Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Thừa kế theo di chúc trong Bộ luật dân sự nước CHDCND Lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (666.48 KB, 85 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






XAYSAVHAN PENGBOUBPHA





THỪA KẾ THEO DI CHÚC
TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NƢỚC CHDCND LÀO


Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30







LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Bá Diến






HÀ NỘI - 2012

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN



XAYSAVHAN PENGBOUBPHA



MC LC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 3
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 3
4. Phương pháp nghiên cứu 4
5. Kết cấu đề tài 4
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỪA KẾ THEO DI
CHÚC TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ LÀO 5
1.1. Khái niệm, vai trò của pháp luật thừa kế theo di chúc 5
1.1.1 Khái niệm di chúc 5
1.1.2. Khái niệm thừa kế theo di chúc 7
1.1.3. Vai trò của pháp luật thừa kế theo di chúc 9
1.2. Sự hình thành và phát triển pháp luật thừa kế theo di chúc ở Lào 15
1.2.1. Pháp luật thừa kế theo di chúc trong thời kỳ phong kiến 17
1.2.2. Giai đoạn trước Cách mạng Tháng 12 thành công năm 1975 19
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay 20
Chƣơng 2: CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT LÀO
VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC TRONG TƢƠNG QUAN
SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT VIỆT NAM 22
2.1. Di chúc hợp pháp 22
2.2. Người lập di chúc và quyền của người lập di chúc 26
2.3. Người thừa kế theo di chúc và người thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung của di chúc 31

2.4. Di sản thừa kế theo di chúc 40
2.5. Hiệu lực của di chúc 43
2.6. Những kinh nghiệm của Việt Nam về thừa kế theo di chúc 45
Chƣơng 3: THỰC TIỄN ÁP DNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC TẠI LÀO VÀ CÁC
KIẾN NGHỊ 53
3.1. Những vướng mắc từ thực tiễn áp dụng các quy định của pháp
luật về thừa kế theo di chúc 53
3.1.1. Nhận thức về di chúc hợp pháp 57
3.1.2. Vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật để xác định di chúc
hợp pháp 59
3.1.3. Còn có sự vướng mắc giữa di chúc hợp pháp với hợp đồng
tặng cho
61
3.1.4. Về tính khả thi của di chúc miệng 64
3.1.5. Về xác định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc 66
3.1.6. Về xác định di sản dùng vào việc thờ cúng 68
3.2. Các kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng quy định pháp luật về
thừa kế theo di chúc 71
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật 71
3.2.2. Công tác cán bộ 77
KẾT LUẬN 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80





1
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật thừa kế đã có từ xa xưa và gắn liền với lịch sử phát triển của
xã hội loài người. Tuy có những đặc thù riêng nhưng dân tộc nào, đất nước
nào và từng con người cụ thể đều chịu sự tác động của pháp luật thừa kế.
Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất hiện
ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người. Thừa kế là một quan hệ xã
hội, là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống theo di
chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Trong thời kỳ đầu của chế độ cộng sản
nguyên thuỷ, những điều kiện về kinh tế, xã hội và hôn nhân phụ thuộc vào
địa vị chủ đạo của người phụ nữ trong thị tộc. Chế độ mẫu hệ với địa vị chủ
đạo của người phụ nữ đặc biệt là người mẹ, giữ vai trò lãnh đạo đã tạo ra tiền
đề cho việc thừa kế tài sản của các con và những người thân thuộc của người
mẹ. Angghen viết:
“Theo chế độ mẫu quyền, nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về
bên mẹ và theo tập tục thừa kế nguyên thủy trong thị tộc mới được thừa kế
những người trong thị tộc chết. Tài sản phải để lại trong thị tộc, vì tài sản để
lại không có giá trị lớn, nên lâu nay trong thực tiễn có lẽ người ta vẫn trao tài
sản đó cho những bà con thân thích nhất, nghĩa là trao cho những người cùng
huyết tộc với người mẹ”[15; tr79].
Thời kỳ nguyên thuỷ, việc thừa kế được hình thành theo tập quán của
thị tộc. Tài sản của thị tộc do người mẹ quản lý, khi người mẹ chết đi thì di
sản được chuyển cho những người thân thích trong thị tộc và tài sản của thị
tộc được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Đây chính là hình thức thừa kế
đầu tiên của xã hội loài người về tư liệu sản xuất nhằm tiếp tục duy trì cuộc
sống chung cho thị tộc.

2
Ở Lào, từ thời phong kiến cho đến nay, pháp luật về thừa kế được xây
dựng và hoàn thiện phù hợp với quan hệ sản xuất ở từng giai đoạn nhất định,

theo đó quyền và lợi ích về tài sản của công dân được chú ý bảo vệ phù hợp
với tình hình kinh tế xã hội của đất nước. Lịch sử đã cho thấy rằng, pháp luật
về thừa kế ở Lào luôn được bổ sung và hoàn thiện ngày càng mở rộng và có
sự phụ thuộc vào thành quả phát triển kinh tế xã hội qua các thời kỳ.
Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng, năng động của nền kinh
tế thị trường, đặc biệt là từ khi Lào trở thành thành viên chính thức của Tổ
chức thương mại thế giới (WTO) thì các quan hệ tài sản ngày càng đa dạng,
phức tạp hơn. Quyền sở hữu của cá nhân ngày càng được mở rộng, tài sản của
họ ngày càng có giá trị lớn, và hơn lúc nào hết vấn đề thừa kế nói chung và
thừa kế theo di chúc nói riêng được đặt ra một cách cấp thiết.
Trong hệ thống pháp luật Lào, thừa kế là một chế định quan trọng được
ghi nhận một cách vững bền trong Hiến pháp và pháp luật. Thời gian qua,
cùng với sự phát triển của các quan hệ xã hội, quan hệ pháp luật về thừa kế
cũng đã được điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn của cuộc sống, đón đầu các
quan hệ thừa kế nảy sinh trong tương lai. Tuy nhiên, việc áp dụng các quy
định về thừa kế theo di chúc trong pháp luật dân sự Lào vẫn còn nhiều quy
định chưa phù hợp với thực tiễn, còn mang tính chất chung chung, chưa điều
chỉnh hết các quan hệ về thừa kế theo di chúc phát sinh. Vì vậy, khi giải quyết
các vụ án cụ thể Toà án và các cơ quan có thẩm quyền không tránh khỏi
những vướng mắc.
Hơn nữa, các quy định của pháp luật thừa kế, đặc biệt là thừa kế theo di
chúc, còn nhiều bất cập, thiếu rõ ràng, gây khó khăn trong việc giải quyết các
trường hợp cụ thể. Thêm vào đó là thiếu văn bản hướng dẫn khiến việc áp
dụng pháp luật không thống nhất dẫn tới thời gian giải quyết án thừa kế của
Tòa án thường kéo dài, thậm chí có bản án bị xử huỷ do áp dụng pháp luật nội
dung chưa chính xác.

