Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 111 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




ĐỖ ĐỨC THỌ






TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO
NGƯỜI CÓ
THẨM QUYỀN CỦA CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ
TỤNG GÂY RA


CHUYÊN NGÀNH : LUẬT DÂN SỰ
MÃ SỐ : 60 38 30



LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Công Lạc





HÀ NỘI - 2006



NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

1. BLDS : Bộ luật dân sự
2. BTTH : Bồi thường thiệt hại
3. TNDS : Trách nhiệm dân sự
4. THTT : Tiến hành tố tụng
5. TAND : Tòa án nhân dân
6. VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
7. TNBTTH : Trách nhiệm bồi thường thiệt hại


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng gây ra trong khi thi hành công vụ được quy định ở hầu hết các quốc gia
trên thế giới. Một mặt nó phản ánh trình độ phát triển, tính dân chủ của một
quốc gia, mặt khác, là công cụ để bảo đảm pháp chế trong hoạt động của các

cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, việc xây dựng một cách đầy đủ, đồng bộ,
thống nhất những quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra là cơ sở để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, phát huy dân chủ, nâng cao lòng tin của nhân dân
vào hệ thống các cơ quan tư pháp, góp phần duy trì và giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hôi.
Nghị quyết số 388/2003/NQ – UBTVQH11 của Uỷ ban thường vụ
quốc hội được ban hành 17/3/2003 nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp,
Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự về việc bồi thường thiệt hại và khôi
phục danh dự cho người bị bắt, bị giam giữ, bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án trái pháp luật. Việc ban hành Nghị quyết được sự đồng tình,
ủng hộ của nhân dân, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với Nhà
nước nói chung và các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng, hơn nữa sau ba
năm thực hiện Nghị quyết 388 đã có tác động tích cực, tạo ra chuyển biến
quan trọng trong nhận thức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, từ
đó nâng cao trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong hoạt động tố tụng
hình sự, chất lượng công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự được nâng lên, số vụ việc để xảy ra oan, sai giảm đáng kể.
Thực tiễn công tác giải quyết việc bồi thường thiệt hại do người có
thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra theo Nghị quyết 388 cho
thấy còn có nhiều hạn chế trong việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành


2
nghị quyết cũng như trong nhận thức và việc giải quyết bồi thường cho người
bị oan, đặc biệt là trong việc quy định rõ căn cứ xác định trách nhiệm giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng, giữa người tiến hành tố tụng vói thủ truởng cơ
quan tiến hành tố tụng, cách xác định thiệt hại, tính toán mức bồi thường, nhất
là việc tính toán thiệt hại về tinh thần. Xuất phát từ thực trạng trên cho thấy
cần phải có một văn bản pháp luật có hiêu lực pháp lý cao hơn quy định về

vấn đề này. Những bất cập trên cho thấy cần phải ban hành Luật nhà nước về
bồi thường thiệt hại nhằm xây dựng một cơ chế, chính sách và cơ sở pháp lý
chặt chẽ cho việc bồi thường thiệt hại đối với những trường hợp bị oan, sai do
các cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
Với những lý do nêu trên, việc nghiên cứu “ trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra” không
chỉ có ý nghĩa lý luận, giá trị thực tiễn mà còn là vấn đề mang tính thời sự
trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay
2.Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, đưa ra
kiến nghị nhằm góp phần xây dựng pháp luật về trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước
3.Phạm vi nghiên cứu
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguời có thẩm quyền của cơ quan
tiến hành tố tụng gây ra là vấn đề phức tạp không những về mặt lý luận mà cả
thực tiễn pháp lý. Vì vậy, Luận văn nghiên cứu giới hạn ở những vấn đề lý
luận và thực tiễn của Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng gây ra
Luận văn cũng đi vào phân tích thực trạng việc áp dụng Nghị quyết
388 trên thực tế, từ đó đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật về
TNBTTH do ngưòi tiến hành tố tụng gây ra chủ yếu theo quy định của Nghị
quyết 388.


3


4
4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp nghiên cứu tổng hợp
theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin cùng với khoa học lý luận về nhà
nước và pháp luật
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như:
phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê
Cơ cấu của Luận văn
Luận văn được kết cấu gồm:
Lời nói đầu
Chương 1: Khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra
Chương 2: Cơ sở pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại và pháp
luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người của cơ quan tiến hành tố
tụng gây ra
Chương 3: Thực trạng giải quyết bồi thường thiệt hại và phương hướng
hoàn thiện pháp luật
Kết luận
Vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng gây ra là vấn đề phức tạp. Mặc dù cố gắng rất nhiều nhưng do
hạn chế về thời gian và những yếu tố khác nên khó tránh khỏi những thiếu sót,
hạn chế trong Luận văn này, do vậy rất mong nhận được sự sư góp ý, hướng
dẫn của các thầy cô và bạn bè để luân văn này đuợc hoàn thiện hơn nữa










5
CHƢƠNG 1
KHÁI NIỆM CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
DO NGƢỜI CÓ THẨM QUYỀN CỦA CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ
TỤNG GÂY RA


