Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Chế định người bảo chữa trong luật tố tụng hình sự Việt Nam-lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 118 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGÔ THỊ XUÂN THU



CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM - LÝ
LUẬN
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI
DƢƠNG

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ PHƢỢNG







HÀ NỘI - 2014




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN


Ngô Thị Xuân Thu







MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI
BÀO CHỮA 7
1.1. NHỮNG NHẬN THỨC CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI
BÀO CHỮA 7
1.1.1. Khái niệm chế định ngƣời bào chữa 7
1.1.2. Chủ thể bào chữa 10
1.1.3. Đối tƣợng bào chữa 16
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA NGƢỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ 19
1.2.1. Vị trí của ngƣời bào chữa 19
1.2.2. Vai trò của ngƣời bào chữa 23
1.3. CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA TRONG MỘT SỐ MÔ HÌNH
TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRÊN THẾ GIỚI 26
1.3.1. Trong mô hình tố tụng tranh tụng 26
1.3.2. Trong mô hình tố tụng xét hỏi 29
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 33
Chương 2: QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO
CHỮA VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH HẢI DƢƠNG 35
2.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA 35




2.1.1. Quyền của ngƣời bào chữa 35
2.1.2. Nghĩa vụ của ngƣời bào chữa 48
2.2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA TẠI
TỈNH HẢI DƢƠNG 54
2.2.1. Những kết quả đạt đƣợc và nguyên nhân 54
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân 63
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 72
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG CÁC QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA 73
3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN CÁC QUI ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ CHẾ ĐỊNH
NGƢỜI BÀO CHỮA 73
3.2. HOÀN THIỆN CÁC QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ
ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA 76
3.2.1. Hoàn thiện các qui định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về
chế định ngƣời bào chữa 76
3.2.2. Hoàn thiện các qui định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
và các văn bản pháp luật khác có liên quan đến chế định
ngƣời bào chữa 89
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHÁC 96
KẾT LUẬN 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BCVND
: Bào chữa viên nhân dân
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT
: Cơ quan điều tra
CQTHTT
: Cơ quan tiến hành tố tụng
HĐXX
: Hội đồng xét xử
LS
: Luật sƣ
NBTG
: Ngƣời bị tạm giữ
TA
: Tòa án
THTT
: Tiến hành tố tụng
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
TTHS
: Tố tụng hình sự
VAHS
: Vụ án hình sự
VKS
: Viện Kiểm sát






DANH MỤC CÁC BẢNG

Stt
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
1
Bảng 2.1:
Số lƣợng LS của tỉnh Hải Dƣơng từ tháng 10/1989
đến tháng 12/2013
55
2
Bảng 2.2:
Số VAHS có LS tham gia bào chữa từ năm
2008-2013
57
3
Bảng 2.3:
Số vụ án ở các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử từ
năm 2008 đến năm 2013 và số vụ án LS tham gia
bào chữa qua các giai đoạn TTHS
64
4
Bảng 2.4:
Số bị can, bị cáo thuộc diện ngƣời đƣợc trợ giúp
pháp lý đƣợc bào chữa miễn phí qua các năm từ 2008

đến 2013
66






1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hiện nay, nƣớc ta đang tiến hành công cuộc cải cách toàn diện về tƣ
pháp hình sự theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và
Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị, trong đó trọng
tâm là mở rộng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự và mở rộng
hơn nữa quyền của ngƣời bào chữa (NBC), ngƣời bị tạm giữ (NBTG), bị can,
bị cáo. Đây là cơ sở vững chắc để nâng cao hiệu quả bảo đảm tính công bằng
của pháp luật, tính dân chủ, công khai của quá trình giải quyết vụ án hình sự
(VAHS) và bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp, quyền dân chủ cho con
ngƣời, thể hiện nguyên tắc “bảo đảm quyền bào chữa của NBTG, bị can, bị
cáo” đã đƣợc Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) ghi nhận, giúp cho việc giải
quyết vụ án đƣợc chính xác, khách quan, hiệu quả, đúng pháp luật. Đây là
một nguyên tắc không thể thiếu của pháp luật tố tụng hình sự (TTHS), trong
đó chế định NBC là một chế định quan trọng trong việc thực hiện quyền bào
chữa của NBTG, bị can, bị cáo.
Để thực hiện yêu cầu tranh tụng, một trong những biện pháp quan trọng
là phải ghi nhận chế định NBC trong BLTTHS. Trong Hiến pháp, pháp luật
của nƣớc ta nói chung và TTHS nói riêng đã có các qui định thể chế hóa
quyền, nghĩa vụ của NBC. Tuy nhiên, cho đến nay trong lý luận và thực tiễn