3
Việc nghiên cứu, tìm hiểu các quy định về thừa kế theo di chúc trong
pháp luật dân sự Lào không những là yêu cầu thường xuyên, cấp thiết của

những người làm công tác tư pháp mà nó còn là nhu cầu thiết thực của những
người có tài sản muốn để lại theo di chúc. Do đó, chúng tôi nghiên cứu, thực
hiện đề tài: “Thừa kế theo di chúc trong Bộ luật dân sự nước CHDCND
Lào” nhằm đóng góp một phần công sức nhỏ bé vào công tác xây dựng pháp
luật về thừa kế theo di chúc về mặt lý luận được hoàn thiện và hy vọng góp
phần tháo gỡ những vướng mắc từ thực tiễn áp dụng các quy định của pháp
luật về thừa kế theo di chúc.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đề tài có hai mục tiêu nghiên cứu chính:
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về thừa kế theo di chúc
trong pháp luật dân sự Lào. Đối chiếu, so sánh những quy định về thừa
kế theo di chúc trong pháp luật dân sự của Lào và Bộ luật dân sự 2005
của Việt Nam.
Thứ hai, đề tài nghiên cứu những vướng mắc từ thực tiễn áp dụng các
quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc trong pháp luật dân sự Việt
Nam đồng thời đưa ra những kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng. Nhìn
nhận, đánh giá một số vấn đề nóng bỏng của thực tiễn dưới khía cạnh pháp lý
về thừa kế theo di chúc.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong pháp luật dân sự Lào quan hệ với thừa kế là một mảng tương đối
rộng, trong phạm vi đề tài này chúng tôi chỉ giới hạn nghiên cứu những quy
định về thừa kế theo di chúc, nêu ra một số vướng mắc, bất cập, đưa ra các
kiến nghị, nhằm hoàn thiện pháp luật thừa kế theo di chúc trong pháp luật dân
sự Lào. Với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn.

4
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài này được chúng tôi nghiên cứu dựa trên lập trường, quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước Lào trong việc xây dựng và thực thi pháp luật.

Ngoài ra, chúng tôi còn vận dụng các phương pháp nghiên cứu khác
như: phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra…
5. Kết cấu đề tài
Đề tài gồm ba phần: Mở đầu, nội dung và kết luận. Trong đó phần nội
dung gồm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về thừa kế theo di chúc trong pháp
luật dân sự Lào.
Chương 2. Các quy định hiện hành của pháp luật Lào về thừa kế theo di
chúc trong tương quan so sánh với pháp luật Việt Nam.
Chương 3. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thừa kế
theo di chúc tại Lào và các kiến nghị.




5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỪA KẾ THEO DI CHÚC
TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ LÀO

1.1. Khái niệm, vai trò của pháp luật thừa kế theo di chúc
1.1.1 Khái niệm di chúc
Hiện nay, với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, việc tìm hiểu và
nhận thức về di chúc có sự tiến bộ hơn so với những thời kỳ trước. Quy định
của pháp luật dân sự Lào về khái niệm di chúc cũng giống quy định của một
số nước trong khu vực và trên thế giới. Việc quy định thuật ngữ di chúc được
diễn đạt theo nhiều cách khác nhau. Có khái niệm nêu rõ “Di chúc là giấy tờ
ghi ý muốn người chết viết lại”. Hay tại từ điển cho rằng “Di chúc là dặn lại
trước khi chết những việc người sau cần làm và nên làm”. Mặc dù, có sự khác
nhau trong cách diễn đạt nhưng nói chung các tác giả đều cho rằng di chúc là

cách bày tỏ nguyện vọng của con người trước lúc chết.
Pháp luật La Mã quy định khá chặt chẽ các điều kiện để một di chúc có
hiệu lực như: người lập di chúc phải có khả năng lập di chúc (con gái từ 12
tuổi, con trai từ 14 tuổi trở lên, không bị tâm thần, không phạm trọng tội);
hình thức di chúc phải phù hợp với quy định của pháp luật (di chúc viết phải
được quan tòa, quan chấp chính chứng thực, di chúc miệng phải có bảy người
làm chứng, người thừa kế phải được chỉ định rõ ràng, chính xác); người được
chỉ định trong di chúc phải là người có khả năng trở thành người thừa kế (thai
nhi sinh vào tháng thứ mười một, đàn ông từ 25 đến 60 tuổi, đàn bà từ 20 đến
50 tuổi mà không lập gia đình thì không được hưởng thừa kế…).
Một nguyên tắc quan trọng của luật La Mã và thừa kế là Semel heres,
semper heres - người được chỉ định là người thừa kế sẽ vĩnh viễn là người
thừa kế. Điều này có nghĩa là luật pháp chỉ công nhận di chúc có điều kiện
phát sinh, không công nhận di chúc có điều kiện đình chỉ.