1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƢNG, ĐIỀU KIỆN CỦA TRÁCH NHIỆM
BTTH NGOÀI HỢP ĐỒNG
Chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một nội
dung quan trọng trong pháp luật dân sự, có liên quan tới nhiều mặt của đời
sống xã hội , tác động tới quyền tự do, dân chủ của công dân, mục tiêu công
bằng xã hội, xuất phát từ tầm quan trọng này, chế định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng với tư cách là một chế định độc lập của luật
dân sự Việt Nam hiện đại được quy định tại chương chương XXI Bộ luật dân
sự năm 2005.
Điều 604 – Bộ luật dân sự năm 2005 quy định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng là “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm
đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích
hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân
hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm phải
bù đắp những tổn thất về vật chất hoặc tinh thần của người gây thiệt hại đối
với người bị thiệt hại phát sinh không từ hợp đồng. Theo nguyên tắc chung
khi một chủ thể có hành vi vi phạm thì phải gánh chịu một hậu quả pháp lý
xấu. Hậu quả pháp lý này sẽ do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng.
Trong quan hệ dân sự, hậu quả pháp lý là hậu quả về tài sản do vậy pháp luật
cho pháp các bên tự nguyện thực hiện trách nhiệm đó. Trường hợp không tự
nguyện thực hiện thì người bị vi phạm có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có
thẩm quyền áp dụng các biên pháp cưỡng chế để bảo đảm quyền lợi cho mình.



6
Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng việc xem xét đặc điểm cũng như điều kiện phát sinh trách nhiệm
ngoài hợp đồng hết sức quan trọng.
* Đặc trƣng của trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng:
Cũng giống như trách nhiệm dân sự nói chung trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng cũng mang những đặc điểm chung của
trách nhiệm pháp lý.
- Cơ sở thực tế của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là
những vi phạm pháp luật, ở đâu có vi phạm pháp luật, ở đó có trách nhiệm
pháp lý. Không có vi phạm pháp luật thì không thể có trách nhiệm pháp lý
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thể hiện sự lên án
của Nhà nước, xã hội và là một chế tài mang tính trừng phạt đối với chủ thể
gây thiệt hại thông qua việc buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do
hành vi vi phạm của mình, đặc điểm này giải thích lý do tại sao cấu thành của
trách nhiệm bồi thường thiệt hại có nội dung chủ yếu là khôi phục những thiệt
hại đã xảy ra.
- Cơ sở pháp lý của việc truy cứu trách nhiệm pháp luật là quyết định
có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Điều này xuất phát từ đặc
điểm không tách rời giữa trách nhiệm pháp lý và nhà nước, có nghĩa là nhà
nước thông qua các cơ quan, người có thẩm quyền mới có thẩm quyền xác
định một cách chính thức hành vi nào là vi phạm pháp luật và áp dụng biện
pháp trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể gây ra thiệt hại đó.
- Ngoài ra, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn mang
đặc tính của trách nhiệm dân sự là trách nhiệm tài sản nhằm khôi phục lại tình
trạng tài sản của người bị thiệt hại do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp
dụng.
Từ những đặc trưng pháp lý trên cho thấy về cơ bản trách nhiệm bồi

thương thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh không phải từ hợp đồng mà chủ
yếu từ hành vi vi phạm pháp luật


7

* Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là
những yếu tố, những cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường, người phải
bồi thường, người được bồi thường và mức độ bồi thường, nếu thiếu một
trong những điều kiện đó thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ không được
đặt ra. Bộ luật dân sự không quy định cụ thể các điều kiện làm phát sinh trách
nhiệm, xuất phát từ những quy định, những nguyên tắc của pháp luật nói
chung và pháp luật dân sự nói riêng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát
sinh khi có những điều kiện sau:
- Có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại được hiểu là sự giảm bớt những lợi ích vật chất hay tinh thần
của một người do có sự kiện gây thiệt hại của người khác được xác định bằng
một khoản tiền cụ thể. Thiệt hại đồng thời mang ý nghĩa pháp lý và xã hội.
Nhìn từ góc độ xã hội, thiệt hại động chạm và làm ảnh hưởng đến những quan
hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Còn góc độ pháp lý của thiệt hại, hành vi trái
pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
Dưới góc độ xã hội thiệt hại động chạm và làm ảnh hưởng đến những
quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, còn dưới góc độ pháp lý, thiệt hại tự nó
cho thấy hành vi trái pháp luật đã xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức, cũng như của nhà nước, ý nghĩa này làm cho thiệt
hại trở thành tiền đề quan trọng để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng
Việc phân loại thiệt hại có ý nghĩa quan trọng hoạt động xét xử của Toà
án, Toà án có thể căn cứ vào loại thiệt hại để áp dụng các biện pháp, chế độ

khác nhau để khắc phục những thiệt hại xảy ra hoặc áp dụng những biện pháp
cần thiết khác để bảo đảm quyền lợi cho các đương sự. Thiệt hại có thể phân
loại thành:


8
+ Thiệt hại về tài sản: Đây là hậu quả của hành vi trái pháp luật do chủ
thể có lỗi gây ra mà biểu hiện cụ thể là mất tài sản, giảm sút tài sản, những chi
phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa, thay thế, những lợi ích gắn liền với việc
sử dụng, khai thác công dụng của tài sản.
+ Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ là hậu quả của hành vi trái pháp luật
do chủ thể có lỗi gây ra làm phát sinh thiệt hại về vật chất bao gồm chi phí
cứu chữa, bồi thường, chăm sóc, phục hồi chức năng bị mất, thu nhập thực tế
bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khỏe.
+ Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại: Đây chính là các
giá trị nhân phẩm của chủ thể này bị chủ thể khác xâm phạm từ hành vi trái
pháp luật, từ đó kéo theo hàng loạt các thiệt hại khác bao gồm chi phí hợp lý
để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại
- Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật
Một trong những điều kiện để xác định trách nhiệm bồi thuờng thiệt hại
theo quy định của Bộ luật dân sự là phải có hành vi xâm phạm quyền dân sự,
hiểu theo nghĩa rộng đó chính là hành vi trái pháp luật. Trong bộ luật dân sự
Việt Nam năm 1995 mặc dù không có điều luật nào quy định cụ thể khái niệm
hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, theo quy định tại điều 609 có thể hiểu
hành vi trái pháp luật là hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân,
xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá
nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể
khác”

Hành vi gây thiệt hại thường được thể hiện dưới dạng hành động, chủ
thể đã thực hiện hành vi mà đáng ra không được thực hiện các hành vi đó,
Tuy nhiên, không phải tất cả các hành vi gây thiệt hại cho người khác đều là
hành vi trái pháp luật,


9
Hành vi gây thiệt hại có thể là hành vi hợp pháp nếu người thực hiện
hành vi đó theo nghĩa vụ mà pháp luật hoặc nghề nghiệp buộc họ phải thực
hiện hành vi đó. Trong truờng hợp này nguời gây thiệt hại không phải bồi
thường; người gây thiệt hại không phải bồi thường trong trưòng hợp phòng vệ
chính đáng, trong tình thế cấp thiết hoặc có sự đồng ý của người bị thiệt hại
( khoản 1 điều 613; Điều 614 BLDS). Tuy nhiên, nếu vượt quá giới hạn của
phòng vệ chính đáng, vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây ra
thiệt hại vẫn phải bồi thường thiệt hại.
Một trong những điều kiện để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
theo quy định của Bộ luật dân sự là phải có hành vi xâm phạm quyền dân sự.
Hiểu theo nghĩa rộng, đó chính là hành vi trái pháp luật.
Thông tư 173/UBTP ngày 23/3/1972 của Tòa án nhân dân tối cao thì
hành vi trái pháp luật trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng “có
thể là một việc phạm pháp về hình sự, một vi phạm pháp luật về dân sự, một
sự vi phạm đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước hoặc một vi phạm quy
tắc sinh hoạt xã hội”
Trong Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005, mặc dù không có điều luật
nào quy định cụ thể khái niệm hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên, theo quy
định tại điều 609 có thể hiểu hành vi trái pháp luật là “hành vi xâm phạm đến
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích
hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân
hoặc các chủ thể khác”
Nghị quyết 01/2004/NQ - NĐTP hướng dẫn: “Hành vi trái pháp luật là

những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc
không hành động trái với quy định của pháp luật”
Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể cuả con người được thể
hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với quy định của pháp
luật


10
Trong luật hình sự, hành vi là biểu hiện cơ bản của mặt khách quan của
tội phạm. Những biểu hiện khách quan của mặt khách quan chỉ có ý nghĩa khi
có hành vi trái pháp luật. Không thể nói đến hậu quả của tội phạm cũng như
những biểu hiện khách quan khác như công cụ, phương tiện, địa điểm, thời
gian… khi không có hành vi trái pháp luật. Những biểu hiện của mặt chủ
quan như lỗi, mục đích, động cơ cũng luôn gắn với một hành vi khách quan
cụ thể
Trong luật dân sự, hành vi gây thiệt hại (hành vi khách quan) là nguyên
nhân gây ra sự biến đổi tình trạng những đối tượng tác động và do vậy là
nguyên nhân gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội (khách thể). Hành vi gây
thiệt hại là cầu nối giữa người gây thiệt hại (chủ thể) đối với đối tượng tác
động tức các quan hệ xã hội(khách thể). Không thể có người gây thiệt hại khi
không có hành vi gây thiệt hại, hành vi gây thiệt hại có thể được thực hiện
bằng hành động hoặc không hành động. Hành động hay không hành động đều
là biểu hiện của con người ra ngoài thế giới khách quan, được ý thức kiểm
soát, ý chí điều khiển và đều có khả năng làm biến đổi tình trạng bình thường
của đối tượng tác động, gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ
Hành động gây thiệt hại là một hình thức của hành vi gây thiệt hại, nó
trực tiếp tác động đến đối tượng làm biến đổi tình trạng bình thường của đối
tượng, gây thiệt hại cho khách thể. Hành động gây thiệt hại có thể chỉ là một
tác động đơn giản xảy ra một lần trong một thời gian ngắn hoặc có thể là tổng

hợp nhiều tác động khác nhau, hay là giống nhau, nhưng được lặp đi, lặp lại
liên tục trong một thời gian dài. Hành động gây thiệt hại có thể là tác động
trực tiếp của chủ thể vào đối tượng gây thiệt hại hoặc có thể là tác động gián
tiếp của chủ thể vào đối tượng thông qua công cụ, phương tiện gây thiệt hại.
Không hành động gây thiệt hại là một hình thức của hành vi gây thiệt
hại, nó làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động, gây thiệt


