Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (884.6 KB, 86 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN VĂN CÔNG





THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ở TỈNH BẮC GIANG





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2012


2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN VĂN CÔNG




THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ở TỈNH BẮC GIANG

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thu Hà





HÀ NỘI - 2012


3
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
8
1.1.
Khái niệm, bản chất và vai trò của thi hành án dân sự
8
1.1.1.
Khái niệm, bản chất của thi hành án dân sự
8
1.1.2.
Vai trò, ý nghĩa của thi hành án dân sự
12
1.2.
Một số khái niệm trong thi hành án dân sự
14
1.2.1.
Việc thi hành án dân sự
14
1.2.2.
Khái niệm về cưỡng chế thi hành án
16
1.2.3.
Hoãn thi hành án dân sự
18
1.2.4.
Miễn, giảm thi hành dân sự
20
1.3.
Khái quát về thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang
21

1.3.1.
Đặc điểm tỉnh Bắc Giang
21
1.3.2.
Cơ cấu tổ chức và hiện trạng đội ngũ cán bộ, công chức của
cơ quan thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang
22
1.3.3.
Các yếu tố ảnh hưởng đến thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang
25

Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH BẮC GIANG
28
2.1.
Tình hình thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang
28
2.1.1.
Kết quả thi hành án dân sự trong một số năm (từ năm 2009
đến năm 2011)
29
2.1.2.
Tình hình tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự
31

4
2.1.3.
Về lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm thi hành án
32
2.1.3.
Về công tác phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với tòa

án để giải quyết những khó khăn, vướng mắc do án tuyên
không rõ, tuyên có sai sót, không thi hành được
33
2.2.
Đánh giá thực trạng thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang
trong giai đoạn hiện nay
33
2.2.1.
Những ưu điểm của thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang
33
2.2.2.
Những hạn chế, bất cập, khó khăn của thi hành án dân sự ở
tỉnh Bắc Giang
34
2.3.
Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế, bất cập, khó khăn trong
thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang
43

Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH BẮC GIANG TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
56
3.1.
Tăng cường công tác rà soát, phân loại án
56
3.2.
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thi hành án dân sự
61
3.3.

Nhóm giải pháp giải quyết tình trạng quá tải công việc
65
3.4.
Tăng cường phối hợp và nâng cao hiệu quả hoạt động của
Ban chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp
67
3.5.
Tăng cường công tác phối hợp với các cơ quan tư pháp và
chính quyền cơ sở
68
3.6.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra tiến độ của thủ trưởng
đơn vị
70
3.7.
Một số giải pháp khác
72

KẾT LUẬN
76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
78

5



Danh môc c¸c b¶ng


Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Thống kê việc thi hành án dân sự có điều kiện thi hành
29
2.2
Thống kê việc thi hành án dân sự chưa có điều kiện thi hành
30


6
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói
chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của Tòa án
chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án là
công đoạn cuối cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp
hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội
chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà
nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu
quả của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ:
"Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải
được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ
trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan
phải nghiêm chỉnh chấp hành" [27].
Nhận thức tầm quan trọng của công tác thi hành án, từ khi thực hiện
đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về

thi hành án dân sự như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX ngày 03/02/2004 về tập trung thực hiện tốt công
tác thi hành án, nhất là thi hành án dân sự, khắc phục cơ bản tình trạng tồn
đọng kéo dài; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020:
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng chiến
lược cải cách tư pháp; xác định đúng, đủ quyền năng và trách nhiệm
pháp lý cho từng cơ quan, chức danh tư pháp

7
Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng
dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận
tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt
động tư pháp [20].
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020:
Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp
hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương
tiện làm việc; trong đó, xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét
xử là hoạt động trọng tâm
Từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những
hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà
nước thực hiện một số công việc thi hành án
Nghiên cứu chế định thừa phát lại; trước mắt, có thể tổ chức
thí điểm tại một số địa phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết,
đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo [21].
Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Hội đồng Nhà nước
trước đây, nay là Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Thi

hành án dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 và gần
đây là Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 và Quốc hội đã ban hành Luật
Thi hành án dân sự năm 2008. Do vậy, công tác thi hành án dân sự trong
những năm qua đạt được một số kết quả đáng khích lệ, mà kết quả nổi bật
nhất theo đánh giá của Chính phủ là: Hệ thống cơ quan thi hành án dân sự
được hình thành trong cả nước, công tác thi hành án dân sự đã được triển khai
và hoạt động có hiệu quả bước đầu. Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác thi hành
án dân sự hiện vẫn đang đứng trước những khó khăn, thử thách to lớn với

