Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy định của Bộ Luật Dân sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1000.34 KB, 97 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



PHẠM TUẤN ANH





THỰC HIỆN NGHĨA VỤ TÀI SẢN DO NGƢỜI CHẾT
ĐỂ LẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM




CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ
MÃ SỐ : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI ĐĂNG HIẾU


HÀ NỘI – NĂM 2007
MỤC LỤC



MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
1
Lời cam đoan
2
Mục lục
3
Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt
5
MỞ ĐẦU
6
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỪA KẾ VÀ VIỆC THỰC
HIỆN NGHĨA VỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI CHẾT ĐỂ LẠI
10
1.1. Thừa kế và quan hệ pháp luật thừa kế
10
1.1.1. Khái niệm thừa kế
10
1.1.2. Quan hệ pháp luật thừa kế
14
1.1.2.1. Khái niệm
14
1.1.2.2. Các yếu tố cấu thành
17
1.2. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
22
1.2.1. Khái niệm nghĩa vụ và nghĩa vụ tài sản

22
1.2.2. Thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại – Một
sự chuyển giao nghĩa vụ đặc biệt
27
1.3. Sơ lược những quy định của pháp luật thời kỳ phong kiến đến
trước khi có Bộ luật dân sự
33
Chương 2. THỰC HIỆN NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI
CHẾT ĐỂ LẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ
37
2.1. Chủ thể thực hiện nghĩa vụ tài sản
37
2.1.1. Chủ thể thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết trong
trường hợp di sản chưa được chia
38
2.1.2. Chủ thể thực hiện nghĩa vụ tài sản sau khi di sản được
chia
41
2.1.2.1. Người thừa kế
41
2.1.2.2. Người được di tặng
47
2.1.2.3. Người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng
50
2.1.3. Chủ thể thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp được chỉ
định trong di chúc
55

2
2.1.4. Thứ tự thực hiện nghĩa vụ của các chủ thể

57
2.2. Thời điểm phát sinh và phạm vi thực hiện nghĩa vụ
61
2.2.1. Thời điểm phát sinh
61
2.2.1.1. Thời điểm phát sinh nghĩa vụ của người thừa kế
61
2.2.1.2. Thời điểm phát sinh nghĩa vụ của các chủ thể
khác
63
2.2.2. Phạm vi thực hiện nghĩa vụ
64
2.2.2.1. Trường hợp di sản chưa được chia
65
2.2.2.2. Trường hợp di sản đã được chia
68
2.3. Các loại nghĩa vụ tài sản của người chết để lại và thứ tự thanh
toán nghĩa vụ tài sản
75
2.3.1. Các loại nghĩa vụ
75
2.3.1.1. Nhóm thứ nhất: nghĩa vụ với nhà nước
75
2.3.1.2. Nhóm thứ hai: nghĩa vụ với cá nhân, tổ chức khác
76
2.3.1.3. Các chi phí phát sinh
78
2.3.2. Thứ tự thanh toán
79
2.3.3. Thời hiệu yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản

87
Chương 3. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP, NHỮNG
VƯỚNG MẮC VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT
91
3.1. Thực trạng giải quyết tranh chấp và một số vướng mắc trong
thực tiễn
91
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện những quy định của pháp luật về
thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
98
KẾT LUẬN
103
TÀI LIỆU THAM KHẢO
104





MỞ ĐẦU

3
I. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
So với các chế định khác của dân luật, thừa kế là một chế định có lịch
sử phát triển khá lâu dài và là một trong những chế định cơ bản, quan trọng
nhất của pháp luật dân sự. Ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, thừa kế
luôn nhận được sự quan tâm thích đáng của các nhà làm luật cũng như giới
nghiên cứu khoa học pháp lý.
Cùng với sự phát triển của đất nước qua mỗi giai đoạn, chế định thừa

kế đã phần nào phản ánh được những đặc trưng về điều kiện kinh tế – chính
trị – xã hội và nền tảng văn hoá truyền thống. Từ đó, góp phần điều chỉnh có
hiệu quả các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này. Trong giai đoạn hiện nay,
khi chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và việc gia nhập WTO thể hiện sự hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới
thì cơ hội làm giàu cho bản thân và đất nước sẽ rộng mở cho tất cả mọi người.
Vì vậy, một kết quả dễ dự đoán đó là sự xuất hiện ngày càng đa dạng, phức
tạp những quan hệ tài sản, trong đó, thừa kế cũng không phải là ngoại lệ.
Thực tiễn xét xử tranh chấp thừa kế trong những năm vừa qua đã phần nào
phản ánh sự phức tạp này. Để đáp ứng được sự thay đổi và đảm bảo được
quyền thừa kế của cá nhân cũng như những chủ thể có quyền, nghĩa vụ tài sản
liên quan thì những vấn đề của thừa kế cần tiếp tục nhận được sự quan tâm
của những nhà nghiên cứu và những nhà lập pháp. Yêu cầu cơ bản đối với chế
định thừa kế đó là trả lời và giải quyết hai câu hỏi lớn: Tài sản của người chết
để lại sẽ thuộc về ai, theo trình tự nào? và những nghĩa vụ tài sản của họ để lại
sẽ chấm dứt hay do ai tiếp tục thực hiện? Đây là hai mặt của một vấn đề. Hiện
tại, những công trình, đề tài nghiên cứu và cả những quy định của pháp mới
chủ yếu tập trung trả lời cho câu hỏi thứ nhất. Do đó, nghiên cứu để làm sáng
tỏ cơ sở lý luận của việc chuyển giao nghĩa vụ tài sản của người chết cho
những chủ thể khác, trên cơ sở phân tích luật thực định và thực tiễn giải quyết
tranh chấp cũng như vướng mắc và từ đó đề ra những kiến nghị hoàn thiện
các quy định pháp luật sẽ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Từ lý do này,

4
tác giả chọn đề tài “Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy
định của Bộ luật dân sự Việt Nam”.
II. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tính đến thời điểm hiện tại, những công trình, đề tài nghiên cứu mới
chủ yếu tập trung trả lời cho câu hỏi tài sản của người chết để lại thuộc về ai
và theo trình tự nào, rất ít công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề thực hiện

nghĩa vụ tài sản của người chết để lại.
Những công trình nghiên cứu một cách tổng quát về thừa kế có: “Tìm
hiểu pháp lệnh thừa kế” của Luật sư Lê Quế, năm 1994; Sách chuyên khảo
“Bình luận khoa học về Thừa kế trong luật dân sự Việt Nam” của Tiến sĩ
Nguyễn Ngọc Điện – Khoa Luật Đại học Cần Thơ, Nhà xuất bản trẻ. “Thừa
kế - Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng” của Tiến sĩ Phạm Văn
Tuyết, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Nghiên cứu những vấn đề cụ thể về
thừa kế có: Sách chuyên khảo “Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt
Nam từ 1945 đến nay” của Tiến sĩ Phùng Trung Tập - Đại học Luật Hà Nội,
NXB Tư pháp; Luật án tiến sĩ “Di sản thừa kế” của Nghiên cứu sinh Nguyễn
Thị Huệ - Đại học Luật Hà Nội; Luận văn thạc sĩ “Điều kiện có hiệu lực của
di chúc” của học viên Nguyễn Hồng Nam – Cao học khoá 8 Khoa Luật Đại
học quốc gia Hà Nội
Ngoài ra còn có một số bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí
chuyên nghành và các khoá luận tốt nghiệp của các sịnh viên luật.