6
Một vấn đề mà trong hầu hết pháp luật dân sự của các nước có quy
định được xuất phát từ luật La Mã là việc quy định những người được hưởng
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc (hay còn gọi là kỷ phần bắt
buộc). Ở thời kỳ đầu (thời kỳ Cộng hòa La Mã sơ khai) thì gia chủ chia tài sản
như thế nào thì sẽ là như thế (Unti legassit super pecunia tutelave suae rei ita
ius esto) nhưng dần dần về sau đối với những người ở hàng thừa kế thứ nhất
nếu bị người lập di chúc truất quyền thừa kế thì sẽ được hưởng một kỷ phần
bắt buộc [29, Tr. 10].
Và theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam thì di chúc được quy
định tại Điều 646 của Bộ luật dân sự năm 2005: “Di chúc là sự thể hiện ý chí
của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.
Theo đó, di chúc được hiểu là sự bày tỏ ý chí của một người khi còn
sống định đoạt tài sản của mình, để chuyển toàn bộ hoặc một phần tài sản của
người đó cho một hay nhiều người thừa kế sau khi người đó chết. Sự bày tỏ ý

chí này được thể hiện, hoặc giấy tờ, hoặc bằng lời nói miệng, thường là lời
dặn dò, lời trăn trối khi hấp hối. Hành vi bày tỏ ý chí này bằng giấy tờ, hoặc
lời nói miệng gọi là lập di chúc. Việc chuyển tài sản của người quá cố cho
người khác sau khi người đó chết căn cứ theo di chúc của người đó lập ra khi
còn sống gọi là thừa kế theo di chúc. Người được hưởng di sản hoặc một phần
di sản của người chết để lại căn cứ theo di chúc của người quá cố đó là người
thừa kế theo di chúc chết. Di chúc chỉ được thực hiện sau khi người lập di
chúc chết và điều này có ý nghĩa pháp lý và ý nghĩa thực tiễn khi:
- Người lập di chúc không bị ràng buộc bởi di chúc đã lập ra, người đó
có thể sửa đổi di chúc hoặc hủy bỏ di chúc đã lập bằng một di chúc khác lập
ra sau này, hoặc tuyên bố không lập di chúc nữa.
- Không có sự ràng buộc giữa người lập di chúc và người được chỉ định
là người thừa kế theo di chúc, trong thời gian người lập di chúc còn sống.

7
- Sau khi người lập di chúc chết, người được chỉ định là người thừa kế
theo di chúc mới có quyền bày tỏ ý chí của mình nhận hay không nhận tài sản
của người lập di chúc để lại. Đây là hành vi pháp lý đơn phương của người
thừa kế nhận di sản theo di chúc.
Như vậy, có thể khái quát di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân (bằng
di chúc và di chúc có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản), người có tài sản
riêng của mình để chuyển các tài sản đó cho người khác (là tổ chức, cá nhân
là người thân thuộc, anh em, con cái, cha mẹ và cũng có thể là người quen
biết, không phải trong các hàng thừa kế) sau khi chết.
1.1.2. Khái niệm thừa kế theo di chúc
Ngay từ thời kỳ đầu đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước, Đảng và
Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã có quan điểm rõ ràng và đúng
đắn về đường lối cách mạng của mình: “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”.
Từ xuất phát điểm đó dẫn đến trong quan hệ thừa kế công dân có quyền để lại
thừa kế những tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người khác. Nhà

nước không hạn chế quyền để lại thừa kế và quyền nhận thừa kế của cá nhân.
Mặt khác, Nhà nước khuyến khích công dân bằng sức lao động của mình tạo
ra nhiều của cải cho xã hội, làm giàu cho gia đình, làm cho đất nước văn
minh, phồn vinh. Thừa kế theo di chúc là một cách thể hiện rõ nhất quyền tự
định đoạt của người có tài sản, đồng thời cho thấy pháp luật dân sự Lào luôn
tôn trọng quyền tự do thể hiện ý chí của công dân.
Thừa kế theo di chúc là việc chuyển di sản thừa kế (tài sản, quyền tài
sản) của người đã chết cho người còn sống theo sự định đoạt của người đó
khi còn sống. Thừa kế theo di chúc là một chế định quan trọng của pháp luật
dân sự về thừa kế, là một cách thức giúp người chết để lại di sản của mình
cho những người gần gũi, có quan hệ gắn bó theo ý muốn của người đó và
sự định đoạt này được pháp luật về thừa kế bảo vệ bằng những quy định cụ

8
thể nhằm tạo mọi điều kiện tối ưu nhất cho việc thực hiện ý nguyện sau cùng
của người để lại tài sản.
Theo Bộ luật dân sự năm 1990 nói chung và Luật thừa kế 2008 của Lào
nói riêng, quy định thừa kế theo di chúc: “Là được thừa kế những tài sản theo
di chúc của người đã chết”. Như vậy, khi một người chết để lại di sản bằng di
chúc và có hiệu lực pháp luật cho những người được hưởng thừa kế theo di
chúc là các cá nhân, tổ chức được thừa kế những tài sản theo di chúc đó của
người đã chết.
Điều thể hiện ý nghĩa của di chúc trước tiên là thông qua di chúc người
có tài sản bày tỏ được mong muốn, nguyện vọng của mình về cách giải quyết
tài sản của họ sau khi chết. Hơn nữa, ai cũng hiểu được rằng thế giới vật chất
là vô cùng, vô tận nhưng cuộc đời con người thì có giới hạn. Vì vậy, trước khi
đến cõi vĩnh hằng họ phải phân định làm sao thoả mãn nhất những gì thuộc về
họ cho người còn sống.
Lập di chúc là cách tốt nhất để người đó thể hiện ý chí của chính họ
trong việc định đoạt khối tài sản của chính mình, mà đôi lúc nó không chỉ đơn

thuần mang giá trị về kinh tế có thể nó là tâm huyết, là tình yêu, là kỉ
niệm…Vì vậy, việc tự do thể hiện ý chí trong di chúc có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Tất nhiên, vẫn là tự do trong khuôn khổ của pháp luật. Một lợi thế nữa
cho người có tài sản lập di chúc là họ không bị ràng buộc bởi di chúc đã được
lập họ có thể thay đổi, bổ sung hoặc thay thế bằng một bản di chúc khác và
chỉ bản di chúc thể hiện ý chí cuối cùng của người có tài sản mới được công
nhận là di chúc hợp pháp. Có thể nói, di chúc là phương tiện chuyển tài sản vì
sau thời điểm mở thừa kế di chúc có giá trị pháp lý, đồng nghĩa với việc tài
sản của họ (lúc này được gọi là di sản) chuyển sang người hưởng thừa kế theo
nội dung của di chúc được người có tài sản lập trước đó.