TTHS vẫn chƣa có khái niệm chính thức và thống nhất về chế định NBC.
Đồng thời, những qui định của BLTTHS hiện hành chƣa qui định đầy đủ về
các chủ thể NBC, đối tƣợng bào chữa hoặc có qui định nhƣng dƣờng nhƣ lại
ít đƣợc áp dụng trên thực tế, còn hạn chế một số quyền của NBC, một số qui
định về NBC trong pháp luật TTHS còn nhiều vƣớng mắc, bất cập khi áp
dụng, đòi hỏi khoa học Luật TTHS phải nghiên cứu, giải quyết làm sáng tỏ về
mặt lý luận trong khi vấn đề này vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí



2
trái ngƣợc nhau. Do đó, cần thiết phải có hƣớng sửa đổi, bổ sung cho phù hợp
với thực tiễn.
Từ việc nghiên cứu các qui định của pháp luật TTHS và các văn bản
pháp luật khác có liên quan. Qua phân tích, đánh giá một số công trình nghiên
cứu khoa học có liên quan đến chế định NBC, đặc biệt qua thực tiễn công tác
và với mong muốn góp phần nâng cao việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật
TTHS Việt Nam về chế định NBC, tác giả đã lựa chọn và thực hiện nghiên
cứu ở cấp độ Thạc sĩ với đề tài: “Chế định người bào chữa trong Luật tố
tụng hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải
Dương” làm Luận văn nghiên cứu của mình là hết sức cần thiết và có ý nghĩa
không những về lý luận mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Chế định NBC là chế định hết sức quan trọng và cần thiết trong TTHS.
Bởi xuất phát từ vị trí, vai trò và chức năng đặc biệt của NBC. Trong các công
trình khoa học của các nhà nghiên cứu, nhà luật học, đã có nhiều đề tài
nghiên cứu về chế định này ở những mức độ, khía cạnh, phƣơng diện khác
nhau nhƣ: “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong TTHS” của
PGS.TS. Hoàng Thị Sơn; “Bào chữa cho các nhóm dễ bị tổn thương theo
Luật TTHS Việt Nam” của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí; “Địa vị pháp lý của

Luật sư trong hoạt động tranh tụng” và “Bảo đảm quyền bào chữa của người
bị buộc tội” của PGS.TS.LS. Phạm Hồng Hải; “Vai trò của Luật sư trong tố
tụng hình sự” của TS. Nguyễn Văn Tuân; “Hành nghề Luật sư trong vụ án
hình sự” của TS.LS. Phan Trung Hoài; “Về chế định người bào chữa” của TS.
Đinh Văn Quế; “Mô hình TTHS Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”
của TS. Dƣơng Thanh Biểu; “Vấn đề tranh tụng trong hoạt động TTHS và
việc thể chế hóa trong quá trình hoàn thiện BLTTHS Việt Nam” của TS. Lê
Hữu Thể; “Mô hình TTHS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của
PGS. TS Nguyễn Thái Phúc,…



3
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chủ yếu đƣa ra các nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, bị cáo, về vai trò của một chủ thể bào chữa đó là
LS mà ít có các công trình khoa học nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện,
thống nhất và hệ thống về khái niệm chế định NBC, chủ thể, đối tƣợng bào
chữa, đặc biệt là chƣa có công trình khoa học nào nghiên cứu sâu về chế định
Trợ giúp viên pháp lý với tƣ cách là một chủ thể bào chữa mặc dù chế định
này đã đƣợc qui định trong Luật Trợ giúp pháp lý từ năm 2006.
Nhƣ vậy, tình hình nghiên cứu trên đây cho phép một lần nữa khẳng
định việc nghiên cứu đề tài “Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng
hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải
Dương” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực
tiễn. Đây là một trong những vấn đề có nội dung phong phú và phức tạp cần
tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hơn nữa trong khoa học
TTHS cũng nhƣ thực tiễn áp dụng ở nƣớc ta hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của của Luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu các qui định của pháp luật TTHS và các văn bản pháp

luật có liên quan về chế định NBC. Để phục vụ mục đích này, đề tài nghiên
cứu tập trung làm sáng tỏ những quan điểm khoa học, những qui định của
pháp luật TTHS về chế định NBC.
- Tổng hợp số liệu thống kê trong hoạt động thực tiễn áp dụng chế định
NBC trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng, đƣa ra phân tích, đánh giá những điểm còn
bất cập, hạn chế khi áp dụng chế định này trong thực tiễn.
- Đề xuất những giải pháp phù hợp và khả thi nhằm hoàn thiện pháp
luật TTHS Việt Nam hiện hành về chế định NBC, góp phần nâng cao chất
lƣợng bào chữa, đảm bảo thực hiện các nguyên tắc: “Quyền bào chữa của bị
can, bị cáo được bảo đảm”; “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm” mà BLTTHS năm 2003 và Hiến pháp 2013 đã ghi nhận.