III. Mục đích nghiên cứu
Luận văn sẽ làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc chuyển giao nghĩa vụ tài
sản của người chết, trên cơ sở phân tích tính kế thừa qua các giai đoạn lịch sử,
phân tích luật thực định và đánh giá tực tiễn giải quyết tranh chấp từ đó đưa ra
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này.

5
IV. Nhiệm vụ của luận văn
+ Làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc chuyển giao nghĩa vụ tài sản của
người chết
+ Đánh giá một cách có hệ thống sự kế thừa của pháp luật qua các giai
đoạn lịch sử
+ Phân tích những quy định của luật hiện hành cùng với việc nêu thực
tiễn giải quyết tranh chấp

+ Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
V. Phạm vi nghiên cứu
Thừa kế là một vấn đề lớn và khá phức tạp. Trong phạm vi luận văn
thạc sĩ, tác giả chỉ đề cập đến một mặt trong một vấn đề rộng lớn đó. Luận
văn đi vào phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản của thừa kế
và việc chuyển giao nghĩa vụ tài sản của người chết. Kết hợp với việc phân
tích các quy định của luật hiện hành cùng với việc đánh giá thực tiễn giải
quyết tranh chấp từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
VI. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa
Mác – Lênin cùng những thành tựu của khoa học pháp lý. Tác giả đã vận
dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các
phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, giải thích, so sánh, tổng kết thực
tiễn để lý giải những vấn đề đặt ra.
VII. Những đóng góp và ý nghĩa khoa học, thực tiễn của đề tài
+ Luận văn đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về thừa kế và
việc chuyển giao nghĩa vụ
+ Phân tích và làm rõ tính kế thừa của pháp luật qua các giai đoạn

6
+ Phân tích để làm rõ những quy định của luật hiện hành cùng với việc
nêu thực tiễn giải quyết các tranh chấp và những vướng mắc từ đó đưa ra các
kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
+ Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu,
giảng dạy cũng như những người hoạt động thực tiễn.
VIII. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Luận văn được bố cục làm ba chương
như sau:
Chương 1: Lý luận chung về thừa kế và việc thực hiện nghĩa vụ tài sản
của người chết để lại

Chương 2: Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy
định của Bộ luật Dân sự
Chương 3: Thực trạng giải quyết tranh chấp, những vướng mắc trong
thực tiễn và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật



Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỪA KẾ VÀ VIỆC
THỰC HIỆN NGHĨA VỤ TÀI SẢN DO NGƢỜI CHẾT ĐỂ LẠI

1.1. THỪA KẾ VÀ QUAN HỆ PHÁP LUẬT THỪA KẾ
1.1.1. Khái niệm thừa kế
Thừa kế theo nghĩa chung nhất là “hưởng của người chết để lại cho”
[32, tr. 972]. Ở đây, chúng ta quan tâm đến khía cạnh thừa kế về tài sản.

7
Trong mối quan hệ giữa con người với con người về tài sản, ngay từ
thời kỳ sơ khai chúng ta đã phải đứng trước vấn đề: khi một cá nhân chết đi
thì tài sản của họ để lại sẽ được xử lý như thế nào. Vấn đề này cũng song
hành cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Tuỳ thuộc vào từng thời kỳ
lịch sử, từng hình thái xã hội với những chế độ sở hữu khác nhau mà chúng ta
nhận được những câu trả lời khác nhau cho vấn đề này.
Ở thời kỳ đầu của chế độ cộng sản nguyên thuỷ, chế độ thị tộc, bộ lạc
đã hình thành và tài sản có được thuộc về quyền chung của thị tộc, bộ lạc.
Thời kỳ này, thừa kế đã manh nha hình thành và được giải quyết theo tập tục.
Trong điều kiện kinh tế, xã hội và hôn nhân phụ thuộc vào địa vị chủ đạo của
người phụ nữ trong thị tộc, nên việc thừa kế nhằm di chuyển tài sản của người
đã chết cho những người còn sống tiến hành dựa trên quan hệ huyết thống và
các phong tục tập quán của thị tộc. Ph.Ăngghen đã nhận xét: “Theo chế độ

mẫu quyền, nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về bên mẹ và theo tập tục
thừa kế nguyên thuỷ trong thị tộc mới được thừa kế những người trong thị tộc
chết. Tài sản để lại trong thị tộc, nay trong thực tiễn có lẽ người ta vẫn trao
cho những người cùng huyết tộc với người mẹ” [13, tr.79].
Sự kế thừa tài sản trong thị tộc, bộ lạc theo chế độ mẫu hệ đã đặt nền
móng ban đầu cho sự hình thành và phản ánh tính tất yếu của việc thừa kế tài
sản theo huyết thống. Hiện nay, ở một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam và một
số dân tộc trên thế giới vẫn duy trì việc thừa kế tài sản theo huyết thống của
người mẹ.
Theo tiến trình phát triển của xã hội, cùng với những sự phân công lao
động trong xã hội và gia đình, người đàn ông đã tạo ra nhiều của cải nuôi
sống các thành viên trong thị tộc, bộ lạc đã làm thay đổi quan hệ xã hội. Sự
thiết lập địa vị của người đàn ông trong gia đình và trong từng thị tộc, bộ lạc
đã là căn cứ sắp xếp lại trật tự của thị tộc, bộ lạc. Khi người đàn ông đã chiếm
vị trí chủ đạo trong đời sống xã hội thì chế độ mẫu hệ đã bị thay thế bằng chế
độ phụ hệ. Cũng từ căn cứ đó, các con trong gia đình có quan hệ huyết thống