9
1.1.3. Vai trò của pháp luật thừa kế theo di chúc
Nhà nước nhân dân cách mạng Lào có nền kinh tế chủ yếu là tự cung tự
cấp. Cấu trúc lực lượng lao động thì: 80% dân số làm ở lĩnh vực nông nghiệp;
20% dân số làm ở lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ [8, Tr. 13]. Cũng là nước
mà có số lượng theo đạo Phật đông nhất trong khu vực Đông Nam Á. Nhưng
không phải vì thế mà pháp luật không có vai trò lớn trong việc định hướng đất
nước Lào phát triển một cách đúng đắn.
Do những đặc điểm về kinh tế cũng như văn hóa mà vấn đề pháp luật
thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng của Lào cũng mang tính
phức tạp. Bởi vậy, pháp luật thừa kế có một tầm quan trọng đặc biệt trong
việc bảo vệ quyền sở hữu của người chết, người được thừa kế, bảo vệ tôn ti
trật tự trong nội bộ gia đình, dòng tộc cũng như giúp giữ gìn nền văn hóa
truyền thống của cha ông cha xưa. Do đó, pháp luật thừa kế của Lào có vai trò
rất quan trọng, cụ thể:
- Pháp luật thừa kế là sự thể chế hóa đƣờng lối, chủ trƣơng của
đảng nhân dân cách mạng Lào và của Nhà nƣớc Lào về quyền cơ bản
của con ngƣời trong lĩnh vực dân sự
Đảng nhân dân cách mạng Lào là lực lượng lãnh đạo toàn xã hội. Sự

lãnh đạo của Đảng thể hiện ở dưới nhiều góc độ, phương diện khác nhau,
trong đó có hoạt động xây dựng chủ trương, đường lối chính sách. Và để cho
chủ trương, đường lối chính sách của Đảng đi vào cuộc sống, thì Nhà nước
phải thể chế hóa đường lối chủ trương đó ra thành văn bản pháp luật để làm
phương tiện thực hiện sức mạnh đó. Sở dĩ như vậy, vì pháp luật mang tính
phổ biến và tính tổ chức nên khi có hiệu lực thi hành thì tất cả những công
dân trong nước phải chấp hành.
Các văn kiện của Đảng từ năm 1975 đến nay đều khẳng định việc thực
thi quyền con người và quyền công dân được xem như nhân tố thúc đẩy phát

10
triển kinh tế xã hội trong thời kỳ nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đang
nổ lực đi lên. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (từ ngày 27 đến ngày 30
tháng 4 năm 1982); Đại hội đại biểu toàn quốc lần IV (từ ngày 13 đến ngày
15 tháng 11 năm 1986); Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (tháng 3 năm
1991); Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI (từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 3
năm 1996); và đặc biệt đại hội mới đây nhất Đại hội đại biểu toàn quốc lần
IX (tiến hành trong tháng 3 năm 2011) đã nhấn mạnh quan điểm bảo đảm hơn
nữa về quyền con người.
Pháp luật điều chỉnh xã hội ở nhiều lĩnh vực khác nhau như về kinh tế,
về chính trị, về quyền con người Pháp luật thừa kế là một trong những quy
định liên quan về lĩnh vực về kinh tế cũng như quyền con người đối với người
dân. Về mặt kinh tế thể hiện ở chỗ các quy định về thừa kế giúp nền kinh tế
ổn định trong việc mua bán trao đổi những tài sản được thừa kế từ người đã
chết. Về quyền con người thể hiện ở việc xác lập quyền sỡ hữu, quyền định
đoạt tài sản. Mỗi một quy định được lập nên đều có một mục đích cho một
lĩnh vực của nó. Pháp luật thừa kế là tập hợp những quy định thể hiện ý chí
của nhà nước Nhân dân cách mạng Lào.
Theo đó, pháp luật về thừa kế ở Lào trong những năm qua đã và đang
là những công cụ thể chế hóa đường lối của Nhà nước Lào trong lĩnh vực

quyền dân sự của con người.
- Pháp luật thừa kế là phƣơng thức quan trọng trong việc xác lập,
cũng cố, bảo vệ quyền sở hữu
Khi xã hội phân chia giai cấp thì thừa kế có vai trò trong việc duy trì,
cũng cố quyền sở hữu. Cá nhân có được các quyền đối với tài sản của mình
và trên cơ sở đó pháp luật quy định cho họ những quyền trong đó có quyền
để lại di sản cho những người được hưởng di sản đó theo di chúc hoặc theo
pháp luật. Công nhận quyền sở hữu được để lại thừa kế có tác dụng tăng

