới của vợ chồng
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm dân sự
Trong đời sống xã hội từ xưa tới nay, mọi cá nhân đều có quyền sống,
quyền mưu cầu hạnh phúc và các quyền đó luôn được pháp luật của mỗi quốc
gia có chủ quyền thừa nhận và bảo vệ. Cũng trong xã hội mà cá nhân đang
sống, cùng với việc cá nhân được hưởng các quyền lợi nhất định do nhà nước
thừa nhận hoặc cho phép thì cá nhân còn phải thực hiện nghĩa vụ có liên quan
trong các mối quan hệ xã hội mà cá nhân là chủ thể, như: nghĩa vụ tôn trọng
quyền sở hữu của người khác, tôn trọng trật tự công cộng, bảo vệ môi trường,
tôn trọng các quyền dân sự, quyền tự do kinh doanh, quyền lao động của
người khác…và khi họ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ
nghĩa vụ của mình thì họ phải chiụ trách nhiệm với bên có quyền.
Trong khuôn khổ đề tài này, chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu về khái
niệm “trách nhiệm dân sự” nói chung để từ đó tìm hiểu vấn đề cụ thể hơn:
“trách nhiệm dân sự liên đới” – trọng tâm của đề tài luận văn thạc sỹ.
Trước hết, trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý và luôn
được các luật gia xem là một vấn đề quan trọng được nghiên cứu tổng quát
trong khoa học Lý luận về nhà nước và pháp luật. Theo đó: trách nhiệm pháp
lý là một loại quan hệ pháp luật đặc biệt giữa nhà nước (thông qua các cơ quan
chuyên môn) và chủ thể vi phạm pháp luật (có thể là cá nhân hoặc pháp nhân),
trong đó bên vi phạm pháp luật phải gánh chịu những hậu quả bất lợi và những
biện pháp cưỡng chế của nhà nước được quy định ở chế tài pháp luật. Tức là sự

12
cưỡng chế của nhà nước buộc người vi phạm pháp luật phải chấp hành quy
phạm pháp luật, trừng trị người vi phạm pháp luật, bắt buộc phải khôi phục lại
các quan hệ xã hội đã bị vi phạm.
Nếu xét về đặc điểm của trách nhiệm dân sự thì ở Việt Nam cũng tồn
tại nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên đa số ý kiến đồng nhất với các đặc
điểm của trách nhiệm dân sự như sau:

Thứ nhất, trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý khác với
trách nhiệm đạo đức, mà ở đây trách nhiệm pháp lý có mục đích xác lập các
chế tài cụ thể.
Thứ hai, trách nhiệm dân sự không phải là một sự trừng phạt mà là một
biện pháp – một hình thức cưỡng chế của nhà nước và do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền áp dụng buộc người có hành vi vi phạm pháp luật phải bồi
thường cho người bị tổn hại do hành vi đó gây ra. Do vậy nó luôn mang tới
hậu quả bất lợi cho người có hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ ba, bên có hành vi vi phạm pháp luật phải chịu trách nhiệm về tài
sản hoặc phải thực hiện một công việc hoặc không được thực hiện công việc
vì lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm.
Thứ tư, trách nhiệm dân sự được chia thành trách nhiệm dân sự hợp
đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Có tác giả chia trách nhiệm
ngoài hợp đồng thành trách nhiệm dân sự phạm và trách nhiệm chuẩn dân sự
phạm. Trách nhiệm hợp đồng phát sinh khi hợp đồng không được thực hiện
hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ như đã giao kết gây thiệt hại cho
bên bị vi phạm và bên bị vi phạm đòi bồi thường. Trách nhiệm ngoài hợp
đồng phát sinh khi một bên có lỗi gây thiệt hại cho một bên khác về tài sản,
tính mạng, sức khỏe, các quyền nhân thân mà trước đó giữa bên gây thiệt hại
và bên bị thiệt hại không có giao kết hợp đồng hoặc có giao kết hợp đồng

13
nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc hành vi vi phạm hợp đồng và bên bị
thiệt hại đòi hỏi sự bồi thường. Trách nhiệm trong hợp đồng hay trách nhiệm
ngoài hợp đồng giống nhau ở chỗ đều phát sinh từ việc vi phạm nghĩa vụ dân
sự: "Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi
chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền
hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện
công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi
chung là bên có quyền" [48, Điều 280].