8
nhiều vấn đề tồn tại, bất cập đang đặt ra cần được giải quyết. Hiệu quả công
tác thi hành án dân sự chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ và sự
quan tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân; hoạt động thi hành án chưa thật
sự bảo đảm được tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật.
Tồn tại lớn nhất trong công tác thi hành án dân sự những năm qua là
tình trạng án "tồn đọng" kéo dài, với số lượng lớn ngày càng tăng, song chưa
có biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, năm
2009, các cơ quan thi hành án dân sự thụ lý 662.961 việc, đã thi hành xong
354.490 việc, đạt 81,05% số việc có điều kiện thi hành. Tuy nhiên, công tác
thi hành án dân sự vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là số lượng án tồn đọng. Tình
trạng khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự còn nhiều, nhiều vụ việc phức
tạp, khiếu nại tố cáo gay gắt, kéo dài… Theo một thống kê tại Hội nghị
chuyên đề triển khai công tác thi hành án dân sự năm 2010 khu vực phía Bắc
do Bộ Tư pháp tổ chức mới đây, hiện nay cả nước còn 270.925 án tồn đọng.
Trong đó, 188.000 việc chưa có điều kiện thi hành án; hơn 89.000 việc người
phải thi hành án ốm nặng, chưa xác định được nơi cư trú, người phải thi hành
án không có tài sản; 98.754 án tồn đọng vì có kháng nghị; tuyên không rõ
ràng, không phù hợp với thực tế, tài sản kê biên chưa xử lý được hoặc có
khiếu nại
Cùng với những thành quả trong công tác thi hành án dân sự của cả

nước, công tác thi hành án dân sự ở Bắc Giang trong những năm gần đây
cũng có những chuyển biến tích cực. Đặc biệt năm 2009, đã giải quyết xong
4.146 việc/4.461 việc có điều kiện thi hành, đạt 93% (thi hành xong hoàn toàn
3.648 việc/4.461 việc có điều kiện thi hành, đạt 82%); số tiền đã giải quyết
được 19.056.960.000 đồng/22.062.131.000 đồng, đạt 86,3% (số tiền thực thu
14.936.118.000 đồng/22.062.131.000 đồng, đạt 68%); tăng 588 việc và
3.128.636.000 đồng số việc và tiền đã giải quyết xong so với cùng kỳ năm

9
2008. Bên cạnh những thành quả đó, công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc
Giang còn gặp nhiều khó khăn do đặc điểm tình hình của địa phương, lượng
án tồn đọng qua các năm còn nhiều và ngày càng tăng như năm 2008 chưa
giải quyết được 303 việc có điều kiện thi hành (thi hành chưa xong hoàn toàn
718 việc có điều kiện thi hành), năm 2009 chưa giải quyết 315 việc có điều
kiện thi hành (thi hành chưa xong 843 việc có điều kiện thi hành)
Đây là vấn đề rất bức xúc đặt ra trong công tác thi hành án dân sự ở
tỉnh Bắc Giang hiện nay. Thực trạng này, một phần xuất phát từ nguyên nhân:
ý thức tuân thủ pháp luật của một số bộ phận nhân dân nói chung và một số
cơ quan, tổ chức, các nhà quản lý doanh nghiệp và cá nhân (kể cả chính
quyền địa phương) còn yếu kém. Mặt khác, do chưa có sự phối hợp đồng bộ,
chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, cũng như cơ quan hữu quan trong
quá trình thi hành án; cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động thi hành án dân
sự chưa được hoàn thiện, hệ thống các văn bản pháp lý về thi hành án dân sự
chưa đầy đủ, chậm được bổ sung, sửa đổi kịp thời; cơ chế quản lý và cơ chế
thi hành án hiện nay không hợp lý, gây cản trở và làm giảm hiệu quả công tác
thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng.
Với tất cả những lý do nêu trên, việc chọn đề tài "Thực trạng và giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang" làm
luận văn thạc sĩ luật học là cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Những năm gần đây, trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi
hành án dân sự, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề thi
hành án dân sự, cụ thể là: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Những cơ sở lý
luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại", mã số 95-98-114/ĐT do Viện
Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp Thành phố Hồ