11
thêm niềm tin và tình yêu thương giữa những người để lại thừa kế và người
được thừa kế. Chủ sở hữu tài sản sẽ yên tâm hơn khi biết rằng sự nghiệp
của mình sẽ được kế tục bởi những người mình yêu thương. Quyền sở hữu
chỉ được hoàn thành vai trò động lực phát triển kinh tế nếu nó chuyển giao
bằng con đường thừa kế.
Pháp luật về thừa kế ở Lào, có vai trò trong việc đảm bảo quyền lợi cho
người lao động, bảo vệ và tôn trọng những thành quả lao động mà họ đã tạo
ra, khi họ chết những thành quả đó sẽ được chuyển qua cho những người thừa
kế mà họ muốn. Pháp luật về thừa kế là phương tiện để đảm bảo cho chủ sở
hữu thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản của mình. Thông qua thừa kế
của một người được chuyển dịch từ đời này sang đời khác, được ghi nhận và
tôn trọng quyền định đoạt tài sản của người lập di chúc là việc pháp luật tôn
trọng quyền định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản của họ, bảo đảm cho
người lập di chúc có quyền sử dụng tài sản ngay cả khi chết, qua đó góp phần
cũng cố quyền sở hữu chính đáng của mọi cá nhân.
- Pháp luật thừa kế có vai trò trong việc giữ gìn, phát huy các
phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Lào
Phong tục, tập quán truyền thống là nét đẹp văn hóa mang bản sắc của
mỗi dân tộc, là nét riêng có của mỗi quốc gia, được hình thành từ lâu đời và
được nhiều người tôn trọng giữ gìn. Một đất nước, hay pháp luật của đất nước

đó chỉ tồn tại và bền vững khi nó thật sự phù hợp với đạo đức, phong tục tập
quán (phù hợp với nền văn minh tiên tiến), truyền thống văn hóa tốt đẹp.
Phong tục tập quán có vai trò rất quan trọng trong việc cùng với pháp luật nhà
nước tham gia quản lý xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng nhân
dân cách mạng Lào luôn đặc biệt chú trọng đến việc giữ gìn và phát huy bản
sắc dân tộc, đưa những quan niệm tốt đẹp của ông cha xưa vào những quy
định của pháp luật. Hiện nay, Lào đang trên đường hội nhập, mở rộng quan hệ

12
và học hỏi kinh nghiệm pháp luật của các nước thì việc quan tâm giữ gìn bản
sắc dân tộc lại càng được quan tâm đặc biệt hơn. Nhiều phong tục tập quán tốt
đẹp đã được “pháp luật hóa” thành các quy phạm pháp luật. Có thể thấy trong
tổng hợp Bộ luật dân sự 1990 của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, có
các vấn đề về thừa kế, hôn nhân gia đình
Trong đó, vấn đề thừa kế theo di chúc đã quy định cho người lập di
chúc có quyền dành phần di sản để “làm chỗ thờ cúng anh chị em và những
người khác” [18,Đ24]. Đây là một phong tục tập quán có từ lâu đời và hiện
nay vẫn được coi trọng và quy định trong pháp luật dân sự. Việc thờ cúng
tổ tiên được thực hiện trên cơ sở của quan niệm mang tính chất đạo đức và
văn hóa, tôn trọng và biết ơn công sinh thành, dưỡng dục, con người có cội
nguồn, tổ tông cho nên con cháu phải tôn trọng và biết ơn những thế hệ
trước. Trong việc thờ cúng, di sản thờ cúng có một ý nghĩa hết sức quan
trọng, nó không chỉ có ý nghĩa về mặt vật chất mà còn giá trị về mặt tinh
thần. Đây là nét khác biệt so với pháp luật của các nước phương tây vốn xa
lạ với việc thờ cúng tổ tiên.
Pháp luật thừa kế Lào đảm bảo cho người lập di chúc có quyền để lại tài
sản của mình cho bất cứ ai. Nhưng bên cạnh đó, pháp luật cũng hạn chế một số
điều nhằm đảm bảo giữ gìn truyền thống văn hóa, đạo đức của dân tộc. Theo
Điều 25 quy định:
“Nếu chủ tài sản muốn tặng, chuyển và lập di chúc cho một hay là nhiều

người có thể thực hiện như sau đây.
1/ Nếu chủ tài sản có một người con thì người lập di chúc không cho
vượt quá 1/2 của tất cả tài sản đã có.
2/ Nếu chủ tài sản có hai người con thì người lập di chúc không cho
vượt quá 1/3 của tất cả những tài sản đã có.
3/ Nếu chủ tài sản có ba người con trở lên thì người lập di chúc không
cho vượt quá 1/4 của tất cả tài sản đã có.

13
Việc tặng, chuyển và lập di chúc đã vượt quá những trường hợp nêu
trên tài sản đã vượt quá ấy sẽ đưa ra chia sẻ cho những người thừa kế theo
pháp luật”.
Như vậy, pháp luật không cho phép người lập di chúc tự ý để lại tất cả
tài sản cho một người con nếu người đó có từ hai con trở lên, hay để lại phần
tài sản vượt quá quy định pháp luật. Đây là sự khác biệt giữa pháp luật Lào so
với luật pháp Việt Nam khi hạn chế phần tài sản để lại cho các con. Đó cũng
là nét văn hóa của dân tộc Lào nhằm đảm bảo quyền lợi ngang nhau giữa các
con trong cùng một gia đình, để các con cùng có chung một nghĩa vụ đối với
người đã khuất, tránh tình trạng do thừa kế giữa các con mất sự bình đẳng sẽ
gây ra “những cuộc chiến” giữa các thành viên trong gia đình.
Trong khi đó pháp luật thừa kế Việt Nam quy định người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc ở Điều 669 Bộ luật dân sự năm
2005, cụ thể:
“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba
suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp
luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản
hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là
những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những
người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của
Bộ luật này:

1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động”. [23]
Như vậy, mặc dù pháp luật dân sự Việt Nam quy định cá nhân có rất
nhiều quyền như chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người
thừa kế, giao nghĩa vụ cho người thừa kế…, nhưng để bảo vệ lợi ích của một
số người trong diện thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất, phù hợp với phong