11
hại cho khách thể bằng việc chủ thể không làm một việc pháp luật quy định
bắt buộc phải làm mặc dù có đầy đủ những điều kiện để làm việc đó.
Với sự phân tích trên cho thấy hành vi gây thiệt hai có các đặc điểm
sau:
- Hành vi gây thiệt hại là hoạt động có ý thức và ý chí. Điều đó có
nghĩa là khi nói đến hành vi gây thiệt hại của một người thì phải hiểu đó là
hành vi có ý thức và ý chí. Không thể có hành vi gây thiệt hại mà những biểu
hiện bên ngoài của nó không được ý thức của chủ thể kiểm soát hay không
được ý chí của họ điều khiển.
- Hành vi gây thiệt hại phải là hành vi trái pháp luật. Điều đó có nghĩa
là hành vi gây thiệt hại đó phải là hành vi mà pháp luật cấm thực hiện. Nếu
hành vi đó mà pháp luật không cấm thực hiện thì người thực hiện hành vi dù
gây thiệt hại vẫn không phải bồi thường
- Có lỗi của ngƣời gây ra thiệt hại
Theo quy định tại điều 604 Bộ luật dân sự Việt Nam „Người nào do lỗi
cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín,
tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín,
tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại phải bồi thường”. Từ
quy định này cho thấy, một chủ thể sẽ không phải gánh chịu trách nhiệm dân
sự nếu hành vi gây thiệt hại của họ không có lỗi. Điều đó cũng có nghĩa là
không thể chỉ căn cứ vào thiệt hại và hành vi gây thiệt hại để buộc một người

phải gánh chịu trách nhiệm dân sự. Do đó việc xác định lỗi của người gây
thiệt hại có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại.
Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi trái pháp luật của
mình, nếu nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình song vẫn cố tình
xử sự và như vậy buộc họ phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình.
Người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại buộc phải chịu trách nhiệm dân sự
khi họ có lỗi. Xác định lỗi của người gây thiệt hại không chỉ có ý nghĩa quan


12
trọng khi quyết định họ phải có TNBTTH mà còn có ý nghĩa quyết định khi
xác định mức BTTH. Về mặt hình thức lỗi thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý.
- Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của
mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc
không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
- Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có
khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy
trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ
không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Lỗi trong trách nhiệm dân sự có thể là lỗi suy đoán tức là hành vi gây
thiệt hại là hành vi trái pháp luật nên người thực hiện hành vi đó bị suy đoán
là người có lỗi. Điều này đươc thể hiện ở khoản 3 Điều 606 Bộ luật Dân sự
“Nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong vịêc giám hộ,
thì không phải lấy tài sản của mình đề bồi thường”. Quy định này của pháp
luật xuất phát từ đặc thù cơ bản của ngành luật dân sự là các đuơng sự tự định
đoạt, tức là tự yêu cầu toà án giải quyết các yêu cầu của mình, tự thay đổi yêu
cầu của mình, tự rút yêu cầu của mình. Do đó khi họ đưa yêu cầu của mình ra
trước toà án thì ho phải có các chứng cứ để chứng minh yêu cầu, nguyện vọng
của mình là đúng. Bên có hành vi gây thiệt hại không cần phải chứng minh lỗi

của mình, họ chỉ phải chứng minh cho yêu cầu của họ hoặc đưa ra chứng cứ
chứng minh rằng lỗi đó không phải do họ thực hiện.
Vấn đề lỗi trong trách nhiệm dân sự có những đặc điểm khác với lỗi
trong trách nhiệm hình sự. Trong trách nhiệm hình sự, hình thức lỗi và mức
độ lỗi có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội danh và quyết định hình phạt
nên bắt buộc phải có sự phân biệt chi tiết các mức độ lỗi khác nhau. Trong
trách nhiệm dân sự, nguyên tắc xuyên suốt là bồi thường “toàn bộ” thiệt hại
xảy ra nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu của đối tượng bị tác động, việc
phân loại lỗi ít khắt khe hơn.