10
Chí Minh chủ trì thực hiện; Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: "Mô hình quản lý
thống nhất công tác thi hành án", mã số 96-98- 027/ĐT do Cục Thi hành án
dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện; Đề tài cấp Nhà nước đang thực hiện:
"Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt
Nam trong giai đoạn mới" do Bộ Tư pháp chủ trì; Đề tài: "Thi hành án dân
sự, thực trạng và hướng hoàn thiện của Dự án VIE/98/001" do Bộ Tư pháp
chủ trì thực hiện dự án. Một số luận án và công trình nghiên cứu khác như:
Luận văn thạc sĩ luật học: "Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, thực
tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện", của Nguyễn Công Long; Luận văn thạc sĩ
luật học: "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự", của Nguyễn Thanh
Thủy; Luận văn thạc sĩ luật học: "Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam",
của Lê Xuân Hồng; Luận văn thạc sĩ luật học: "Đổi mới tổ chức và hoạt động
thi hành án dân sự ở Việt Nam", của Nguyễn Quang Thái; Luận văn thạc sĩ
luật học: "Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam", của Lê Anh Tuấn;
Luận văn thạc sĩ luật học: "Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thi
hành án dân sự ở Việt Nam", của Lê Đình Vỹ Bên cạnh đó là Giáo trình
Luật Thi hành án dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội và các
trường Đại học có chuyên ngành luật; một số bài viết đăng trên các tạp chí
Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật…
Các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân
sự ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Ở một số công trình cũng
đã đề cập đến vấn đề thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành
án dân sự, nhưng chủ yếu đi sâu tìm hiểu những vấn đề có liên quan đến pháp

luật, chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề thực trạng và giải pháp thi
hành án dân sự của một địa phương nhất định, dựa trên điều kiện kinh tế, xã
hội của địa phương để có những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả
trong công tác thi hành án ở địa phương.

11
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu
Mục tiêu tổng quát của đề tài là tìm ra các luận cứ khoa học và thực
tiễn cho việc đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành
án dân sự tỉnh Bắc Giang.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu đã đề ra cần phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể
sau đây:
- Làm rõ những cơ sở lý luận về thi hành án dân sự.
- Đánh giá đúng đắn và toàn diện về thực trạng về thi hành án dân sự
ở tỉnh Bắc Giang
- Phân tích nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án
dân sự.
4. Phạm vi nghiên cứu
"Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân
sự ở tỉnh Bắc Giang" là một đề tài cụ thể tại tỉnh Bắc Giang, nhưng có tính
khái quát cao, nội dung rất rộng, phong phú và phức tạp. Vì vậy, trong khuôn
khổ luận văn thạc sĩ luật học, tác giả tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận về thi
hành án dân sự nói chung, thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang nói
riêng; đánh giá và làm rõ thực trạng về công tác thi hành án dân sự tại tỉnh
Bắc Giang và từ đó rút ra những giải pháp cụ thể trong công tác thi hành án
dân sự nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang trong giai
đoạn hiện nay.


12
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
- Các phương pháp cụ thể được sử dụng kết hợp, đó là: Phương pháp
nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương
pháp thống kê, tổng hợp.
6. Ý nghĩa và những điểm mới của luận văn
- Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về
khái niệm thi hành án dân sự, tìm hiểu đặc điểm, bản chất của thi hành án dân
sự, góp phần bổ sung, làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên cứu khoa
học về pháp luật thi hành án dân sự.
- Từ việc đánh giá thực trạng thi hành án dân sự tại tỉnh Bắc Giang,
tác giả đã đưa ra được những ưu, khuyết điểm về công tác thi hành án dân sự
để từ đó có các giải pháp cụ thể nhằm hạn chế khuyết điểm.
- Từ việc đánh giá thực tiễn thi hành án dân sự, tác giả đã phân tích
những nguyên nhân và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi
hành án dân sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang.
Chương 2: Thực trạng thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân
sự ở tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay.

13
Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ở TỈNH BẮC GIANG

1.1. Khái niệm, bản chất và vai trò của thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm, bản chất của thi hành án dân sự
Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự bao gồm nhiều
giai đoạn khác nhau như xét xử, thi hành án dân sự Việc giải quyết vụ việc
dân sự tại tòa án tuy rất quan trọng nhưng mới chỉ là giai đoạn đầu của quá
trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trong giai đoạn này, tòa
án mới chỉ làm rõ tình tiết của vụ việc dân sự và áp dụng quy phạm pháp luật
quyết định quyền và nghĩa vụ của các đương sự. Quyền và nghĩa vụ của các
đương sự trong vụ việc dân sự đã được tòa án quyết định muốn trở thành hiện
thực thì phải thông qua việc thi hành án. Trong đó người có quyền thi hành án
yêu cầu người có nghĩa vụ thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thi hành án của
họ đối với mình và người có nghĩa vụ thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ của
mình vì lợi ích của người có quyền thi hành án. Thậm chí người phải thi hành
án muốn tự nguyện thi hành án cũng phải làm đơn đề nghị cơ quan thi hành
án cho thi hành bản án. Do vậy, theo nghĩa chung thì thi hành án dân sự là
thực hiện bản án, quyết định dân sự của tòa án.
Thi hành án dân sự xuất phát và gắn liền với hoạt động xét xử của tòa
án. Tuy vậy, theo nghĩa một thuật ngữ pháp lí thì còn có các quan điểm khác
nhau về thi hành án dân sự.
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng: thi hành án dân sự là một dạng của
hoạt động hành chính, bởi thi hành án dân sự là hoạt động mang tính điều
hành và chấp hành mà điều hành và chấp hành là đặc trưng của hoạt động