14
tục, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, cá nhân với tư cách là một thành viên
của gia đình không thể bỏ qua lợi ích của những người thân thuộc gần gũi
nhất của mình như vợ, chồng, cha, mẹ, con cái mà mình có nghĩa vụ trông
nom, chăm sóc. Do đó, Điều 669 Bộ luật dân sự năm 2005 của Việt Nam đã
quy định hạn chế một phần quyền của cá nhân trong việc lập di chúc. Đó là
chủ sở hữu, với tư cách là người lập di chúc, bắt buộc phải dành lại một phần
di sản của mình cho những người thân thuộc gần gũi là vợ, chồng, cha, mẹ,
con chưa thành niên và con đã thành niên mà không có khả năng lao động.
Phần di sản bắt buộc này bằng hai phần ba phần di sản mà mỗi người thừa kế
nói trên được hưởng nếu di sản được chia theo pháp luật.
Có thể nói hầu hết các quy phạm pháp luật về thừa kế đều có vai trò
trong việc nâng các quy phạm đạo đức lên thành luật. Các quy phạm đạo đức
này gắn chặt với phong tục tập quán của mỗi dân tộc, trong mối quan hệ ứng
xử giữ các thành viên trong gia đình với nhau. Vì lẽ đó, giữ gìn và phát huy
những phong tục tập quán ấy trong đời sống xã hội là một đảm bảo quan
trọng để các quy định đi vào thực tế cuộc sống.
- Pháp luật thừa kế góp phần quan trọng trong việc cũng cố mối
quan hệ đoàn kết giữa các thành viên trong gia đình, góp phần bảo đảm
ổn định cuộc sống cộng đồng và xã hội.
Nhân dân Lào đại đa số theo tôn giáo là Phật giáo, nên rất tôn trọng
truyền thống hiếu nghĩa trong gia đình, dòng tộc vì thế những quy định của
pháp luật luôn hướng đến tinh thần đoàn kết giữa những người trong dòng

tộc, đặc biệt là anh, em, cha mẹ, ông bà… các thành viên trong gia đình phải
luôn luôn giữ được tinh thần đoàn kết tương thân tương ái với nhau. Pháp luật
thừa kế Lào cũng không nằm ngoài mục đích làm cơ sở cho người để lại di
sản thực hiện quyền phân chia di sản của mình nhằm tránh mất đoàn kết trong
nội bộ gia đình.

15
Thừa kế di sản là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản của
cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng thừa kế. Người
hưởng thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản được hưởng theo di chúc
hoặc theo pháp luật. Với ý nghĩa có tầm quan trọng như vậy, nên trong xã
hội có giai cấp nào, thừa kế cũng là vấn đề luôn được quan tâm nhiều nhất
trong quan hệ xã hội. Sự vận động của nó nếu tách khỏi sự điều chỉnh của
pháp luật sẽ không tránh khỏi những xung đột xảy ra, cũng có thể là những
cuộc “chiến tranh về tài sản” kéo dài và thậm chí là những cuộc đổ máu
ngay trong bản thân gia đình, dòng họ người đã chết gây mất đoàn kết và
gây nên mất trật tự xã hội.
Ngày nay, pháp luật thừa kế theo di chúc ở Lào cũng xảy ra nhiều vấn đề
rất phức tạp. Một phần do cuộc sống người dân ngày càng tăng lên, của cải dư
thừa ngày càng nhiều. Do đó, nhu cầu để lại di sản cho con cháu sau khi chết
cũng theo đó mà gia tăng về số lượng. Một bộ phận người dân không tuân theo
quy định của pháp luật nên đã xảy ra những tranh chấp giữa những người trong
gia đình đối với tài sản người chết để lại, như cho di chúc đó là giả, người để
lại di sản không đồng đều cho các người được hưởng di sản… Đó là lý do ở
Lào hàng năm có rất nhiều vụ án về tranh chấp thừa kế được khởi kiện. Thông
qua các quy định về thừa kế, các bên tham gia quan hệ thừa kế thấy rõ được
các quyền và nghĩa vụ của mình cũng như trình tự thủ tục cách thức để thực
hiện đúng quyền và nghĩa vụ đó. Trên cơ sở đó, các chủ thể để lại di sản cũng
như nhận di sản thừa kế tự điều chỉnh hành vi của mình trong khuôn khổ pháp
luật quy định cho phù hợp với chuẩn mực pháp lý, tạo lập được một hệ thống

các quan hệ tốt đẹp giữa người với người, sau khi người để lại di sản chết, góp
phần vào việc cũng cố sự đoàn kết trong gia đình.
1.2. Sự hình thành và phát triển pháp luật thừa kế theo di chúc ở Lào
Pháp luật dân sự đã được ban hành và có hiệu lực trong hơn 20 năm, kể

16
từ khi hệ thống pháp luật Lào được quan tâm xây dựng. Khi xã hội phát triển,
văn minh thì quan hệ giữa các công dân, các giao dịch dân sự… nói chung và
quan hệ về pháp luật thừa kế nói riêng cũng cũng phát triển theo. Do đó, để
hạn chế những tranh chấp dân sự trong đời sống xã hội của đất nước, đòi hỏi
các chuyên gia pháp lý phải nghiên cứu và đệ trình Quốc hội Lào ban hành
các văn bản về pháp luật dân sự trong đó có thừa kế nhằm giúp chính quyền
quản lý nhà nước bằng pháp luật, người dân có pháp luật làm cơ sở thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của mình.
Pháp luật Lào hiện nay được chia ra thành hai hệ thống pháp luật rõ rệt
đó là hệ thống pháp luật dân sự và hệ thống pháp luật hình sự. Trong mỗi hệ
thống pháp luật có nhiều luật quy định các vấn đề liên quan đến hệ thống đó.
Hiện nay, các chuyên gia pháp luật cho rằng pháp luật rất chặt chẽ kết nối với
mọi người và bằng cách đạt được sự hiểu biết lớn hơn, họ sẽ được bảo vệ tài
sản của họ và quyền lợi cá nhân tốt hơn. Ủy ban phụ trách soạn thảo pháp luật
được giao nhiệm vụ nghiên cứu pháp luật của một số nước có hệ thống pháp
luật tiên tiến, trong đó có nghiên cứu pháp luật Việt Nam và Thái Lan để xem
những điều luật phù hợp với phong tục, tập quán, văn hóa của đất nước thì có
thể được đưa vào nội dung sửa đổi văn bản pháp luật của Lào.
Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào nên soạn thảo một bộ luật dân
sự mới thể hiện các vấn đề quan trọng trong các luật khác nhau, sẽ mang lại
lợi ích cho công dân bằng cách có hệ thống, phân loại những luật lệ mà hầu
hết ảnh hưởng tích cực đến quyền và lợi ích mà ngành luật này điều chỉnh.
Điều này sẽ mở ra một hành lang pháp lý mới, tích cực hơn để phát triển
pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho quốc gia phát triển kinh tế - xã hội và