Nhưng nghĩa vụ được phân biệt bởi nghĩa vụ bị vi phạm phát sinh từ
hợp đồng hoặc từ pháp luật. Tuy nhiên sự phân biệt có ý nghĩa trong việc
chứng minh. Ở đây, cần phân biệt thêm rằng, trách nhiệm hợp đồng là một
nguồn gốc phát sinh nghĩa vụ khác với hợp đồng. Nghĩa vụ hợp đồng phát
sinh trên cơ sở sự thống nhất ý chí của các đương sự hay hành vi vi phạm
pháp luật. Còn nghĩa vụ bồi thường phát sinh ngoài ý chí của đương sự, có
nghĩa là do luật định.
Từ những đặc điểm trên đây, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về trách
nhiệm dân sự. Tuy nhiên, xung quanh vấn đề này cũng tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau ở cả Việt Nam và thế giới, cụ thể: phản ánh quan điểm của hầu hết
các luật gia Nga, O. S. Ioffe đưa ra định nghĩa: Trách nhiệm dân sự – đó là
những chế tài đối với vi phạm nghĩa vụ mà việc áp dụng những chế tài đó sẽ
dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi cho bên vi phạm dưới hình thức tước quyền
dân sự (như tước quyền sở hữu, tước quyền thừa kế…) hoặc bằng hình thức
đặt ra cho họ những nghĩa vụ mới hoặc nghĩa vụ bổ sung như nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại, nghĩa vụ nộp phạt vi phạm hoặc nghĩa vụ trả tiền lãi đối với
khoản nợ được chậm trả. Chúng ta thấy rằng, dường như định nghĩa này đã
đồng nhất giữa trách nhiệm dân sự với chế tài dân sự, và cho rằng trách nhiệm
dân sự chỉ áp dụng cho vi phạm nghĩa vụ. Trong khi đó, một số luật gia Nhật

14
Bản phân tích: trách nhiệm được thể hiện bằng hình thức cưỡng chế thực hiện
nghĩa vụ đối với tài sản của người mắc nợ; tuy nhiên, có thể có trường hợp
trách nhiệm không có nghĩa vụ, chẳng hạn trách nhiệm áp dụng đối với người
bảo lãnh, người thứ ba sở hữu tài sản thế chấp. Vậy không phải bất kể trường
hợp nào bị áp dụng chế tài cũng đều có sự vi phạm nghĩa vụ 19.
Dưới chế độ cũ ở Việt Nam, có luật gia quan niệm: Trách nhiệm dân sự
là một nguồn gốc của nghĩa vụ căn cứ vào hành vi mà dân luật coi như là trái
luật (illicite). Do đó dân luật đã bắt buộc người thực hiện hành vi trái luật phải
bồi thường cho người bị thiệt hại. Tóm lại, trách nhiệm dân sự phát sinh ra

nghĩa vụ bồi thường đối với người nào đã làm ra một hành vi gì trái luật mà
gây tổn thiệt cho người khác. Quan niệm này có phản ánh được đầy đủ các
khía cạnh của trách nhiệm dân sự hay không là một câu trả lời không quá khó.
Tuy nhiên, đâu là điểm hợp lý của định nghĩa này và chúng phát xuất từ đâu
thì cần phải tìm hiểu 19.
Luật La Mã xác định, ngoài các nguyên nhân hợp pháp như hợp đồng
và chuẩn hợp đồng, nghĩa vụ được phát sinh bởi nguyên nhân bất hợp pháp
như vi phạm (delictum) và chuẩn vi phạm (quasi ex delicto). Vi phạm được
chia thành hai loại là tội hình sự và dân sự phạm. Đối với dân sự phạm, nạn
nhân có thể kiện ra toà xin bồi thường. Dân sự phạm (damnum injuria) là sự
thiệt hại gây ra một cách bất chính đáng cho người khác, làm nghèo cho nạn
nhân nhưng không làm giàu thêm cho người vi phạm. Vi phạm được quy định
bởi luật Aquilia. Tuy nhiên các luật gia La Mã chưa bao giờ đạt tới nguyên
tắc chung rằng mọi người phải chịu trách nhiệm đối với các thiệt hại mà mình
gây ra cho người khác. Mãi tới thế kỷ XVII và XVIII, nó mới được đưa ra bởi
các luật gia thuộc trường phái luật tự nhiên, tiêu biểu là Grotius và Domat, rồi
được ghi nhận trong các bộ luật của Châu Âu. Ngày nay, BLDS Pháp có quy