13
Trong trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại vấn đề hình thức lỗi, mức độ
lỗi ảnh huởng rất ít đến việc xác định trách nhiệm thậm chí người gây thiệt
hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi (khoản 3 Điều 623
BLDS). Tuy nhiên, có trường hợp người gây thiệt hại có thể được giảm mức
bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế
trước mắt và lâu dài của họ hoặc thiệt hại do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, thì
không phải bồi thường.
- Có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi thiệt hại xảy ra do kết
quả trực tiếp, tất yếu của hành vi trái pháp luật. Đó là mối quan hệ vận động
nội tại mà về nguyên tắc, nguyên nhân phải xảy ra trước kết quả trong khoảng
thời gian xác định và hành vi hành vi trái pháp luật là hành vi nguyên nhân trực
tiếp hoặc là nguyên nhân có ý nghĩa quyết định đối với thiệt hại xảy ra
Trên thực tế, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp
luật và thiệt hại xảy ra là một vấn đề rất khó khăn. Bởi vì, thông thường mối
quan hệ này bị tác động qua lại bởi các yếu tố xã hộ khác như điều kiện, hoàn
cảnh thực thực hiện hành vi hay trạng thái sức khoẻ của chính người bị hại.
Do vậy, muốn xác định đúng đắn mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái

pháp luật và thiệt hại xảy ra, cần phải chú ý một số đặc điểm sau:
- Về mặt thời gian, hành vi trái pháp luật phải xảy ra trước hậu qua
nguy hiểm cho xã hội về mặt thời gian, tức là hành vi trái pháp luật chỉ được
coi là nguyên nhân gây ra thiệt hại khi nó xảy ra trước, có trước thiệt hại.
Thiệt hại xảy ra là sự nối tiếp về mặt thời gian của hành vi trái pháp luật
- Hành vi trái pháp luật độc lập hoặc trong mối tổng hợp với một hoặc
nhiều hiện tượng khác phaỉ chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả
ngy hiểm cho xã hội
- Hậu quả nguy hiểm đã xảy ra phải đúng là sự hiện thực hoá khả năng
thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi trái pháp luật – hoặc là khả năng
trực tiếp làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động hoặc là
khả năng để sự biến đổi đó tiếp tục diễn ra không bị ngăn chặn.


14
Mối quan hệ nhân quả có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách
nhiệm BTTH , nhưng trên thực tế, việc xem xét và đánh giá mối quan hệ nhân
quả đảm bảo khách quan, toàn diện để rút ra kết luận chính xác là rất phức tạp,
khó khăn. Một mặt, thiệt hại có thể có rất nhiều nguyên nhân, vậy, xác định
nguyên nhân nào là chủ yếu, trực tiếp là hết sức quan trọng và cần thiết.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CƠ QUAN
TIẾN HÀNH TỐ TỤNG VÀ NGƢỜI CÓ THẨM QUYỀN CỦA CƠ QUAN
TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
1.2.1 Cơ quan tiến hành tố tụng.
Cơ quan tiến hành tố tụng là cơ quan nhà nước, độc lập thực thi quyền
tư pháp trong giải quyết các vụ việc theo thủ tục tố tụng do luật định nhằm
bảo vệ pháp luật và pháp chế XHCN, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức, nhà nước.
Quá trình tố tụng hình sự được phân chia thành các giai đoạn tố tụng
khác nhau. Tương ứng với các giai đoạn tố tụng đó, có những cơ quan nhất

định được pháp luật quy định thực hiện những hoạt động tố tụng cụ thể trong
giai đoạn đó. Các cơ quan đó được gọi là các cơ quan tiến hành tố tụng. Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định các cơ quan tiến hành tố tụng gồm có:
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Các cơ quan tiến hành tố tụng có
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn riêng nhưng hoạt động trong mối liên hệ
mật thiết với nhau, phối hợp trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan,
nhằm kịp thời phát hiện chính xác và xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm
tội, không để lọt tội phạm
Cơ quan điều tra
Theo pháp lệnh tổ chức và điều tra hình sự năm 2004 hệ thống cơ quan
điều tra gồm : cơ quan điều tra trong công an nhân dân, cơ quan điều tra trong
quân đội nhân dân, cơ quan điều tra của viện kiểm sát nhân dân tối cao
Cơ quan điều tra trong công an nhân dân gồm có : Cơ quan cảnh sát
điều tra bộ công an, cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp tỉnh, cơ quan điều


15
tra công an cấp huyện, Cơ quan An ninh điều tra bộ công an, cơ quan an ninh
điều tra công an cấp tỉnh
Cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân gồm có: Cơ quan điều tra
Hình sự Bộ quốc phòng; cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương;
cơ quan điều tra hình sự khu vực; cơ quan an ninh điều tra quân khu và tương
đương.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao có cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân
dân tối cao và cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương.
Cơ quan điều tra có nhiệm vụ tiến hành điều tra tất các tội phạm, áp
dụng mọi biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định để xác định tội
phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ đề nghị truy tố; tìm ra
nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan tổ chức hữu quan áp
dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa.