14
hành chính. Mặt khác, thi hành án dân sự ở nước ta lại không do toà án - cơ
hành tư pháp tổ chức.
+ Quan điểm thứ hai cho rằng: thi hành án dân sự là một dạng hoạt động

hành chính - tư pháp vì thi hành án dân sự là hoạt động mang tính điều hành và
chấp hành quyết định của tòa án - cơ quan tư pháp. Hơn nữa, trong quá trình
thi hành án dân sự còn phải tiến hành các hoạt động mang tính hành chính
như chứng thực bản sao giấy tờ, việc ủy quyền thi hành án dân sự, trước bạ
chuyển quyền sở hữu nhà cho người được thi hành án. Theo quan điểm này,
quá trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử của Tòa án chấm dứt khi Tòa án
ra phán quyết nhân danh Nhà nước, trong đó Tòa án đã xác định quyền, nghĩa
vụ các bên, còn việc thi hành phán quyết đó là giai đoạn khác, không thuộc
quá trình tố tụng. Thi hành án dân sự không phải là giai đoạn tố tụng, bởi vì:
Thi hành án dân sự có mục đích khác với mục đích tố tụng,
tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên
thực tế, trên cơ sở đó đưa ra phương án giải quyết vụ việc theo đúng
quy định của pháp luật, còn thi hành án dân sự là quá trình tiến
hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật [4, tr. 21].
+ Quan điểm thứ ba khẳng định, thi hành án là hoạt động tư pháp. Bởi
vì, gốc của hoạt động thi hành án là bản án, quyết định của Tòa án và các
quyết định theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện nhiệm vụ, cơ quan thi
hành án phải thi hành theo đúng quyết định của Tòa án chứ không phải theo
mệnh lệnh hành chính. Thi hành án phần lớn thông qua vai trò hoạt động của
các cá nhân những người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản
án, quyết định như Chấp hành viên, Giám thị viên hoặc các cơ quan tổ chức
và người có thẩm quyền khác. Hoạt động hành chính trong lĩnh vực thi hành
án chẳng qua cũng chỉ để đảm bảo phục vụ cho chức năng chính của cơ quan

15
thi hành án là tổ chức thi hành án theo quy định của pháp luật. Nếu cho rằng
thi hành án (nhất là thi hành án dân sự) là giai đoạn độc lập có tính hành chính -
tư pháp vì hoạt động thi hành án được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan của
Chính phủ là không hợp lý vì một hoạt động mang bản chất như thế nào

không thể phụ thuộc nhiều vào chủ thể thực hiện nó. Theo quan điểm này, thì
thi hành án dân sự gắn liền với hoạt động xét xử, mang tính tài sản, độc lập và
do cơ quan tư pháp có thẩm quyền tổ chức thực hiện.
Qua nghiên cứu, có thể thấy quan điểm thứ ba là có cơ sở khoa học
hơn cả.
Thi hành án dân sự gắn liền với hoạt động xét xử vì xét xử và thi hành
án dân sự là hai mặt của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Xét xử là tiền đề của thi hành án, không có xét xử thì không có thi
hành. Ngược lại, thi hành án tiếp nối với xét xử làm cho bản án, quyết định
hiệu lực trên thực tế nên có tác dụng củng cố kết quả xét xử.
Thi hành án dân sự mang tính tài sản - đặc trưng của quan hệ dân sự.
Trên thực tế, phần lớn các bản án, quyết định dân sự được đưa ra thi hành đều
quyết định các vấn đề về tài sản như chia thừa kế, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng v.v… Thông qua thi hành án dân sự, người phải thi
hành án phải thực hiện các nghĩa vụ về tài sản của họ và người được thi hành
án dân sự sẽ nhận được các quyền, lợi ích về tài sản.
Thi hành án dân sự mang tính độc lập - đặc trưng của hoạt động tư
pháp. Thi hành án là quá trình diễn ra phức tạp, trong đó cơ quan thi hành án
dân sự thường phải chịu áp lực, tác động từ nhiều phía. Để bảo đảm hiệu quả
của thi hành án dân sự thì cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên phải
được độc lập và không cá nhân, cơ quan, tổ chức nào được can thiệp trái pháp
luật vào quá trình thi hành án dân sự. Vì vậy, khác với các văn bản pháp luật
quy định về thi hành án dân sự được ban hành trước, Pháp lệnh Thi hành án