15
định nguyên tắc tổng quát: “Bất cứ hành vi nào của một người mà gây thiệt
hại cho người khác, thì người đã gây ra thiệt hại do lỗi của mình phải bồi
thường thiệt hại” 7, Điều 1382.
Tác giả Vũ Văn Mẫu khẳng định: Trách nhiệm dân sự là một nguồn
gốc của nghĩa vụ không căn cứ vào ý chí của đương sự, tức là nguồn gốc bất
hợp pháp; vì vậy trách nhiệm dân sự làm phát sinh ra nghĩa vụ bồi thường đối
với người đã thực hiện một hành vi trái luật gây tổn thiệt cho một người khác.
Qua tìm hiểu các tài liệu, chúng tôi cũng chưa tìm thấy khái niệm về
trách nhiệm dân sự được đề cập tới một cách rõ ràng, cụ thể trong văn bản
nào, do vậy, dựa vào những đặc điểm trên đây cũng như những quan điểm của
nhiều chuyên gia pháp luật trong và ngoài nước, chúng tôi xin đưa ra khái

niệm về trách nhiệm dân sự như sau: Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm của
một người hoặc nhiều người phải thực hiện vì lợi ích hợp pháp của người
khác theo những căn cứ do pháp luật quy định.
1.1.2. Khái niệm trách nhiệm dân sự liên đới
Trách nhiệm dân sự nói chung chỉ phát sinh do một bên không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ đã giao kết, thỏa
thuận đối với bên kia hay do một bên có lỗi gây thiệt hại cho một bên khác về
tài sản, tính mạng, sức khỏe, các quyền nhân thân và bên bị thiệt hại đòi hỏi
sự bồi thường.
Từ những quy định trong BLDS hiện hành, chúng ta có thể chia nghĩa
vụ dân sự thành những loại sau đây:
- Nghĩa vụ dân sự riêng rẽ;
- Nghĩa vụ dân sự liên đới;
- Nghĩa vụ dân sự được chia theo phần;

16
- Nghĩa vụ dân sự hoàn lại;
- Nghĩa vụ dân sự bổ sung.
Pháp luật dân sự, bên cạnh việc quy định các quy tắc xử sự chung cho
các chủ thể khi họ tham gia giao dịch dân sự thì còn quy định trách nhiệm dân
sự nhằm áp dụng đối với các chủ thể nếu trong quá trình tham gia và thực
hiện các giao dịch dân sự đó mà không tuân thủ các quy tắc xử sự chung đó.
Khi xử sự của một hay nhiều chủ thể làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể khác, thì xử sự đó bị coi là trái với quy định của pháp
luật dân sự. Bởi vậy, người bị xâm phạm có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khác áp dụng trách nhiệm dân sự để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Khi trách nhiệm dân sự được áp dụng thì người có hành vi xử sự trái
quy định của pháp luật dân sự phải gánh chịu hậu quả pháp lý nhất định. Như
vậy, theo pháp luật dân sự: nghĩa vụ dân sự liên đới là nghĩa vụ của nhiều

người, trong đó, một trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn
bộ nội dung của nghĩa vụ hoặc một trong số những người có quyền đều có thể
yêu cầu bất cứ ai trong số người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ.
Mục đích của việc xác định một nghĩa vụ dân sự liên đới khi có nhiều
người tham gia quan hệ nghĩa vụ là buộc những người có nghĩa vụ phải cùng
nhau gánh vác toàn bộ nghĩa vụ nhằm bảo đảm quyền lợi cho chủ thể có
quyền được trọn vẹn, kể cả khi có một trong số những người có nghĩa vụ
không có khả năng thực hiện nghĩa vụ.
Từ định nghĩa trên đây về nghĩa vụ dân sự liên đới, chúng ta có thể
khẳng định rằng nếu nghĩa vụ đó mà không được thực hiện hay thực hiện
không đúng, không đầy đủ như đã cam kết với bên có quyền thì họ phải chịu
trách nhiệm dân sự liên đới do hành vi vi phạm gây ra.