8
với người cha, mang họ của cha theo chế độ phụ hệ và thừa kế tài sản của
người cha được xác lập. Như vậy, tương ứng với từng giai đoạn lịch sử phát
triển nhất định là sự phát triển của lực lượng sản xuất, của hình thức gia
đình , của sự thay đổi quan hệ sở hữu và theo đó việc thừa kế tài sản cũng
thay đổi.
Tóm lại, trong thời kỳ đầu của xã hội loài người - thời kỳ Nhà nước
chưa xuất hiện và pháp luật chưa ra đời thì sở hữu và thừa kế tài sản đã xuất
hiện như một tất yếu khách quan và nó thuộc về phạm trù kinh tế. Mối quan
hệ giữa sở hữu và thừa kế phát sinh trong xã hội và được thể hiện ở chỗ: Nếu
sở hữu là yếu tố tiền đề để thừa kế phát sinh thì ngược lại, thừa kế lại là
phương tiện để duy trì, củng cố và phát triển sở hữu tài sản. Thừa kế là một
thực tế xã hội được thể hiện ở sự chuyển dịch tài sản của người chết cho

người còn sống, nó gắn chặt với lợi ích của cá nhân, gia đình, cộng đồng dòng
họ , vì thế trong bất kỳ chế độ xã hội nào cũng có sự tác động của quy tắc xã
hội. Quy tắc đó được biểu hiện ở những yếu tố như phong tục, tập quán và
cao hơn nữa là quy phạm pháp luật.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của cải xã hội ngày càng
được làm ra nhiều hơn, không những đảm bảo cho sinh hoạt và đời sống của
cộng đồng thị tộc, bộ lạc mà còn dư thừa, đời sống trong mỗi gia đình và xã
hội đã có nhiều thay đổi và theo đó trong mỗi thị tộc, bộ lạc người có địa vị
đã lợi dụng chức phận để chiếm đoạt một phần sản phẩm của thị tộc cùng với
sự nắm quyền điều hành thị tộc, bộ lạc. Những người nắm quyền đó đã trở
thành những người giàu có trong xã hội và xã hội nguyên thuỷ đã bắt đầu tan
rã, nhường chỗ cho xã hội mới – xã hội có giai cấp đã xuất hiện. Sự phân hoá
này về cơ bản dựa theo mức độ, giá trị tài sản, tư liệu sản xuất mà các tầng
lớp người trong xã hội chiếm hữu được khác nhau, từ đó hình thành nên chế
độ tư hữu về tài sản mà chủ yếu đối với tư liệu sản xuất. Hình thức thừa kế
phù hợp với chế độ tư hữu tài sản được hình thành, nó xuất hiện như một tất

9
yếu, đánh dấu bước ngoặt mới trong quan hệ tài sản và quan hệ thừa kế tài
sản.
Khi giai cấp xuất hiện thì có giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, đương
nhiên đối kháng giai cấp là điều không tránh khỏi. Những trật tự trong quan
hệ sở hữu tài sản nói chung và trong quan hệ thừa kế nói riêng được Nhà
nước của chế độ tư hữu thiết lập trong giai đoạn này nhằm bảo vệ lợi ích của
giai cấp thống trị. Thông qua những quy phạm pháp luật, Nhà nước điều
chỉnh quan hệ thừa kế trong việc xác định phạm vi chủ thể, nội dung, hình
thức, điều kiện chuyển dịch tài sản thừa kế và những vấn đề khác có liên quan
đến việc thừa kế tài sản.
Cùng với sự hình thành, phát triển nhà nước và pháp luật của chế độ tư
hữu thì sở hữu và thừa kế đều là những phạm trù pháp luật và giữa chúng có

mối quan hệ mật thiết với nhau. Chế độ tư hữu tài sản là tiền đề của chế định
thừa kế, ngược lại, chế định thừa kế là cơ sở để củng cố chế độ tư hữu tài sản.
Như vậy, giữa chúng có mối liên hệ ràng buộc theo những chuẩn mực pháp
luật nhất định và mang bản chất giai cấp sâu sắc. Tất nhiên, sự thể hiên tính
giai cấp trong mỗi lĩnh vực pháp luật khác nhau là khác nhau. Thậm chí, trong
mỗi chế định, sự thể hiện tính giai cấp cũng có sự đậm, nhạt khác nhau. Đối
với chế định thừa kế, sự thể hiện tính lịch sử, tính truyền thống có phần đậm
nét hơn.
Thừa kế là phạm trù pháp luật có tính khả biến. Tính khả biến được thể
hiện qua các quy phạm pháp luật mà các quy phạm này không những phụ
thuộc vào mức độ phát triển trong một chế độ xã hội nhất định, nghĩa là cũng
có quy định khác nhau trong việc điều chỉnh mối quan hệ về thừa kế. Thừa kế
khi đó không những là phạm trù kinh tế, phạm trù pháp luật mà còn mang tính
lịch sử, bởi vì nó thể hiện rõ nét quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các
chế độ xã hội khác nhau và của một chế độ xã hội theo từng giai đoạn phát
triển nhất định.

10
Từ sự phân tích nêu trên có thể rút ra một số kết luận:
- Thừa kế là một phạm trù xuất hiện cùng với sự xuất hiện của quan hệ
sở hữu từ buổi sơ khai của loài người và nó phản ánh quan hệ kinh tế - xã hội
nói chung và lịch sử phát triển kinh tế - xã hội nói riêng.
- Thừa kế với tư cách một phạm trù pháp luật cũng phản ánh tính giai
cấp đồng thời so với các chế định khác của dân luật thì thừa kế phản ánh rõ
nét hơn văn hoá truyền thống.


1.1.2. Quan hệ pháp luật thừa kế
1.1.2.1. Khái niệm
Từ khi giai cấp xuất hiện, Nhà nước ra đời, để bảo vệ lợi ích của giai

cấp thống trị, các quan hệ xã hội nói chung, trong đó có thừa kế đã được Nhà
nước điều chỉnh bằng một loại quy phạm mới đó là quy phạm pháp luật.
Trong lý luận pháp lý hiện đại, khi các quan hệ xã hội được điều chỉnh
bằng pháp luật thì những quan hệ đó không chỉ đơn thuần mang tính kinh tế -
xã hội hay lịch sử mà nó còn mang tính pháp lý và khi đó những quan hệ này
được gọi là những quan hệ pháp luật.
Các nhà khoa học pháp lý đã định nghĩa: “Quan hệ pháp luật là hình
thức pháp lý của các quan hệ xã hội xuất hiện dưới tác động điều chỉnh của
các quy phạm pháp luật” [20, tr. 390].
Các quan hệ pháp luật được cấu thành bởi ba yếu tố: 1) Chủ thể; 2)
Khách thể; 3) Quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý; và phát sinh, thay đổi,
chấm dứt căn cứ trên các sự kiện pháp lý.
Trên cách thức tiếp cận truyền thống của khoa học pháp lý về quan hệ
pháp luật, chúng ta cùng làm sáng tỏ những khía cạnh lý luận của khái niệm
“quan hệ pháp luật thừa kế”.