16
dân sự năm 2004 và Luật Thi hành án dân sự đã quy định cơ quan thi hành án
dân sự tách khỏi các cơ quan tư pháp địa phương, không phụ thuộc về tổ chức
và quản lí của các cơ quan này.
Thi hành án dân sự do cơ quan thi hành án dân sự - cơ quan tư pháp tổ
chức thực hiện. Việc thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước do nhiều cơ quan

tư pháp thực hiện và tòa án chỉ là một trong các cơ quan đó. Cơ quan thi hành
án dân sự có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn thực hiện quyền tư pháp của
Nhà nước cho nên cơ quan thi hành án dân sự là một trong các cơ quan tư pháp.
Ngoài ra, để thực hiện các bản án, quyết định được đưa ra thi hành
trong quá trình thi hành án dân sự đôi khi các chủ thể tham gia thi hành án
còn phải tiến hành các hoạt động như yêu cầu cơ quan có thẩm quyền chứng
thực bản sao giấy tờ, việc ủy quyền thi hành án, trước bạ chuyển quyền sở
hữu nhà cho người được thi hành án v.v… Tuy vậy, những hoạt động này
không phải là hoạt động cơ bản, chỉ mang tính bổ trợ cho việc thi hành bản
án, quyết định dân sự.
Thi hành án dân sự là nhằm mục đích đưa bản án, quyết định dân sự ra
thực hiện trên thực tế. Do vậy, đối tượng thi hành án dân sự trước hết phải là
các bản án quyết định giải quyết các vụ việc dân sự, sau đó là các quyết định
về tài sản trong bản án hình sự, hành chính của tòa án. Theo quy định của
pháp luật, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định
thi hành án dân sự. Tuy vậy, bắt đầu từ năm 2003 pháp luật quy định đối
tượng thi hành án dân sự không chỉ bao gồm bản án, quyết định dân sự của
tòa án, bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, quyết định của trọng
tài nước ngoài được tòa án công nhận và cho thi hành ở Việt Nam mà còn bao
gồm cả quyết định giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 57 pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003, Điều 2
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 và Điều 121 Luật Cạnh tranh năm

17
2004 thì quyết định của trọng tài thương mại, hội đồng xử lí vụ việc cạnh
tranh cũng được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự. Kế thừa các quy
định này, Điều 1 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 tiếp tục quy định đối
tượng thi hành án dân sự bao gồm bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền,
tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lí vật chứng, tài sản,
án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản

trong bản án, quyết định hành chính của tòa án, bản án, quyết định dân sự của
tòa án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài được tòa án công nhận
và cho thi hành ở Việt Nam, quyết định xử lí vụ việc cạnh tranh có liên quan
đến tài sản của bên phải thi hành án của hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh và
quyết định của trọng tài thương mại Việt Nam. Vì vậy, theo nghĩa pháp lí thì
thi hành án dân sự là một dạng hoạt động tư pháp trong việc thực hiện bản
án, quyết định dân sự của tòa án và các quyết định của các cơ quan, tổ chức
khác được đưa ra thi hành theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói
chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của Tòa án
chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án là
công đoạn cuối cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp
hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội
chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà
nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu
quả của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ:
"Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải
được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ
trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan
phải nghiêm chỉnh chấp hành" [27].