17
Qua tìm hiểu các tài liệu trên mọi phương tiện, chúng tôi chưa tìm thấy
khái niệm về trách nhiệm dân sự liên đới, do đó chúng tôi dựa vào khái niệm
chung về trách nhiệm dân sự và nghĩa vụ dân sự liên đới để đưa ra khái niệm
về trách nhiệm dân sự liên đới như sau: Trách nhiệm dân sự liên đới là trách
nhiệm của hai hay nhiều người cùng phải thực hiện vì lợi ích hợp pháp của
người khác theo các căn cứ do pháp luật quy định
Đó là trách nhiệm liên đới nói chung giữa những người dân với nhau
trong xã hội, cũng từ đây, chúng ta sẽ tìm hiểu về trách nhiệm dân sự liên đới
của vợ chồng.
1.1.3. Khái niệm trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng.
* Khái niệm về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo quy định
của pháp luật dân sự.
Theo quy định tại BLDS hiện hành, chúng tôi chưa thấy điều luật nào
quy định cụ thể về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng mà chỉ có quy
định về nghĩa vụ dân sự liên đới tại Điều 298 mà thôi. Theo đó: “Nghĩa vụ
dân sự liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và bên có

quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực
hiện toàn bộ nghĩa vụ” [48]. Dựa vào những quy định này, chúng tôi cũng
đưa ra khái niệm về nghĩa vụ dân sự liên đới của vợ chồng như sau: Nghĩa vụ
dân sự liên đới của vợ chồng là nghĩa vụ mà trong đó vợ hoặc chồng có nghĩa
vụ phải thực hiện toàn bộ nội dung của nghĩa vụ phát sinh trong giao dịch
dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu
sinh hoạt thiết yếu của gia đình.
Từ cách hiểu về nghĩa vụ trên đây, chúng tôi cho rằng: Trách nhiệm
dân sự liên đới của vợ chồng là quy định của pháp luật về hậu quả pháp lý
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng buộc vợ, chồng phải cùng

18
nhau gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho bên có quyền dân sự bị xâm phạm trong giao dịch dân sự
mà họ tham gia.
Đó là khái niệm về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo dân
luật (nghĩa rộng). Từ đó, chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu pháp luật HN&GĐ quy
định vấn đề này như thế nào?.
* Khái niệm về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo quy định
của pháp luật HN&GĐ.
Kế thừa và phát triển pháp luật dân sự nói chung và pháp luật về hôn
nhân gia đình nói riêng trong lịch sử, Quốc hội khóa X nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật HN&GĐ năm 2000. Đây là văn bản
luật có nhiều quy định rất tiến bộ trong chế độ HN&GĐ, đáp ứng được
nguyện vọng, mong muốn của đông đảo nhân dân trong cả nước. Trong đó,
Luật đã đặc biệt quan tâm, chú trọng tới vấn đề tài sản của vợ chồng, trách
nhiệm của vợ chồng đối với sinh hoạt chung của gia đình. Bởi tính chất cộng
đồng tạo sản của hôn nhân, tài sản chung của vợ chồng được sử dụng nhằm
đảm bảo đời sống chung của cả gia đình. Các hợp đồng, giao dịch do một bên
vợ hoặc chồng thực hiện với người thứ ba, nhằm lợi ích chung của gia đình

được coi là có hiệu lực, bên kia phải có trách nhiệm dân sự liên đới. Nói cách
khác, pháp luật suy đoán rằng, luôn có sự thỏa thuận “mặc nhiên” giữa hai vợ
chồng, dù hợp đồng, giao dịch đó chỉ do một bên thực hiện. Những quy định
này đều xuất phát từ việc đảm bảo đời sống chung, lợi ích chung của cả gia
đình. Vì vậy, căn cứ những quy định của pháp luật dân sự nói trên về nghĩa vụ
dân sự liên đới và trách nhiệm dân sự liên đới, Luật HN&GĐ năm 2000 đặt ra
vấn đề trách nhiệm dân sự liên đới giữa vợ chồng tại một điều luật duy nhất:
Điều 25, theo đó: “Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao

19
dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu
cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình” [44].
Đây chỉ là một trường hợp mà pháp luật HN&GĐ liệt kê về trách
nhiệm liên đới của vợ chồng, pháp luật HN&GĐ cũng chưa dự liệu định
nghĩa thế nào là trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng. Vì vậy, dựa trên
những khái niệm chung về trách nhiệm dân sự và nghĩa vụ dân sự liên đới,
trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong pháp luật dân sự, chúng tôi
mạnh dạn đưa ra khái niệm trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng như sau:
Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng là quy định của pháp luật về hậu
quả pháp lý được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng buộc vợ, chồng
phải cùng nhau gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho bên có quyền trong giao dịch dân sự hợp pháp
do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu
của gia đình theo những căn cứ do pháp luật quy định.
Dù cho Luật HN&GĐ năm 2000 có đề cập tới thuật ngữ “trách nhiệm
dân sự liên đới của vợ chồng” nhưng theo quy định tại Điều 25, chúng tôi
hiểu rằng thực chất đây chính là nghĩa vụ dân sự liên đới của vợ chồng có
nghĩa là những nhà làm luật thời kỳ đó đã đồng nghĩa hai thuật ngữ “trách
nhệm dân sự liên đới của vợ chồng” với “nghĩa vụ dân sự liên đới của vợ
chồng”. Vì thế trong Luật này không có quy định về nghĩa vụ dân sự liên đới

của vợ chồng mà chỉ có quy định về trách nhệm dân sự liên đới của vợ chồng
mà thôi [44].
Do đó, khác với những chế định khác, trách nhiệm dân sự liên đới của
vợ chồng mang những nét đặc thù nhất định:
- Chủ thể thực hiện nghĩa vụ là vợ chồng (có mối quan hệ ràng buộc về
tình cảm, hôn nhân và tài sản giữa vợ chồng là tài sản chung hợp nhất)

20
- Tài sản thực hiện nghĩa vụ, về nguyên tắc, trước hết phải là tài sản
chung hợp nhất, vì vậy, sau khi thực hiện trách nhiệm dân sự liên đới thì giữa
vợ chồng không phát sinh nghĩa vụ hoàn lại như trong dân sự. Ngay cả trong
trường hợp khi tài sản chung không đủ để thực hiện trách nhiệm liên đới mà
một bên vợ hoặc chồng có tài sản riêng và dùng tài riêng đó vào việc thực
hiện nghĩa vụ thì sau đó người vợ hoặc chồng còn lại cũng không phải thực
hiện nghĩa vụ hoàn lại cho chồng hoặc vợ mình. Đây là đặc điểm rất đặc thù
của trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong các giao dịch mà vợ,
chồng thực hiện.
1.2. Ý nghĩa của việc xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng.
Việc xác định trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng đối với xã hội
là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa to lớn trong quan hệ HN&GĐ. Pháp luật
HN&GĐ nói chung đã đạt được những bước tiến đáng kể khi đưa được những
quy định này vào Luật và cụ thể hóa những quy định đó trong Luật HN&GĐ
cũng như những văn bản pháp luật có liên quan, đáp ứng được nguyện vọng
của mọi người dân nói chung và của những người đã kết hôn nói riêng. Xuất
phát từ nguyên tắc cơ bản của chế độ HN&GĐ: hôn nhân tự nguyện, tiến bộ,
một vợ một chồng,vợ chồng luôn bình đẳng với nhau và có quyền và nghĩa vụ
ngang nhau về mọi mặt trong gia đình. Điều này cũng thể hiện sự tiến bộ về
trình độ, kĩ thuật lập pháp cũng như tiến bộ trong cách tiếp cận với vấn đề
bình đẳng giới của những nhà làm luật ở nước ta.
Trong cuộc sống và sinh hoạt gia đình, để đáp ứng nhu cầu về mặt vật

chất và tinh thần của các thành viên, việc vợ hoặc chồng phải tham gia giao
kết nhiều loại giao dịch dân sự với các chủ thể khác là phổ biến, pháp luật
không thể kiểm soát mỗi khi giao kết hợp đồng phải có sự thỏa thuận, thậm
chí bằng văn bản của hai bên. Vì vậy, mặc dù giao dịch đó chỉ do một bên vợ