11
Việc dịch chuyển tài sản của cá nhân người đã chết cho những người
còn sống luôn tồn tại quan hệ giữa người với người. Khi mối quan hệ giữa
người với người trên cơ sở tài sản của người chết để lại được Nhà nước điều
chỉnh bằng pháp luật thì chúng trở thành quan hệ pháp luật thừa kế - một loại
quan hệ pháp luật dân sự. Quan hệ pháp luật dân sự được xác định là nhóm
các quan hệ xã hội do pháp luật dân sự điều chỉnh. Các quan hệ pháp luật dân
sự rất phong phú, đa dạng về chủ thể, khách thể, nội dung, cách thức phát
sinh Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau mà chúng ta có thể phân loại quan
hệ pháp luật dân sự thành quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân; quan hệ dân
sự tương đối và và quan hệ dân sự tuyệt đối Căn cứ vào nhóm các quan hệ
dân sự có tính chất cùng loại và liên hệ mật thiết với nhau ta có thể có quan hệ
pháp luật sở hữu, quan hệ pháp luật nghĩa vụ, quan hệ pháp luật thừa kế…
Từ đây, theo cách phân loại như trên, có thể đưa ra một khái niệm

chung nhất về quan hệ pháp luật thừa kế: Quan hệ pháp luật thừa kế là nhóm
các quan hệ xã hội do pháp luật thừa kế điều chỉnh.
Sự điều chỉnh của pháp luật đối với quan hệ thừa kế ở nước ta có
những diễn biến, thay đổi phức tạp vì chính quá trình hình thành và phát triển
pháp luật dân sự phụ thuộc vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội qua từng
thời kỳ. Chính sự phát triển phức tạp này mà hiện nay, trong một số bài viết,
luận văn hoặc các công trình nghiên cứu về pháp luật thừa kế ở nước ta, một
số tác giả đưa ra những cách hiểu khác nhau về quan hệ pháp luật thừa kế.
Loại quan điểm thứ nhất cho rằng, “quan hệ thừa kế là mối liên hệ giữa
người để lại di sản và người nhận di sản” [21, tr. 9-11]. Cách hiểu như vậy là
có sự nhầm lẫn khi xác định chủ thể của quan hệ thừa kế. Quan hệ pháp luật
thừa kế chỉ phát sinh từ thời điểm người để lại di sản chết hoặc được xác định
là đã chết theo một bản án của Toà án tuyên bố một người là đã chết có hiệu
lực pháp luật (thời điểm mở thừa kế). Và đương nhiên khi đã chết hay Toà án
tuyên bố là đã chết thì về lý luận cũng như pháp lý cá nhân đó chấm dứt tư
cách chủ thể. Từ thời điểm đó, cá nhân này không có ý nghĩa gì với quan hệ

12
thừa kế, có chăng chỉ là ý chí của họ đã thể hiện khi còn sống nếu họ có để lại
di chúc. Quan hệ pháp luật thừa kế lúc này phát sinh giữa những chủ thể còn
sống trong việc chuyển giao tài sản của người đã chết và xử lý những vấn đề
có liên quan.
Loại quan điểm thứ hai cho rằng, “thừa kế là một loại quan hệ sở hữu”

[33, tr. 7]. Cách quan niệm này về quan hệ pháp luật thừa kế cũng không
chính xác. Trong quan niệm này có sự nhầm lẫn về sự kiện phát sinh và nội
dung của quan hệ thừa kế. Như trên đã trình bày, quan hệ pháp luật thừa kế
chỉ phát sinh từ thời điểm người để lại di sản chết hoặc được xác định là đã
chết theo một bản án của Toà án tuyên bố một người là đã chết có hiệu lực
pháp luật (thời điểm mở thừa kế). Quyền của người có tài sản để lại (kể cả

trong trường hợp có di chúc) và quyền của người thừa kế (nhận hay không
nhận di sản) chỉ có giá trị pháp lý từ thời điểm mở thừa kế. Mặt khác xét về
nội dung của quan hệ thì, nội dung của quan hệ sở hữu đó là những quyền
năng của chủ thể đối với tài sản thuộc quyền sở hữu còn nội dung của quan hệ
thừa kế đó là những quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quá trình chuyển
giao tài sản của người đã chết cho những người còn sống (có thể chuyển giao
bằng di chúc hoặc theo sự phân định của pháp luật). Đặc biệt, trong quá trình
chuyển giao tài sản, có thể phát sinh nhiều quan hệ có liên quan như thực hiện
nghĩa vụ của người chết, thanh toán các chi phí liên quan - một nội dung
không hề liên quan đến quan hệ sở hữu. Dưới góc độ này, quyền nhận di sản
là một trong những căn cứ phát sinh quyền sở hữu tài sản. Như vậy, thừa kế
không phải là một loại quan hệ sở hữu mà nó chỉ là một loại quan hệ pháp
luật dân sự độc lập với quan hệ sở hữu tài sản.
Loại quan điểm thứ ba cho rằng, thừa kế không không phải là quan hệ
pháp luật mà chỉ là sự kiện dịch chuyển tài sản từ người đã chết sang người
còn sống [42, tr. 45]. Theo chúng tôi, cách quan niệm này cũng không chính
xác, bởi lẽ, đối tượng điều chỉnh của pháp luật nói chung là những quan hệ xã
hội hoặc suy cho cùng là hành vi của những cá nhân, tổ chức. Nhưng hành vi

13
của mỗi cá nhân, tổ chức không phải là hành vi độc lập tuyệt đối, những hành
vi này luôn liên hệ, ảnh hưởng với hành vi của những chủ thể khác và tạo
thành các quan hệ xã hội. Trong việc dịch chuyển tài sản của người chết cho
những người còn sống thì sự dịch chuyển này không phải là sự dịch chuyển tự
động, mà nó được thực hiện thông qua những hành vi cụ thể của những chủ
thể (người thừa kế, người quản lý di sản, người được di tặng ). Những hành
vi của các chủ thể này phải có sự liên hệ với nhau (như việc thu hồi, quản lý
di sản, thanh toán và phân chia di sản) để thực hiện mục đích cơ bản đó là
dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống theo đúng ý chí
của người chết (trường hợp chia thừa kế theo di chúc) hoặc theo đúng quy