18
* Thi hành án dân sự góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương an toàn xã
hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
Công tác thi hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng có một ý
nghĩa, vai trò quan trọng trong hoạt động Nhà nước. Thông qua hoạt động thi
hành án, những phán quyết của Tòa án nhân danh Nhà nước, thể hiện ý chí
của Nhà nước được trở thành hiện thực, công lý xã hội được thực hiện. Quá
trình giải quyết một vụ án chỉ kết thúc khi bản án quyết định của Tòa án được

thi hành kịp thời và đầy đủ. Nếu công tác thi hành án dân sự không được quan
tâm và không có hiệu quả thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực, tác động đến toàn bộ
hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, trật tự kỷ cương xã hội bị vi
phạm, quyền lực nhà nước bị xem thường, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân bị xâm hại. Thi hành án dân sự đạt hiệu quả sẽ mang lại niềm tin cho
nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật, góp phần lập lại kỷ cương,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, một bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực pháp luật mà không được thi hành trên thực tế cho thấy sự
thiếu nghiêm minh của pháp luật, dễ gây ra sự mất đoàn kết, xung đột kéo dài
trong nhân dân, tạo kẽ hở để các phần tử phản động lợi dụng tuyên truyền, lôi
kéo nói xấu chế độ, kích động thù hận, gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân.
* Thi hành án là thước đo hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án và
hoạt động tư pháp khác
Hoạt động điều tra, truy tố và xét xử diễn ra rất phức tạp và tốn kém,
song những hoạt động đó có thể chỉ là con số không nếu như bản án, quyết
định của Tòa án không được đưa ra thi hành trên thực tế. Với ý nghĩa đó, thi
hành án dân sự là một hoạt động không thể thiếu được trong quá trình bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Thông qua thi hành án, kết quả của
công tác xét xử được củng cố, hiệu lực các bản án, quyết định của Tòa án
được đảm bảo. Mặt khác, thi hành án dân sự còn là giai đoạn kiểm nghiệm

19
qua thực tiễn những phán quyết của Tòa án, phản ánh, trung thực chất lượng
và hiệu quả của hoạt động xét xử. Vì nếu như bản án tuyên đúng với bản chất,
hiện thực khách quan, có lý, có tình thì trong quá trình thi hành án sẽ thuận lợi
hơn những trường hợp bản án, quyết định của Tòa án không đúng sự thật,
không phù hợp với thực tế khách quan. Thực tế cho thấy có nhiều vụ việc
đương sự không tự nguyện thi hành hoặc gửi đơn khiếu nại, tố cáo đi nhiều
nơi không phải vì cơ quan thi hành án làm sai mà vì không đồng tình với
quyết định của Tòa án nên cố tình trì hoãn việc thi hành án.

* Thi hành án dân sự góp phần nâng cao ý thức pháp luật của
nhân dân
Đặc thù của thi hành án dân sự là sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ
động, phát huy trách nhiệm của Chấp hành viên, cơ quan thi hành án và sự chỉ
đạo của chính quyền địa phương, sự phối hợp các cơ quan tổ chức có liên
quan và sự đồng tình của quần chúng, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý
thức trách nhiệm của cộng đồng. Trong hoạt động thi hành án dân sự, thi hành
án không chỉ là hoạt động nghiệp vụ riêng của cơ quan thi hành án, Chấp
hành viên mà còn là trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa
phương, đoàn thể xã hội và mọi thành viên trong cộng đồng. Thông qua công
tác thi hành án, ý thức pháp luật của nhân dân, vai trò, trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức được nâng lên.
1.2. Một số khái niệm trong thi hành án dân sự
1.2.1. Việc thi hành án dân sự
Việc thi hành án dân sự, cụm từ này trong Từ điển tiếng Việt cũng
như các văn bản pháp luật về thi hành án dân sự chưa có khái niệm chính
thức, song theo qui định của pháp luật về thi hành án dân sự hiện hành và ngữ
pháp tiếng Việt, cho thấy:

20
Theo ngữ pháp tiếng Việt thì cụm từ "thi hành" là một động từ để chỉ
hành động hoặc không hành động; "án dân sự" để chỉ bản án, quyết định dân
sự theo quy định của pháp luật về dân sự và tố tụng dân sự;
Căn cứ pháp luật để thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ban hành
Quyết định thi hành án dân sự là Điều 35, 36 Luật Thi hành án dân sự năm
2008, Điều 5 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ về
qui định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Thi hành án dân sự, Điều 2
Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010
của Bộ Tư pháp - Tòa án nhân dân tối cao - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
và Quyết định dân sự trong Bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại

Điều 2 Luật Thi hành án dân sự;
Tại khoản 3 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự qui định: "Trong thời
hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ra Quyết định thi hành án, Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự phải phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành
Quyết định thi hành án đó" [32]; tại Điều 20 Luật Thi hành án dân sự qui định
nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên:
Kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công; ra các
quyết định về thi hành án theo thẩm quyền; thi hành đúng nội dung
Bản án, quyết định; áp dụng các qui định của pháp luật về trình tự,
thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp
pháp của đương sự… [32].
Vì vậy, việc thi hành án dân sự cần được hiểu là: việc tổ chức thi hành
quyết định thi hành án dân sự của thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự theo
qui định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Việc thi hành án dân sự bao gồm việc thi hành án dân sự có điều kiện
thi hành và việc thi hành án dân sự chưa có điều kiện thi hành. Việc thi hành