21
hoặc chồng thực hiện với người thứ ba nhưng vẫn được thừa nhận là phù hợp
với pháp luật, vợ hoặc chồng không thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng này bị vô
hiệu với lý do chưa có sự đồng ý của mình. Việc thực hiện hợp đồng phải
được bảo đảm bằng tài sản chung của vợ chồng, có nghĩa là vợ chồng phải
chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một bên vợ
hoặc chồng thực hiện, nhằm bảo đảm nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình.
Có như vậy, quyền lợi của người thứ ba tham gia xác lập hợp đồng liên quan
đến tài sản chung vợ chồng mới được bảo đảm trước pháp luật.
Trên thực tế còn tồn tại tình trạng đó là sự thờ ơ, vô trách nhiệm của
vợ, chồng đối với công việc gia đình. Đôi khi vợ hoặc chồng thực hiện các
giao dịch dân sự vì nhu cầu sinh hoạt chung thiết yếu của gia đình, nhưng khi
thiệt hại phát sinh, trách nhiệm phát sinh thì người chồng hoặc vợ không
muốn chia sẻ, gánh vác trách nhiệm, không có sự hỗ trợ và tạo điều kiện cho
nhau trong cuộc sống gia đình. Vì vậy, việc quy định trách nhiệm dân sự liên
đới giữa vợ chồng là vô cùng cần thiết và có ý nghĩa.
Pháp luật quy định về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng vừa
bảo đảm lợi ích của vợ chồng, lợi ích của gia đình, quyền lợi của những người
khác khi tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng, cũng là góp
phần ổn định các giao dịch dân sự và còn là cơ sở pháp lý giải quyết các tranh
chấp trong thực tế.
1.3. Sơ lƣợc về trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng trong hệ thống
pháp luật Việt Nam.
1.3.1. Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo quy định về chế độ
hôn sản bậc nhất ở Nam kỳ trƣớc năm 1959.

Thời kỳ này còn tồn tại sự bất bình đẳng giữa nam và nữ trong xã hội
nên án lệ Nam kỳ trước đây quan niệm rằng: không có chế độ cộng đồng tạo

22
sản mà chỉ công nhận người chồng là chủ của cải trong gia đình nên đối với
hành động của vợ, chồng chỉ có trách nhiệm khi chồng đã ủy nhiệm hay cho
phép vợ hành động. Ngoài ra, vì coi người vợ đặt dưới quyền của chồng nên
khi vợ vi phạm pháp luật, chồng có thể bị trách cứ cũng như cha mẹ bị trách
cứ về hành động của con vị thành niên gây thiệt hại cho người ngoài
Đi vào cụ thể từng loại trách nhiệm của người chồng phải liên đới gánh
chịu đối với hành động của người vợ chúng ta sẽ thấy được thời kỳ trước đây
người ta “trọng nam khinh nữ” như thế nào.
+ Trách nhiệm vì ủy quyền: người chồng có thể ủy quyền cho người vợ
để hành động thay mình và khi người vợ hành động trong phạm vi đã được ủy
quyền thì khối tài sản chung của vợ chồng phải gánh chịu trách nhiệm do
hành động ấy gây ra. Về chế độ tài sản của vợ chồng, tập Dân luật Giản Yếu
năm 1883 đã “sơ sót”, quên không dự liệu. Bởi vậy, liên quan đến chế độ tài
sản của vợ chồng, giải quyết các tranh chấp giữa vợ chồng với nhau và giữa
vợ chồng với những người khác được giải quyết theo án lệ. Do đó, sự ủy
quyền của chồng có thể công nhiên hoặc mặc nhiên. Riêng đối với những việc
giao ước thường nhật cần thiết cho sự sống của gia đình, án lệ ở miền Nam
công nhận rằng vợ được chồng ủy nhiệm mặc nhiên để hành động. Đây là
thuyết ủy quyền về nhu cầu của gia đình mà án lệ nước Pháp trước đây đã
công nhận.
+ Trách nhiệm vì sự cho phép: Tập Dân luật Giản Yếu năm 1883, tiết
V có đề cập tới hiệu lực của hôn thú, quy định người chồng có thể cho phép
người vợ được hành động một mình [4]. Án lệ đã giải thích rằng, khi cho
phép như vậy, người chồng đã chấp nhận cho người vợ đem khối hôn sản để
đảm bảo cho sự giao ước của vợ. Sự cho phép có thể công nhiên hoặc mặc
nhiên. Án lệ đã giải thích rộng rãi sự cho phép mặc nhiên và đã bắt chồng