Với nhiệm vụ và vai trò quan trọng như trên nên trong hoạt động điều
tra, các cơ quan điều tra luôn phải tuân thủ các nguyên tắc của pháp luật tố
tụng như: mội hoạt động điều tra tuân theo các quy định của pháp luật, hoạt
động điều tra phải tôn trọng sự thật, tiến hành một cách khách quan, toàn diện
và đầy đủ, phát hiện nhanh chóng, chính xác mọi hành vi phạm tội, làm rõ
những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ xác định vô tội, những
tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người có
hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội
Trong toàn bộ quá trình điều tra việc giám sát, kiểm tra, kiểm sát đối
với hoạt động điều tra rất quan trọng bởi lẽ, kết quả điều tra là cơ sở để truy tố,
xét xử người có hành vi phạm tội, việc điều tra sai sẽ dẫn đến việc truy tố, xét
xử sai. Luật tố tụng Hình sự và pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự đã quy định
cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ
quan điều tra và điều tra viên đồng thời đưa ra cơ chế kiểm sát của kiểm sát
viên đối với hoạt động điều tra nhằm đảm bảo hoạt động của các cơ quan điều
tra, của các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra phải


16
tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và pháp lệnh tổ chức điều tra
hình sự nhằm tránh những oan,sai có thể xảy ra.
Bên cạnh hệ thống cơ quan điều tra chuyên trách. Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 còn quy định
khá cụ thể hệ thống các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra và nhiệm vụ quyền hạn cụ thể của các cơ quan này như:
Bộ đội biên phòng; lực lượng cảnh sát biển; hải quan; kiểm lâm; các cơ quan
khác của công an nhân dân, quân đội nhân dân được giao nhiệm tiến hành
một số hoạt động điều tra.
Quy định của pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 đã cho thấy
sự đổi mới trong mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra, so với

những quy định trước đây, tuy nhiên những quy định trong Pháp lệnh này vẫn
chưa bảo đảm được sự tập trung, thống nhất trong hệ thống cơ quan điều tra
Công an nhân dân( Cơ quan cảnh sát điều tra, cơ quan an ninh điều tra) và
trong Quân đội nhân dân( cơ quan điều tra hình sự, cơ quan an ninh điều tra).
Do đó việc xây dựng cơ chế nhằm tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan
điều tra là hết sức cần thiết nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp của hệ thống cơ
quan điều tra trong đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Viện kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Theo quy
định tại điều 137 Hiến pháp 1992, điều 1 luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
2002, thì Viện kiểm sát có nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp, góp phần đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, bộ luật tố tụng hình
sự đã quy định cụ thể quyền hạn và nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tố tụng
tại các điều luật.
Theo luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân 2002, thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra những vụ án hình sự biện pháp mà Viện kiểm sát trực


17
tiếp quyết định: như quyết định khởi tố bị can, quyết định áp dụng, thay đổi,
huỷ bỏ các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, phê chuẩn, không phê chuẩn các
quyết định của cơ quan điều tra, quyết định của cơ quan điều tra, quyết định
truy tố bị can, đọc cáo trạng, thực hiện việc luận tội.
Kiểm sát các hoạt động tư pháp bao gồm: Kiểm sát việc khởi tố, điều
tra, bắt giam giữ, xét xử án hình sự, kiểm sát việc giải quyết các vụ án Dân sự,
hành chính, kinh tế, lao động…
Với tư cách là cơ quan kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân thực hành
quyền công tố, truy tố người vi phạm ra trước cơ quan xét xử và kiểm sát hoạt

động bắt, giam, giữ, thi hành án, bảo đảm mọi hành vi vi phạm pháp luật phải
được phát hiện kịp thời và tội phạm phải bị truy tố trước pháp luật; đồng thời
việc bắt để tạm giam, tạm giữ và chế độ giam giữ phạm nhân phải đúng pháp
luật, tránh oan sai và đặc biệt là tôn trọng nhân phẩm con người.
Toà án
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Theo Điều 162 Hiến pháp 1992, Điều 1 Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân 2002, thì Tòa án có nhiệm vụ xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân
và gia đình. lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy
định của pháp luật để bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của
tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Hệ thống toà ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm các
Tòa án sau đây:
1. Tòa án nhân dân tối cao;
2. Các tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
3. Các tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
4. Các tòa án quân sự;
5. Các tòa án khác do luật định.


18
Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập
Tòa án đặc biệt.
Toà án Việt Nam áp dụng một hệ thống xét xử gồm hai cấp. Trong
trường hợp một bên đương sự không chấp nhận phán xét của tòa sơ thẩm thì
có thể đề nghị xét xử phuc thẩm. Phán quyết của tòa phúc thẩm là phán quyết
cuối cùng và phải được thi hành. Nếu như sau khi bản án có hiệu lực pháp
luật, bằng chứng mới lại được tìm ra thì một bên đương sự có thể đề nghị với
Chánh án Tòa án nhân dân hoặc Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh

trở lên theo thẩm quyền phù hợp xem xét theo thủ tục tái thẩm hoặc nếu phát
hiện ra có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng thì một bên đương sự có
thể đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.
Theo trình tự tố tụng thì hoạt động xét xử của Toà án là giai đoạn quan
trọng nhất bởi vì chỉ tòa án mới được quyền kết tội một người. Do đó, căn cứ
vào những hành vi vi phạm pháp luật, chỉ có tòa án mới có quyền phán xét
một công dân có tội hay không có tội và nếu có tội, chỉ tòa án mới có quyền
áp dụng các chế tài hình sự. Theo quy định tại điều 1 Luật tổ chức toà án nhân
dân 2002 , thì toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các
Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là các cơ quan xét xử của
nước Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Toà án, với tư cách là cơ quan xét xử của Nhà nước có thẩm quyền
tuyên bố một người là có tội hay vô tội, do đó hoạt động xét xử của tòa án liên
quan trực tiếp tới sinh mệnh, quyền tự do của con người, trong toàn bộ hoạt
động của mình toà án phải hoạt động có hiệu quả, bảo đảm tính độc lập,
khách quan và vô tư. Tính độc lập, khách quan và vô tư phải trở thành nguyên
tắc xuyên suốt, nguyên tắc nền tảng trong hoạt động thực hiện chức năng xét
xử của toà án. Trong hoạt động của mình, toà án không chịu bất kỳ một tác
động nào từ phía cơ quan lập pháp cũng như hành pháp. đảm bảo rằng phán
quyết của Toà án không chỉ nhân danh quyền lực nhà nước mà còn phải nhân
danh công lý. Xét xử phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt


19
tội phạm và không làm oan người vô tội, muốn vậy cần phải sớm xây dựng cơ
chế trách nhiệm nghề nghiệp; cá thể hóa trách nhiệm cá nhân trong hoạt động
xét xử.
Mối quan hệ giữa tòa án, cơ quan điều tra và Viện kiểm sát
Nếu như mối quan hệ giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát là mối
quan hệ trực tiếp để cùng thực hiện nhiệm vụ tố tụng tại cùng một giai đoạn tố

tụng, thì mối quan hệ giữa cơ quan điều tra và tòa án không phản ánh mối
quan hệ phụ thuộc nhau, không có tính chế ước nhau trong hoạt động tố tụng,
cơ quan điều tra không thể tự mình đưa vụ án và đề nghị Tòa án xét xử.
Ngược lại, Tòa án không buộc cơ quan điều tra phải làm hay không được làm
một việc trong hoạt động tố tụng. Tất cả sự tác động giữa cơ quan điều tra và
Tòa án đều phải thông qua Viện kiểm sát.
Mối quan hệ giữa cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án cấu tạo nên
các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Trong đó tòa án là trung tâm, hoạt động
tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng dựa trên cơ sở pháp luật tố
tụng hiện hành.
Hoạt động tố tụng là một quá trình liên tục trong giải quyết vụ án, cho
nên mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng chiếm vai trò quan trọng
đòi hỏi phải được củng cố thường xuyên. Trong bộ luật tố tụng hình sự, tuy
rằng không có quy định cụ thể về mối quan hệ, nhưng nội dung những quy
phạm pháp luật đã phản ánh về mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng. Mặc dù vậy, trong quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng không
phải không tồn tại những vấn đề như sự phối hợp không đồng bộ trong việc
giải quyết vụ án. Giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, giữa cơ quan điều
tra và Tòa án. Giữa Viện kiểm sát với Tòa án cũng có những quan điểm khác
nhau khi giải quyết vụ án hình sự
Giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, Giữa cơ quan điều tra và Tòa
án, giữa Tòa án và Viện Kiểm sát cần phải xây dựng được quy chế quy định
về sự phối hợp chế ước lẫn nhau nhằm cụ thể hóa quy định của pháp luât tố


20
tụng hình sự, giúp cho những người tiến hành tố tụng của mỗi cơ quan tiến
hành tố tụng thực hiện đúng luật định, đồng thời tránh được những sai lầm có
thể xảy ra trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
1.2.2 Ngƣời tiến hành tố tụng.

Trong mỗi cơ quan tiến hành tố tụng, pháp luật quy định những người
có thẩm quyền tiến hành hành các hành vi tố tụng trong từng giai đoạn tố tụng.
Những người đó được gọi là người tiến hành tố tụng
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, thì người tiến
hành tố tụng gồm có : Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra, điều tra
viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm, thư ký tòa án.
Đối với Thủ truởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó
viện trưởng Viện Kiểm sát; Chánh án, Phó chánh án Tòa án khi thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn, họ vừa là người tiến hành tố tụng, vừa đại diện cho cơ
quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, đối với Phó thủ trưởng cơ quan điều tra,
Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Phó chánh án Tòa án nhân dân họ
không phải là người đại diện đương nhiên cho cơ quan tiến hành tố tụng. Nếu
họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện cơ quan tiến hành tố tụng thì
phải được người đứng đầu ủy nhiệm và nhân danh người đứng đầu. Nhưng
nếu tham gia tố tụng với tư cách là người tiến hành tố tụng thì họ hoàn toàn
có thẩm quyền độc lập.
Về nguyên tắc người tiến hành tố tụng phải thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của mình theo quy định của pháp luật. Trong quá trình tiến hành tố tụng,
cơ quantiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực
hiện những quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về những hành
vi, quyết định của mình.
Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý
kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Người bị thiệt hại do cơ quan