21
án dân sự có điều kiện thi hành là trường hợp người phải thi hành bản án,
quyết định dân sự của tòa án có điều kiện thi hành án trong thực tế khi đã xác
minh điều kiện thi hành án. Đó là trường hợp người phải thi hành án có tài
sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ về tài sản, tự mình hoặc thông qua người
khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Ngược lại, việc thi hành án dân sự chưa
có điều điều kiện thi hành là trường hợp người phải thi hành án chưa có điều
kiện để thi hành bản án, quyết định dân sự trong thực tế. Tức là, người phải
thi hành án không có tài sản, thu nhập để thực hiện nghĩa vụ tài sản hoặc
những vụ việc người phải thi hành án không có khả năng thực hiện các nghĩa
vụ về hành vi.
1.2.2. Khái niệm về cưỡng chế thi hành án
Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ

quan thi hành án do Chấp hành viên quyết định theo thẩm quyền nhằm buộc
đương sự phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án,
quyết định của tòa án, được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án
có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành trong thời hạn do Chấp
hành viên ấn định hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành
án tẩu tán, hủy hoại tài sản.
Để áp dụng được biện pháp cưỡng chế thi hành án, cần phải hội đủ
các điều kiện sau đây: Người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ về tài
sản hoặc phải thực hiện hành vi theo bản án, quyết định của Tòa án, quyết
định của Trọng tài, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ
việc cạnh tranh; người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không
tự nguyện thi hành án.
Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ được áp dụng khi người
phải thi hành án có nghĩa vụ và hành vi phải thực hiện theo quyết định của cơ

22
quan có thẩm quyền, nhất là có thái độ và hành vi không tự nguyện thi hành
án khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án. Theo khoản 6, Điều 3
Luật Thi hành án dân sự năm 2008, có điều kiện thi hành án là trường hợp
người phải thi hành án có tài sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ về tài sản; tự
mình hoặc thông qua người khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
Cưỡng chế thi hành án dân sự là một biện pháp nghiêm khắc nhất, do
đó, Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án không được áp dụng
một cách tùy tiện mà phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Các nguyên
tắc đó là:
- Chỉ áp dụng các biện pháp cưỡng chế được pháp luật quy định, bao
gồm: 1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của
người phải thi hành án. 2. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án. 3. Kê
biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ
ba giữ. 4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án. 5. Buộc chuyển giao

vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ. 6. Buộc người phải thi hành án thực
hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định (Điều 71 Luật Thi hành
án dân sự năm 2008).
- Chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế sau khi đã hết thời hạn tự
nguyện thi hành án trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có
hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Ngoài ra,
cơ quan thi hành án dân sự không tổ chức cưỡng chế thi hành án có huy động lực
lượng trong thời gian 15 ngày trước và sau Tết Nguyên đán; các ngày truyền
thống đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án.
- Việc tổ chức cưỡng chế phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải
thi hành án và các chi phí cần thiết khác. Chấp hành viên phải ước tính giá trị
tài sản để làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án.

23
- Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải căn cứ vào bản án, quyết
định và từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Nguyên tắc này đòi hỏi rất cao về
mặt chuyên môn nghiệp vụ của Chấp hành viên, bản lĩnh nghề nghiệp và đạo
đức Chấp hành viên. Vì việc tổ chức cưỡng chế thi hành án có thuận lợi hay
không, an toàn hay không và có ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị,
trật tự an toàn xã hội tại địa bản xảy ra việc cưỡng chế hay không tùy thuộc
vào việc có áp dụng thống nhất nguyên tắc này trên thực tế của Chấp hành viên.
1.2.3. Hoãn thi hành án dân sự
Hoãn thi hành án dân sự là việc cơ quan thi hành án dân sự quyết định
chưa tổ chức thi hành bản án, quyết định khi có căn cứ pháp luật quy định.
Căn cứ hoãn thi hành án:
+ Người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ
cấp huyện trở lên; chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc
vì lý do chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể tự mình thực
hiện được nghĩa vụ theo bản án, quyết định;
+ Người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi

hành án. Việc đồng ý hoãn phải lập thành văn bản ghi rõ thời hạn hoãn, có
chữ ký của các bên. Trong thời gian hoãn thi hành án do có sự đồng ý của
người được thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất
chậm thi hành án;
+ Người phải thi hành các khoản nộp ngân sách nhà nước không có tài
sản hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản đó không đủ chi phí cưỡng chế thi
hành án hoặc có tài sản nhưng tài sản thuộc loại không được kê biên;
+ Tài sản kê biên có tranh chấp đã được Tòa án thụ lý để giải quyết;
+ Việc thi hành án đối với bản án, quyết định có văn bản giải thích
những nội dung mà bản án, quyết định tuyên chưa rõ trong thời hạn 15 ngày,