định của pháp luật (nếu thừa kế theo pháp luật). Những mối liên hệ này được
điều chỉnh bởi chế định thừa kế nên chúng chính là quan hệ pháp luật thừa kế.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra một định nghĩa như sau về quan
hệ pháp luật thừa kế:
Quan hệ pháp luật thừa kế là nhóm quan hệ xã hội phát sinh trên cơ sở
chuyển giao tài sản của người chết để lại giữa những người thừa kế và những
chủ thể có quyền, nghĩa vụ liên quan do pháp luật thừa kế (hay rộng hơn là
pháp luật dân sự) điều chỉnh.
1.1.2.2. Các yếu tố cấu thành
Cũng như các quan hệ pháp luật khác, quan hệ pháp luật thừa kế cũng
được cấu thành bởi các yếu tố: Chủ thể; Quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý
(nội dung); Khách thể.
* Chủ thể
Chủ thể của quan hệ pháp luật nói chung đó là những cá nhân, tổ chức
Các chủ thể này, khi tham gia vào quan hệ pháp luật phải có tư cách chủ thể.
Đó là năng lực chủ thể, được tạo thành bởi năng lực pháp luật và năng lực
hành vi. Trong quan hệ pháp luật thừa kế, có thể có những chủ thể phổ biến
sau tham gia:

14
- Ngƣời thừa kế
Người thừa kế là chủ thể cơ bản, quan trọng nhất trong quan hệ pháp
luật thừa kế. Người thừa kế là người được hưởng di sản thừa kế theo di chúc
hoặc theo pháp luật.
Người thừa kế là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
Người thừa kế là cá nhân có thể được hưởng thừa kế với hai hình thức là thừa
kế theo pháp luật hoặc thừa kế theo di chúc. Nếu hưởng thừa kế theo hình
thức thừa kế theo pháp luật thì cá nhân đó phải nằm trong diện và hàng thừa
kế, có nghĩa là cá nhân đó phải có quan hệ về huyết thống, nuôi dưỡng hoặc
quan hệ về hôn nhân đối với người để lại di sản thừa kế.

Về nguyên tắc chung, năng lực pháp luật của chủ thể xuất hiện từ thời
điểm người đó sinh ra, còn năng lực hành vi xuất hiện dần vì nó phụ thuộc
vào từng lĩnh vực và tuỳ thuộc vào sự phát triển tâm, sinh lý. Tuy nhiên, trong
lĩnh vực thừa kế có một trường hợp tương đối đặc biệt đó là việc hưởng thừa
kế của người đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Điều 635 Bộ
luật dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2005 (BLDS năm 2005) quy định: “Người
thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc
sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi
người để lại di sản chết ”. Từ quy định này mà có quan điểm cho rằng thai
nhi chính là một chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật thừa kế. Cách hiểu
như vậy là không chính xác. Phân tích kỹ bản chất của trường hợp hưởng thừa
kế này thấy rằng, để được hưởng thừa kế thì phải hội đủ hai điều kiện sau:
+ Phải thành thai trước khi người để lại di sản chết;
+ Sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế.
Nếu người chưa thành thai vào thời điểm mở thừa kế hoặc thành thai
trước thời điểm mở thừa kế nhưng thai bị sảy hoặc sinh ra mà chết ngay thì
cũng không được hưởng thừa kế. Đối với trường hợp thừa kế theo pháp luật
thì phải có quan hệ huyết thống với người để lại di sản, do đó, một người đã

15
thành thai trước thời điểm mở thừa kế thì mặc nhiên người này được coi là
con hoặc cháu của người đã chết. Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 quy định: “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai
trong thời kỳ đó là con chung của vợ, chồng ”. Muốn xác định người con
sinh ra sau khi bố chết đã thành thai vào thời điểm mở thừa kế hay chưa, các
nhà làm luật dùng phương pháp “suy đoán pháp lý”. Cụ thể, thai nhi tồn tại
tối đa là 300 ngày kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu trong khoảng thời gian này
thai nhi được sinh ra thì mặc nhiên được coi là đã thành thai trước thời điểm
mở thừa kế và sẽ được thừa kế di sản của người chết theo di chúc hoặc theo
pháp luật. Người có tài sản có thể lập di chúc cho một người đang là thai nhi

hưởng di sản. Trường hợp này đứa trẻ có thể được sinh ra trước hoặc sinh ra
sau thời điểm mở thừa kế. Nếu đứa trẻ sinh ra trước thời điểm mở thừa kế và
di chúc không bị thay đổi, bị huỷ thì sau khi mở thừa kế của người lập di
chúc, đứa trẻ đó được hưởng thừa kế theo di chúc. Ngược lại, nếu đứa trẻ sinh
ra sau thời điểm mở thừa kế thì phải trong vòng 300 ngày kể từ thời điểm mở
thừa kế mới được hưởng di sản.
Tóm lại, nếu coi thai nhi là chủ thể của quan hệ pháp luật, hay nói cách
khác, thai nhi có năng lực pháp luật thừa kế thì khi thành thai trước thời điểm
mở thừa kế thì đương nhiên phải được hưởng thừa kế. Nếu sau này thai nhi
không được sinh ra hoặc sinh ra lại chết ngay thì tài sản đó lại được xử lý theo
quan hệ pháp luật thừa kế mới. Tuy nhiên, như trên đã phân tích, để được
hưởng thừa kế phải hội đủ hai điều kiện. Trường hợp này chỉ được coi như là
sự bảo lưu quyền hưởng di sản của thai nhi có điều kiện. Sở dĩ có sự bảo lưu
như vậy là do truyền thống đạo đức tốt đẹp của Việt Nam và thể hiện tính
nhân văn của pháp luật nước ta.
Người thừa kế là tổ chức cũng phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa
kế. Tổ chức bao gồm các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp Đối với tổ chức chỉ có thể