23
phải chịu trách nhiệm đối với những khoản nợ do người vợ gây ra khi người
chồng có một thái độ không rõ ràng lúc người vợ đi vay; khi chấp thuận cho
vợ đứng tên một mình để mua bất động sản rồi đem cầm cố để thế vào khoản
nợ; khi để vợ mua chịu nữ trang rồi đem bán đưa tiền về cho chồng; khi đề
một mình vợ theo kiện trong lúc hai vợ chồng vẫn ở chung một nơi; khi biết
vợ thu hoạch thuế lúa mà không phản kháng.
Mặc dù Tập Dân luật Giản Yếu năm 1883 và án lệ về hôn sản trên lãnh
vực nguyên tắc không công nhận cho người vợ có quyền gì trong gia đình,
với sự giải thích trên đây ta thấy án lệ đã cố gắng sửa chữa để tìm một giải
pháp phù hợp với phong tục Việt Nam, vì phong tục này công nhận cho người
đàn bà rất nhiều quyền. Sự cố gắng ấy trong một giai đoạn trước đây đã đưa
án lệ đến sự công nhận rằng: mỗi khi đơn phương hành động, người vợ được
phỏng đoán là đã được chồng mặc nhiên cho phép. Nhưng sự giải thích ấy
nay đã bị bỏ và án lệ dần công nhận một giải pháp hợp lý hơn tuy rằng không
hợp với thực tế: người vợ có thể bị coi là được chồng mặc nhiên cho phép đơn
phương hành động, nhưng khi có việc tranh tụng thì người vợ có nghĩa vụ
phải chứng minh rằng người này đã được người chồng mặc nhiên ủy quyền.
Thời kỳ này, thuyết mặc nhiên cho phép được áp dụng cho trường hợp
người vợ làm nghề nghiệp riêng so với nghề nghiệp của chồng. Thường
thường, người chồng phải cho phép vợ thực hiện các thủ tục cần thiết do luật
lệ đòi hỏi (khai môn bài, khai sổ thương mại…) Nhưng nhiều khi người vợ
hành nghề mà người chồng không cho phép, trong trường hợp ấy án lệ căn cứ
vào sự kiện thực tế mà khẳng định rằng chồng đã mặc nhiên cho phép vợ
hành nghề. Việc đó đã thể hiện người chồng cho phép người vợ đem tất cả gia
sản để đảm bảo cho việc hành nghề của vợ, nếu trong khi hành nghề vợ mắc
nợ thì người chồng phải trả thay.

24

+ Trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật của vợ: tục lệ của nước ta
đã công nhận từ lâu rằng ngoài những trách nhiệm về giao ước, gia đình còn
phải chịu trách nhiệm về sự thiệt hại do vợ có hành vi phạm pháp pháp luật,
thí dụ: tiền phạt hay bồi thường do Tòa hình bắt vợ chịu và tiền bồi thường vì
vợ không cẩn thận mà phải trả cho người bị thiệt hại. Án lệ Nam kỳ công
nhận trách nhiệm của chồng tức là của gia đình trong trường hợp này nhưng
đã căn cứ trách nhiệm ấy trên phu quyền (quyền của người chồng đối với
người vợ) mà án lệ đồng hóa với phụ quyền (quyền của người cha đối với
người con).
Như vậy, điểm qua những quy định của luật, án lệ trước đây, chúng ta
thấy rằng trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng đã được đặt ra nhưng còn
sơ sài, trao quá nhiều quyền cho người chồng vì xã hội thời kỳ đó công nhận
chỉ người chồng là người đại diện cho gia đình và là chủ sở hữu tài sản trong
gia đình. Do đó, người chồng dù làm việc gì cũng không cần phải có ý kiến
của người vợ mà theo quy định của pháp luật thời kỳ đó thì những việc làm
của người chồng luôn mặc nhiên được người vợ đồng ý. Tuy nhiên, đối với
người vợ thì không được pháp luật “ưu ái” như vậy nên nếu người vợ muốn
làm gì đều phải được người chồng cho phép, ủy quyền. Qua những quy định
trên đây, chúng ta có thể thấy sự tiến bộ của pháp luật thời kỳ đó khi thừa
nhận: nếu vợ có hành vi vi phạm khi đơn phương thực hiện giao dịch thì
người chồng đều phải gánh chịu trách nhiệm dân sự liên đới và có thể phải
dùng tất cả tài sản của gia đình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của người
vợ.
1.3.2. Trách nhiệm dân sự liên đới của vợ chồng theo chế độ hôn sản bậc
nhất ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ trƣớc năm 1959.

×