xóa đói giảm nghèo.
Theo Bộ trưởng Bộ Tư pháp Chaleun Yiapaoher đưa ra nhận định tại
hội thảo đầu tiên về việc soạn thảo pháp luật dân sự, được hỗ trợ bởi dự án

17
quy phạm pháp luật của JICA (Nhật Bản). Ông cho biết việc ban hành mã dân
sự sẽ giúp tăng cường hệ thống pháp luật Lào, xây dựng sự hiểu biết pháp luật
và nâng cao nhận thức của công chúng về các vấn đề như sau:
"Như bạn có thể được nhận thức, hệ thống pháp luật là khá phức tạp và
liên quan đến tất cả các lĩnh vực. Nó cũng rất cần thiết cho sự ổn định, an
ninh và sức mạnh của nhà nước của chúng tôi. Tôi chấp nhận rằng đây là kinh
nghiệm đầu tiên của chúng tôi trong việc ban hành mã đầu tiên của đất nước,
mà sẽ tạo ra một mô hình cho các mã khác được ban hành trong tương lai".
Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ 9 quy định sự cần thiết phải cải
thiện pháp luật và các quy định của pháp luật tại Lào để đảm bảo rằng tất
cả các thành phần kinh tế thực sự bình đẳng trước pháp luật và có thể đóng
góp tích cực để mở rộng năng lực sản xuất và cạnh tranh trong quá trình
quốc tế hội nhập.
Các chuyên gia cho biết một trong những điều quan trọng nhất là để
đảm bảo nâng cao nhận thức cộng đồng lớn hơn của hệ thống pháp lý của Lào
để công chúng nói chung và lĩnh vực thực thi pháp luật hiểu đầy đủ về pháp
luật của quốc gia, quá trình thực thi pháp luật, và hệ thống tư pháp.
Sự hình thành và phát triển pháp luật thừa kế theo di chúc ở Lào qua
các thời kỳ sau đây:
1.2.1. Pháp luật thừa kế theo di chúc trong thời kỳ phong kiến
Một đất nước phát triển về kinh kế thì pháp luật cũng được phát triển
theo để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh. Trong thời kỳ phong kiến đất
nước Lào có nền kinh tế chậm phát triển. Do đó, kéo theo pháp luật của Nhà
nước phong kiến Lào thời kỳ này chưa phát triển hoàn thiện, nên vấn đề thừa
kế theo di chúc cũng chưa được quan tâm điều chỉnh. Tuy vậy, vẫn có một số

văn bản pháp luật của Nhà nước phong kiến ở Lào quy định. Ngoài ra, các
nhà nước phong kiến còn ban hành nhiều văn bản đơn hành như: Chiếu, chỉ,

18
dụ của nhà vua,… Nội dung các Bộ luật điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc
đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật hiện nay, trong đó có những quy
định về thừa kế theo di chúc thể hiện sự tôn trọng ý muốn và quyền quyết
định của người có tài sản.
Ở thời kỳ Pháp thuộc, nước Lào chịu sự áp bức, bóc lột của chế độ thực
dân nên phần nào chịu sự ảnh hưởng pháp luật thời kỳ này của nước Pháp.
Nước Pháp thời kỳ này có Bộ luật dân sự Na-pô-lê-ông khá nổi tiếng và là bộ
luật quy định tương đối đầy đủ để đều chỉnh các quan hệ xã hội thời bấy giờ.
Do đó, trong pháp luật dân sự Lào đã bị tác động bởi các quy định về thừa kế
trong hệ thống pháp luật nước Pháp, cụ thể:
- Người lập di chúc có thể truất quyền thừa kế của một hay nhiều người
trong số những người thuộc diện thừa kế. Việc truất quyền thừa kế này phải
lập thành văn bản người có chức sắc ở nơi cư trú của người lập chúc thư.
- Hình thức di chúc phải bằng văn bản hoặc người có chức sắc lập ra
hoặc có công chứng thị thực. Trong trường hợp di chúc không có công chứng
thị thực phải do người lập chúc thư tự tay viết và ký tên. Nếu người lập chúc
thư không thể tự tay viết được do nguyên nhân nào đó mà đọc để người khác
viết hộ thì phải có ít nhất hai người làm chứng, người làm chứng phải ở trong
độ tuổi thành niên. Người làm chứng thường là quan lại, chức sắc tại nơi trú
quán của người làm chúc thư hoặc lý trưởng nơi ở của người lập chúc thư.
- Nội dung di chúc cũng được quy định rõ ràng, cụ thể hơn: di chúc
phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc; ghi rõ tên, họ, tuổi, nơi trú quán của
người làm chứng. Khi lập xong chúc thư được công khai đọc to cho mọi
người cùng nghe, người lập chúc thư, người viết hộ (nếu có) và những người
làm chứng cùng ký tên vào văn bản. Số lượng văn bản này tùy thuộc vào số
người được hưởng thừa kế. Nếu người lập chúc thư muốn thay đổi một phần