21
hoặc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền
được bồi thường thiệt hại.
Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự phải bồi

thường cho người bị thiệt hại; người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn
cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Thủ trƣởng, Phó thủ trƣởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên
Bộ luât tố tụng hình sự năm 2003, ngoài việc quy định nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhhiệm của Thủ trưởng cơ quan điều tra còn quy định cả nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Phó thủ trưởng cơ quan điều tra; nội dung
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan
điều tra được quy định tại điều 34 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 vơi hai
nhóm nhiệm vụ và:
- Là người đại diện cơ quan tiến hành tố tụng. Khi ở vị trí này, với tư
cách là đại diện cơ quan tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng không
phải từ chối hoặc bị thay đổi. Bộ luật tố tụng dân sự hình sự chỉ quy định
người tiến hành tố tụng phải từ chối hoặc bị thay đổi, mà không thể quy định
thay đổi cơ quan tiến hành tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng khi thực hiện
nhiệm vụ bao giờ cũng phải thông qua người đứng đầu
- Khi thực hiện việc điều tra hoặc được phân công điều tra vụ án hình
sự thì Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra là người tiến hành tố tụng.
Do đó khi thực hiện nhiẹm vụ, quyền hạn này, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ
quan điều tra không nhân danh người đứng đầu Cơ quan điều tra mà nhân
danh cá nhân người tiến hành tố tụng và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
về những hành vi và quyết định của mình. Với tư cách là người tiến hành tố
tụng thì Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra phải từ chối hoặc bị thay
đổi nếu thuộc nhũng trường hợp quy định tại điều 34 Bộ luật tố tụng Hình sự
năm 2003
- Điều tra viên


22
Điều tra viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật.
Điều tra viên trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự.

Do đó, trong quá trình điều tra, Điều tra viên được tiến hành các biện pháp
điều tra do Bộ luật tố tụng hình sự quy định và phải chịu trách nhiệm về
những hoạt động điều tra của mình.
Điều tra viên được phân công điều tra vụ án hình sự có những nhiệm
vụ và quyền hạn sau đây: Lập hồ sơ vụ án hình sự; Triệu tập và hỏi cung bị
can; triệu tậpvà lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án;
Quyết định dẫn giải bị can, quyết định dẫn giải người làm chứng; Thi hành
lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam,khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản; Tiến
hành khám nghiệm hiện trường,khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, thực
nghiệm điều tra; Tiến hành các hoạt động điều tra khác thuộc thẩm quyền của
Cơ quan điều tra theo sự phân công của Thủ trưởng Cơ quan điều tra.
Điều tra viên phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu:
- Họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền và lưọi ích hợp pháp liên quan đến vụ án; là người đại diện
hợp pháp, người thân thích của nhũng người đó hoặc của bị can, bị cáo .
- Họ đã tham gia với tư cách người bào chữa, người làm chứng, người
giám định, người phiên dịch trong vụ án đó.
- Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ không vô tư trong khi làm
nhiệm vụ.
- Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là kiểm sát viên,
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân hoặc Thư ký tòa án
Việc thay đổi Điều tra viên do Thủ trưởng cơ quan điều tra quyết định.
Nếu Điều tra viên bị thay đổi là Thủ trưởng Cơ quan điều tra mà thuộc một
trong các trường hợp trên thì việc điều tra vụ án được giao cho cơ quan điều
tra cấp trên. Tuy Bộ luật Tố tụng Hình sự không quy định cụ thể, nhưng trong


23
trường hợp Điều tra viên là Phó thủ trưởng cơ quan điều tra thì việc thay đổi

do Thủ trưởng cơ quan điều tra quyết định.
Viện trƣỏng, phó viện trƣởng và Kiểm sát viên
Cũng như đối với thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Bộ luật
Tố tụng Hình sự năm 2003 quy định Viện trưởng, Phó viện trưởng viện kiểm
sát nhân dân cũng là người tiến hành tố tụng và quy định nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm của họ vừa là người tiến hành tố tụng, vừa đại diện cho cơ
quan tiến hành tố tụng.
- Là người đại diện cho cơ quan tiến hành tố tụng. Viện trưởng, Phó
viện trưởng đựoc Viện trưởng ủy nhiệm có nhũng nhiệm vụ và quyền hạn
được quy định tại điều 36 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, với danh nghĩa
người đứng đầu cơ quan tiến hành tố tụng, nhân danh Viện kiểm sát thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng, Viện trưởng,
Phó viện trưởng không phải từ chối hoặc bị thay đổi khi thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn được giao.
- Là người tiến hành tố tụng Viện trưởng, Phó viện trưởng được Viện
trưởng ủy nhiệm có những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định tại điều …
bộ luật tố tung hình sự. Khi thực hiện nhiệm vụ với tư cách là người tiến hành
tố tụng Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát phải chịu trách nhhiệm cá
nhân về những hành vi và quyết đinh của mình trong hoạt đông tố tụng. Viên
trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn với
tư cách là người tiến hành tố tụng phải từ chối hoặc bị thay đổi nếu rơi vào
một trong những trường hợp quy định tại điều 42 Bộ luật tố tụng hình sự
Khác với Viện trưởng và Phó viện trưởng Viện kiểm sát, đối với Kiểm
sát viên trong qúa trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của họ
chỉ là người tiến hành tố tụng và phải chịu trách nhiệm cá nhân về những
hành vi và quyết đinh của mình
Kiểm sát viên khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, kiểm sát
viên có nhiệm vụ và quyền hạn: kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động
điều tra và lấy hồ sơ vụ án của cơ quan điều tra; đề ra yêu cầu điều tra; triệu tập,

×