16
được hưởng thừa kế theo hình thức thừa kế theo di chúc hoặc trường hợp
không có người thừa kế.
- Các chủ thể có quyền, nghĩa vụ liên quan khác
Trong quá trình chuyển giao tài sản có thể xuất hiện những chủ thể sau:
Người quản lý di sản, người nhận di tặng, chủ nợ của người để lại tài sản,
người quản lý tài sản dùng vào việc thờ cúng
Việc xuất hiện những chủ thể này không mang tính chất đương nhiên,
mà tuỳ vào từng trường hợp cụ thể hay do sự thoả thuận của các đồng thừa kế
mà có thể có hay không sự xuất hiện của các chủ thể này. Tuy nhiên, khi xuất
hiện, những nhóm quan hệ này luôn gắn chặt với vấn đề xử lý tài sản của

người chết do vậy chúng được điều chỉnh chung trong chế định thừa kế. Sự
xuất hiện này sẽ làm cho quan hệ pháp luật thừa kế trở lên phong phú và đa
dạng.
Trong quan hệ pháp luật thừa kế, những chủ thể này cũng có những
quyền và nghĩa vụ nhất định và nó phát sinh từ thời điểm mở thừa kế.
* Khách thể của quan hệ pháp luật thừa kế
Theo nghĩa chung nhất, khách thể quan hệ pháp luật là cái mà quan hệ
pháp luật đó tác động tới. Các cá nhân, tổ chức tham gia vào những quan hệ
pháp luật nhằm thoả mãn những nhu cầu về kinh tế, chính trị, tinh thần của
mình. Sự thoả mãn đó đạt được thông qua những hành vi hướng tới các đối
tượng vật chất, tinh thần Trong quan hệ pháp luật thừa kế, vấn đề trung tâm
đó là việc giải quyết di sản và những nghĩa vụ mà người chết để lại. Do vậy,
mỗi chủ thể bằng hành vi của mình, hướng tới việc giải quyết hai vấn đề trên.
Những người thừa kế bằng hành vi của mình sẽ thực hiện quyền được hưởng
di sản, đối tượng mà hành vi của những chủ thể này hướng tới là di sản mà
người chết để lại.
* Quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý

17
Khi một người có tài sản chết, quan hệ pháp luật thừa kế phát sinh, từ
đó các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thừa kế có những quyền và nghĩa
vụ nhất định. Tổng hoà các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể chính là nội
dung của quan hệ pháp luật thừa kế. Tùy thuộc vào từng loại chủ thể mà có
những quyền, nghĩa vụ tương ứng khác nhau. Trong quan hệ pháp luật thừa
kế thì quyền năng quan trọng nhất đó là quyền được hưởng di sản thừa kế và
quyền từ chối nhận di sản thừa kế. Để đảm bảo quyền này, pháp luật đã quy
định cho những chủ thể của quan hệ pháp luật hàng loạt những quyền năng
khác như quyền cử người quản lý di sản, quyền thu hồi những tài sản thuộc sở
hữu hợp pháp của người chết, quyền khởi kiện yêu cầu Toà án bảo vệ quyền
thừa kế Bên cạnh những quyền năng này thì chủ thể của quan hệ thừa kế

cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định. Một trong những nghĩa vụ đó
là nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại. Khi tiếp nhận di
sản thừa kế thì đồng nghĩa với việc những người hưởng di sản phải có trách
nhiệm thực hiện những nghĩa vụ tài sản của người chết để lại.
Tóm lại, để việc dịch chuyển tài sản của người chết cho những người
còn sống được thực hiện đúng theo ý chí của người để lại di sản và đúng theo
quy định của pháp luật thì pháp luật đã quy định một trình tự chuyển giao khá
chặt chẽ gắn với những quyền và nghĩa vụ của mỗi chủ thể.
* Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật thừa kế
Sự kiện pháp lý là những điều kiện, hoàn cảnh, tình huống của đời sống
thực tế được chỉ ra trong phần giả định của quy phạm pháp luật mà nhà làm
luật gắn sự xuất hiện, thay đổi và chấm dứt của quan hệ pháp luật với sự tồn
tại của nó [20, tr. 406, 407].
Với ý nghĩa như trên, sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật
thừa kế chính là sự kiện chết của một cá nhân kèm một khối tài sản nhất định.
Một cá nhân chết đi có thể làm chấm dứt một số quan hệ pháp luật nhưng
đồng thời cũng là căn cứ làm phát sinh một quan hệ mới, đó làm quan hệ giữa

18
các chủ thể trong việc phân chia khối di sản cũng như việc thanh toán những
nghĩa vụ mà người đó để lại. Quan hệ này được gọi là quan hệ pháp luật thừa
kế.
1.2. THỰC HIỆN NGHĨA VỤ TÀI SẢN DO NGƢỜI CHẾT ĐỂ LẠI
1.2.1. Khái niệm nghĩa vụ và nghĩa vụ tài sản
Theo nghĩa rộng, nghĩa vụ được hiểu là: “Sự xử sự mà một người phải
thực hiện vì một hoặc nhiều người khác, nhưng sự thực hiện đó không được
đặt dưới sự bảo đảm của Nhà nước bằng pháp luật. Pháp luật không buộc
người đó phải thực hiện, họ thực hiện nghĩa vụ hoàn toàn theo lương tâm của
mình để làm tròn bổn phận làm người” [18, tr. 3].
Theo nghĩa hẹp, nghĩa vụ được hiểu là một việc làm cụ thể của người

có nghĩa vụ, như nghĩa vụ trả tiền, nghĩa vụ giao vật Trong giao dịch dân
sự, nghĩa vụ dân sự được dùng theo nghĩa này rất phổ biến.
Tại Điều 280 BLDS 2005 quy định: “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo
đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải
chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện
công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của
một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)”.
Theo quy định này chúng ta thấy mỗi loại nghĩa vụ có những đối tượng
riêng. Đối tượng của nghĩa vụ là cơ sở quan trọng để phân loại nghĩa vụ. Đa
số luật pháp các nước trên thế giới đều phân chia đối tượng của nghĩa vụ ra
làm ba loại và tương ứng với nó là ba nhóm nghĩa vụ cơ bản:
- Đối tượng là tài sản - gắn liền với nghĩa vụ chuyển giao tài sản
- Đối tượng là công việc - gắn liền với nghĩa vụ phải thực hiện một
công việc nhất định.
- Đối tượng là công việc không được làm - gắn liền với nghĩa vụ không
được thực hiện một công việc nhất định.