hoặc toàn bộ bản chúc thư trước, thì bản chúc thư sau phải tiến hành đúng

19
những thủ tục trên và phải nêu rõ việc người lập chúc thư thay đổi một phần
hay toàn bộ bản chúc thư. Trong trường hợp không nêu rõ thì những điều
khoản trái với bản chúc thư sau mới hủy bỏ.
1.2.2. Giai đoạn trước Cách mạng Tháng 12 thành công năm 1975
Cách mạng Tháng 12 thành công khai sinh ra nước Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào. Vào buổi đầu độc lập đất nước Lào gặp khó khăn muôn bề, với
tình hình lúc đó Nhà nước Cách mạng còn non trẻ chưa có điều kiện để ban
hành các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung và quan
hệ thừa kế nói riêng. Do vậy, thời kỳ này tại Lào, Nhà nước vẫn cho phép tạm
thời áp dụng các luật lệ của chế độ cũ, trừ những điều, khoản trái với nền độc
lập và dân chủ của đất nước.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính dân chủ và công bằng, bình quyền thì Nhà
nước Lào cũng quy định vợ chồng có quyền thừa kế của nhau; con trai, con
gái đều có quyền thừa kế di sản của cha mẹ; chồng góa và vợ góa, các con đã
thành niên có quyền xin chia di sản; các con cháu hoặc vợ góa, chồng góa
không bắt buộc phải nhận thừa kế của người đã chết; các chủ nợ của người đã
chết không có quyền đòi người thừa kế phải thanh toán nợ quá phần di sản mà
người đó được nhận.
Kháng chiến chống Pháp thành công, nguyên tắc thừa kế tư nhân được
khẳng định khi Lào bước sang thời kỳ độc lập dân tộc, vươn mình ra khỏi
gông xiềng của chế độ áp bức thực dân đề đảm bảo nguyên tắc quản lý của
Nhà nước đối với công dân là pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công
dân. Rồi Luật hôn nhân gia đình của Lào cũng quy định khi một bên chết
trước nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì chia đôi; phần của người
chết là di sản của người đó; vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau;
ngoài tài sản chung, vợ, chồng có thể có tài sản riêng. Người có tài sản riêng
có quyền định đoạt đối với tài sản riêng đó, kể cả việc để lại cho ngươi thừa

kế theo di chúc.

20
Trong giai đoạn khó khăn như vậy, nhưng pháp luật dân sự Lào đã quy
định được về chế định thừa kế theo di chúc là một thành công lớn, là sự quan
tâm đặc biệt đến quyền lợi của người dân, xây dựng một chế độ xã hội của
nhân dân, vì nhân dân.
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay
Khi đất nước được giải phóng, mọi chính sách áp bức đã được thay đổi
và định hướng phát triển đất nước Lào thời kì này là sự tự chủ. Nhằm cải cách
kinh tế, ổn định chính trị, mở rộng quan hệ quốc tế, nhà nước Lào đã có
những động thái cải cách tích cực trên các lĩnh vực, vừa đảm bảo an sinh nội
địa, vừa đảm bảo mở rộng quan hệ ngoại giao. Trong lĩnh vực thừa kế thì
pháp luật dân sự Lào cũng nêu rõ tôn trọng quyền tự quyết của người để lại di
sản theo di chúc theo quy định Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và
quyền thừa kế của công dân. Tại Điều 4 Luật thừa kế Lào nêu ra chính sách
nhà nước về thừa kế: “Nhà nước đã có quyền quản lý và bảo vệ quyền lợi và
nghĩa vụ của dân trong việc chuyển và tặng tài sản theo pháp luật Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào”.
Không như pháp luật về thừa kế của Việt Nam được quy định chung
trong Bộ luật dân sự năm 2005. Bộ luật dân sự Lào năm 1990 bao gồm cả quy
định, chế định thừa kế (quy định chung, thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo
di chúc). Trong quá trình thực hiện Bộ luật dân sự năm 1990, thấy cần thiết
tách ra một văn bản riêng. Quốc hội Lào đã căn cứ vào Hiến pháp năm 1991
và thông qua Luật thừa kế, kế thừa một số quy định của Bộ luật dân sự và bổ
sung vào năm 2008. Hiện tại Luật thừa kế năm 2008 của Lào bao gồm 3
Chương với 67 Điều. Nằm trong Bộ luật dân sự Lào có rất nhiều luật như
Luật hôn nhân gia đình, Luật thừa kế, Luật đất đai,… và mỗi Luật này đều có
quy định chương, điều riêng. Tuy nhiên, để tổng hợp tất cả các văn bản pháp
luật này lại thì được gọi là Bộ luật dân sự Lào.


21
Ngày 10/07/1990, Quốc hội nước Cộng hòa dân chủ nhân Lào đã đúc
kết kinh nghiệm từ thực tiễn xét xử tại cuộc họp lần thứ 2 của Quốc hội và đã
ban hành Nghị định số 03/90/S.P.S về việc thông báo và thừa nhận sử dụng
Luật thừa kế của nước Cộng hòa dân chủ nhân Lào. Theo đó, Luật thừa kế
của nước Cộng hòa dân chủ nhân Lào bao gồm có 67 điều, sửa đổi bổ sung
thêm 26 điều gồm với mục đích là giải thích về luật thừa kế, những quan điểm
chung về thừa kế.
Mặc dù, Luật thừa kế Lào vẫn còn nhiều điểm thiếu sót về lý luận
nhưng thực tiễn xét xử cho thấy Luật này đã đi vào cuộc sống và về cơ bản
vẫn phù hợp với các quan hệ về thừa kế, bảo đảm được quyền thừa kế của
công dân.
Hiện nay, với sự thay đổi mạnh mẽ của nền kinh tế, Lào đang có những
chính sách đổi mới pháp luật tích cực nhằm cải cách hệ thống luật pháp trong
đó có sự đổi mới, lấy ý kiến dân chủ của công dân, đồng thời công bố sự thay
đổi kế hoạch tư pháp rộng rãi để nhân dân hiến kế phát triển nước Lào theo
những quyết sách đã được Quốc hội Lào thông qua.





×