24
kể từ ngày nhận được yêu cầu của đương sự hoặc của cơ quan thi hành án dân
sự. Trường hợp vụ việc phức tạp thì thời hạn trả lời không quá 30 ngày, kể từ
ngày nhận được yêu cầu.
+ Việc thi hành án đối với bản án, quyết định đang có trả lời kiến nghị
của cơ quan thi hành án dân sự về việc xem xét lại bản án, quyết định của Tòa
án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày
nhận được kiến nghị.
Việc ra quyết định hoãn thi hành án do Thủ trưởng cơ quan thi hành
án dân sự ra quyết định thi hành án thực hiện. Khi có căn cứ hoãn thi hành án
thì chấp hành viên chịu trách nhiệm thi hành án đề nghị thủ trưởng cơ quan
thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án. Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án bằng văn bản trong thời hạn 05
ngày làm việc, kể từ ngày có căn cứ hoãn thi hành án.
Hậu quả pháp lý của hoãn thi hành án:
+ Sau khi có quyết định hoãn thi hành án, các hoạt động thi hành án
dân sự được tạm ngừng lại.
+ Trường hợp vụ việc đã được thi hành một phần hoặc đã được thi
hành xong thi cơ quan thi hành án dân sự phải có văn bản thông báo ngay cho

người có yêu cầu hoãn thi hành án.
+ Trong thời hạn hoãn thi hành án, người phải thi hành án không phải
chịu lãi suất chậm thi hành án.
+ Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ khi căn cứ hoãn thi hành án
không còn, hết thời hạn thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền
kháng nghị hoặc nhận được văn bản trả lời của người có thẩm quyền kháng
nghị về việc không có căn cứ kháng nghị thì thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự phải ra quyết định tiếp tục thi hành án.

25
1.2.4. Miễn, giảm thi hành dân sự
Thi hành án dân sự trước hết là vì quyền và lợi ích của người được thi
hành án, do đó về nguyên tác, việc miễn, giảm thi hành án dân sự phải do
người được thi hành án quyết định. Trong thực tế, có một số trường hợp
người được thi hành đồng ý hoặc đề người được thi hành án đề nghị hoặc đối
với các khoản thu thi hành án nộp ngân sách nhà nước như án phí, tiền phạt…
thì Nhà nước có quyền quyết định việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân
sự cho người được thi hành án.
Pháp luật quy định các trường hợp được miễn, giảm thi hành án dân
sự có ý nghĩa to lớn trong việc đảm hiệu quả việc thi hành án dân sự và phần
nào giảm bớt khó khăn về tài chính cho người phải thi hành án. Hiện nay, việc
miễn, giảm thi hành án dân sự được quy định tại các điều từ Điều 61 đến
Điều 64 Luật Thi hành án dân sự và Điều 26 Nghị định của Chính phủ số
58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 quy định thủ tục thi hành án dân sự. Để tránh
việc cơ quan thi hành án dân sự có thế lạm quyền trong việc thực hiện miễn,
giảm thi hành án dân sự và tránh tình trạng người phải thi hành án dân sự lợi
dụng các quy định của pháp luật về miễn, giảm thi hành án dân sự để trốn
tránh thực hiện nghĩa vụ thi hành án của họ, Luật Thi hành án dân sự mới chỉ
quy định về trường hợp miễn, giảm thi hành án dân sự đối với khoản thu nộp
ngân sách nhà nước và giao cho tòa án có thẩm quyền xét miễn, giảm thi hành

án dân sự. Khoản thu nộp ngân sách nhà nước được xét miễn, giảm là các
khoản nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của tòa án như tiền
phạt, án phí và các khoản thu nộp ngân sách nhà nước khác đã ấn định trong
bản án, quyết định của tòa án.
Vì vậy, miễn nghĩa vụ thi hành án dân sự là trường hợp người phải thi
hành khoản thu nộp ngân sách nhà nước được tòa án có thẩm quyền quyết
định không phải nộp toàn bộ số tiền hoặc phần còn lại của số tiền mà đáng ra
họ phải nộp cho ngân sách nhà nước.

×