19
Tương tự pháp luật của các nước, tại khoản 1 Điều 282 BLDS 2005 của
Việt Nam cũng quy định đối tượng của nghĩa vụ gồm ba loại sau:
- Đối tượng của nghĩa vụ là một tài sản: Tài sản là đối tượng phổ biến
nhất của nghĩa vụ dân sự. Tài sản ở đây theo quy định tại Điều 163 BLDS
2005 bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
- Đối tượng của nghĩa vụ là công việc phải làm: Công việc phải làm
được xem là đối tượng của nghĩa vụ nếu từ một công việc được nhiều người
xác lập với nhau một quan hệ nghĩa vụ, mà theo đó, người có nghĩa vụ phải
thực hiện công việc theo đúng nội dung đã được xác định.
- Đối tượng của nghĩa vụ dân sự là công việc không được làm: Công
việc không được làm được xem là đối tượng của nghĩa vụ trong những trường
hợp các bên từ công việc đã xác lập với nhau một quan hệ nghĩa vụ mà theo

đó, người có nghĩa vụ phải kiềm chế không thực hiện công việc theo những
nội dung mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật quy định.
Để hiểu rõ hơn bản chất pháp lý của nghĩa vụ dân sự, chúng ta cần thiết
phải làm rõ mối liên hệ, cũng như sự khác biệt giữa “nghĩa vụ dân sự” và
“trách nhiệm dân sự”. Về phương diện lý luận và trên thực tế chế định “nghĩa
vụ dân sự” có mối liên hệ chặt chẽ với chế định “trách nhiệm dân sự”, nhưng
hai chế định này có nội dung, tính chất, đặc điểm hoàn toàn khác nhau.
Trách nhiệm dân sự hiểu theo nghĩa thông thường: “là việc bắt buộc
phải sửa chữa một thiệt hại do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ dân sự” [25, tr. 70, 71]. Như vậy, trách nhiệm dân sự là hệ quả tất
yếu của việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự.
Trong trường hợp này, trách nhiệm dân sự chỉ đặt ra khi đã có một nghĩa vụ
dân sự được xác lập. Sự khác biệt giữa nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân sự
thể hiện cụ thể ở hai điểm sau:
- Về thời gian: Thông thường nghĩa vụ dân sự là mối quan hệ được xác
lập trước, trách nhiệm dân sự là hậu quả pháp lý của việc không thực hiện

20
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với
người có quyền.
- Về mặt tính chất: Trách nhiệm dân sự là một dạng cụ thể của trách
nhiệm pháp lý, có đầy đủ các đặc điểm chung nhất của trách nhiệm pháp lý:
+ Là một trong những hình thức cưỡng chế nhà nước
+ Áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật
+ Được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi
pháp luật cho phép.
+ Sử dụng một số biện pháp chế tài nhất định do pháp luật quy định, để
buộc người vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi.
Với các đặc điểm trên, mục đích cơ bản của trách nhiệm dân sự là khôi
phục tình trạng ban đầu của một quyền dân sự bị vi phạm, bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội, công dân. Trái lại, về mặt tính chất, nghĩa
vụ dân sự là một quan hệ pháp luật dân sự, trong đó quyền và nghĩa vụ của
hai bên chủ thể tương ứng với nhau. Nghĩa là, trong quan hệ nghĩa vụ, quyền
của chủ thể này sẽ là nghĩa vụ của chủ thể kia, và việc thực hiện nghĩa vụ của
chủ thể có nghĩa vụ bao giờ cũng hướng tới việc thoả mãn những lợi ích nhất
định của chủ thể có quyền. So với trách nhiệm dân sự, tính chất cưỡng chế
trong các quan hệ nghĩa vụ có đặc thù riêng. Về nguyên tắc, các bên chủ thể
có thể thoả thuận cả những biện pháp cưỡng chế và sẽ được các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng nếu một bên trong quan hệ nghĩa vụ đã không
thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ mà họ đã tự nguyện cam kết.
Qua sự phân tích như trên có thể thấy “nghĩa vụ dân sự” và “trách
nhiệm dân sự” là những khái niệm pháp lý khác nhau. Vấn đề đặt ra, “nghĩa
vụ tài sản” theo quy định tại Điều 637 BLDS 2005 là nghĩa vụ dân sự hay
trách nhiệm dân sự hay bao gồm cả nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân sự.
Làm sáng tỏ được vấn đề này sẽ có ý nghĩa pháp lý rất lớn trong việc xác định
những loại nghĩa vụ nào được những chủ thể trong quan hệ thừa kế tiếp tục

21
thực hiện và những nghĩa vụ nào sẽ được chấm dứt khi người để lại di sản
chết. Trong toàn bộ chương về thừa kế của BLDS 2005, không có điều luật
riêng nào định nghĩa hoặc liệt kê những nghĩa vụ tài sản mà chủ thể của quan
hệ thừa kế phải tiếp tục thực hiện thay cho chủ tài sản. Tuy nhiên, căn cứ vào
những quy định về nghĩa vụ dân sự, trách nhiệm dân sự; căn cứ phát sinh và
chấm dứt nghĩa vụ dân sự và quy định tại Điều 683 BLDS 2005 về thứ tự ưu
tiên thanh toán có thể đưa ra những nhận xét bước đầu về cách hiểu nghĩa vụ
tài sản theo quy định tại Điều 637 BLDS 2005 như sau:
Thứ nhất: Trước hết có thể khẳng định, nghĩa vụ tài sản quy định tại
Điều 637 BLDS 2005 dù được hiểu theo nghĩa nào thì cũng phải là một loại
nghĩa vụ gắn với tài sản và có thể chuyển giao, đó là loại nghĩa vụ chuyển
giao một tài sản nào đó cho chủ thể có quyền. Bởi lẽ, một trong những căn cứ

chấm dứt nghĩa vụ được quy định tại khoản 8 Điều 374 BLDS 2005 là: bên có
nghĩa vụ là cá nhân chết mà nghĩa vụ phải do chính cá nhân đó thực hiện.
Điểm này được quy định cụ thể tại Điều 384 BLDS 2005 như sau: “Khi các
bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định về việc nghĩa vụ phải do chính
bên có nghĩa vụ thực hiện mà cá nhân chết hoặc pháp nhân, chủ thể khác
chấm dứt thì nghĩa vụ cũng chấm dứt”. Theo quy định như trên, những loại
nghĩa vụ này là những nghĩa vụ gắn với nhân thân hoặc những giá trị tinh thần
của chủ thể nghĩa vụ. Ví dụ như: nghĩa vụ cấp dưỡng, hoặc nghĩa vụ làm việc
theo thoả thuận trong hợp đồng lao động. Tương tự như vậy, những quyền
gắn với nhân thân của chủ thể có quyền cũng chấm dứt khi chủ thể có quyền
là cá nhân chết. Có nghĩa là, người có nghĩa vụ không phải thực hiện nghĩa vụ
nên nghĩa vụ cũng sẽ không được chuyển giao.
Thứ hai: Nghĩa vụ tài sản quy định tại Điều 637 BLDS 2005 không
phải là khái niệm tương đồng hoàn toàn với khái niệm nghĩa vụ dân sự hay
trách nhiệm dân sự được quy định tại Mục 1 và Mục 3 Chương XVII BLDS
2005. Điều này có thể dễ dàng nhận ra khi xem xét Điều 683 BLDS 2005. Tại
điều luật này quy định:

22
“Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được
thanh toán theo thứ tự sau đây:
1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng;
2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu;
3. Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ;
4. Tiền công lao động;
5. Tiền bồi thường thiệt hại;
6. Thuế và các khoản nợ khác đối với Nhà nước;
7. Tiền phạt;
8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác;
9. Chi phí cho việc bảo quản di sản;

10. Các chi phí khác”
Mặc dù điều luật này quy định về thứ tự thanh toán, nhưng nó cũng cho
phép ta suy đoán logic những nghĩa vụ tài sản mà những chủ thể quan hệ thừa
kế phải thực hiện. Trong danh mục những nghĩa vụ tài sản này bao gồm cả
nghĩa vụ nộp thuế và nộp tiền phạt. Đây là những nghĩa vụ hành chính và
trách nhiệm hành chính chứ không phải nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm dân
sự.
1.2.2. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do ngƣời chết để lại - Một sự
chuyển giao nghĩa vụ đặc biệt
Xuất phát từ nguyên tắc “tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận” của dân
luật nên nghĩa vụ do các bên tự do, tự nguyện xác lập thì nghĩa vụ cũng có thể
do các bên tự do, tự nguyện thay đổi về nội, cũng như chủ thể thực hiện nghĩa
vụ trên cơ sở của pháp luật. Thông thường, trong một quan hệ nghĩa vụ, các
bên là người trực tiếp thực hiện nghĩa vụ và và trực tiếp thực hiện quyền dân
sự theo nội dung của quan hệ ấy trong suốt quá trình kể từ khi quan hệ nghĩa

23
vụ được xác lập cho đến khi chấm dứt hoàn toàn. Tuy nhiên, để tiện lợi trong
việc thi hành nghĩa vụ, các bên có thể thoả thuận chuyển giao nghĩa vụ cho
người thứ ba. Bởi lẽ, suy cho cùng, trong quan hệ nghĩa vụ (đặc biệt quan hệ
nghĩa vụ tài sản) thì vấn đề nhân thân hoặc những giá trị tinh thần của chủ thể
nghĩa vụ không phải là yếu tố quan tâm hàng đầu của chủ thể mang quyền.
Chủ thể mang quyền quan tâm nhiều đến khả năng thực hiện nghĩa vụ của chủ
thể mang nghĩa vụ. Do đó, nếu nghĩa vụ được chuyển giao cho chủ thể có khả
năng thực hiện và tạo thuận lợi cho các bên thì việc chuyển giao đó sẽ rất có ý
nghĩa. Chúng ta có thể hình dung điều này qua ví dụ sau:
A nợ B 500 triệu
A bán cho C ngôi nhà trị giá 1 tỷ, C đã trả cho A 500 triệu và còn nợ A
500 triệu.
Nếu giữa A – B – C cùng thoả thuận A chuyển nghĩa vụ cho C thì A sẽ

được giải phóng nghĩa vụ trước B; và C được giải phóng nghĩa vụ trước A.
Khi đó chỉ tồn tại quan hệ nghĩa vụ giữa C và B.
Có lẽ, xuất phát từ cơ sở lý luận và ý nghĩa thực tiễn như nêu trên mà
pháp luật của các nước trên thế giới đều có quy định về việc chuyển giao
nghĩa vụ. Như pháp luật của Cộng hoà Pháp có quy định vấn đề này từ Điều
1771 đến Điều 1274.
Ở Việt Nam, vấn đề chuyển giao nghĩa vụ cũng được quy định khá rõ
ràng từ Điều 315 đến Điều 317 BLDS 2005. Theo những quy định này,
chuyển giao nghĩa vụ là sự thoả thuận giữa người có nghĩa vụ với người khác
trên cơ sở đồng ý của người có quyền nhằm chuyển nghĩa vụ cho người khác
(gọi là người thế nghĩa vụ). Người thế nghĩa vụ trở thành người có nghĩa vụ
mới phải thực hiện nghĩa vụ vì lợi ích của người có quyền. Thực chất của việc
chuyển giao nghĩa vụ là sự thoả thuận tay ba, theo đó người thứ ba thay thế
người có nghĩa vụ cũ để trở thành chủ thể có nghĩa vụ mới của quan hệ nghĩa

24
vụ trước đó. Người có nghĩa vụ cũ chấm dứt hoàn toàn quan hệ nghĩa vụ với
người có quyền.
Về hình thức, sự “chuyển giao nghĩa vụ” có những nét tương đồng với
việc “thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba” quy định tại Điều
293 BLDS 2005. Cả hai trường hợp này đều phát sinh trên cơ sở sự thoả
thuận tay ba giữa chủ thể mang quyền, chủ thể mang nghĩa vụ và người thứ
ba, theo đó, người trực tiếp thực hiện nghĩa vụ không phải là chủ thể mang
nghĩa vụ ban đầu. Tuy nhiên, xét về bản chất pháp lý thì đây là hai trường hợp
khác biệt hoàn toàn. Đối với việc “chuyển giao nghĩa vụ” thì chủ thể mang
nghĩa vụ ban đầu được chấm dứt hoàn toàn, họ không phải chịu trách nhiệm
về khả năng thực hiện nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ. Còn đối với việc
“thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba” thì chủ thể mang nghĩa
vụ vẫn phải chịu trách nhiệm với bên có quyền nếu người thứ ba không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự.

Thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại, xét dưới góc độ nào
đó cũng là một hình thức chuyển giao nghĩa vụ. Bởi lẽ, trước khi có sự
chuyển giao nghĩa vụ thì đã tồn tại một quan hệ nghĩa vụ do người chết lúc
còn sống xác lập và nghĩa vụ tài sản không phải do chủ thể mang nghĩa vụ
ban đầu trực tiếp thực hiện mà được chuyển giao cho người thứ ba (những
chủ thể của quan hệ thừa kế). Tuy nhiên, việc “thực hiện nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại” không hoàn toàn giống với việc “chuyển giao nghĩa vụ” và
cũng không hoàn toàn giống với việc “thực hiện nghĩa vụ thông qua người
thứ ba”. Có thể khẳng định việc “thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để
lại” là một sự chuyển giao nghĩa vụ đặc biệt.
Có thể hình dung sự khác biệt, đặc biệt của việc “thực hiện nghĩa vụ tài
sản do người chết để lại” so với việc “chuyển giao nghĩa vụ dân sự” và việc
“thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba” qua bảng so sánh sau:

×