4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về chế định NBC
nhƣ: khái niệm NBC và chế định NBC; chủ thể; đối tƣợng bào chữa; địa vị
pháp lý NBC; chế định NBC trong một số mô hình TTHS trên thế giới.
- Tìm hiểu và đánh giá thực trạng áp dụng chế định NBC trên địa bàn tỉnh
Hải Dƣơng, đồng thời phân tích làm rõ những kết quả đạt đƣợc, những hạn chế,
tồn tại xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân của hạn chế đó.
- Đề tài nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện chế định
NBC trong luật TTHS Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này
trong thực tiễn.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu chế định NBC trong Luật TTHS Việt Nam hiện hành
và trong một số mô hình TTHS trên thế giới, kết hợp với việc nghiên cứu,
đánh giá thực tiễn áp dụng chế định này trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng trong
giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2013.

3.4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của Luận văn là các quan điểm khoa học và
những qui định của pháp luật TTHS Việt Nam và các văn bản pháp luật
khác có liên quan đến chế định NBC, những tƣ liệu thực tiễn của các
CQTHTT, Đoàn LS, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nƣớc trên địa bàn tỉnh
Hải Dƣơng. Bên cạnh đó, những văn bản pháp luật của một số nƣớc trên
thế giới có liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu cũng đƣợc đề cập
nhằm làm sáng tỏ chế định NBC.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của Luận văn: là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về
chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, tƣ tƣởng của Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về cải cách tƣ pháp đƣợc thể hiện



5
trong Nghị quyết số 08[21] và Nghị quyết số 49[22], Hiến pháp năm 2013.
Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng, kế thừa các thành tựu khoa học của chuyên
ngành pháp lý, luận điểm nghiên cứu của các nhà luật học, các công trình
nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết chuyên ngành pháp lý đƣợc đăng
trên các sách, báo, tạp chí, các trang báo điện tử về chế định NBC trong TTHS.
Cơ sở thực tiễn của Luận văn: dựa trên cơ sở nghiên cứu các qui định
của pháp luật TTHS và các văn bản pháp luật khác có liên quan, các tƣ liệu
thực tiễn của các CQTHTT, Đoàn LS, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nƣớc
trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng trong việc áp dụng chế định NBC.
Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phƣơng pháp duy vật biện chứng,
phƣơng pháp duy vật lịch sử và để thực hiện tốt những nhiệm vụ đặt ra của đề
tài, những phƣơng pháp chung đƣợc áp dụng để nghiên cứu là: phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu, diễn dịch, quy nạp, khảo sát thực tế,…
5. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận văn

Đây là một trong những công trình khoa học ở cấp độ Thạc sỹ tiếp cận
về chế định NBC trong pháp luật TTHS Việt Nam. Đề tài nghiên cứu có
những đóng góp mới nhƣ sau:
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về chế định NBC trong Luật TTHS Việt
Nam và trong một số mô hình TTHS trên thế giới. Từ đó, đƣa ra khái niệm
khoa học về chế định NBC.
- Luận văn khảo cứu các qui định pháp luật về chế định NBC, đánh giá
thực trạng áp dụng các qui định đó trên địa bàn tỉnh Hải Dƣơng. Phân tích
làm rõ những kết quả đạt đƣợc, những tồn tại, hạn chế khi áp dụng chế định
này, nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đƣa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về chế
định NBC, đặc biệt là bổ sung thêm một số chủ thể, đối tƣợng bào chữa chƣa
đƣợc qui định trong BLTTHS nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này



6
trong giai đoạn xây dựng nhà nƣớc pháp quyền và cải cách tƣ pháp ở Việt
Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn có những đóng góp nhất định trên phƣơng
diện lý luận về chế định NBC.
Về mặt thực tiễn: Nội dung và kết quả nghiên cứu của Luận văn góp
phần nâng cao chất lƣợng bào chữa, đảm bảo thực hiện nguyên tắc “Bảo đảm
quyền bào chữa của NBTG, bị can, bị cáo”. Ngoài ra, Luận văn còn có ý
nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các sinh viên, học viên cao học
thuộc chuyên ngành tƣ pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật, những nhà hoạt
động thực tiễn và những ai quan tâm đến vấn đề này. Đặc biệt, có thể là tài
liệu tham khảo trong quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm
2003 và một số văn bản pháp luật khác có liên quan đến chế định NBC.

7. Bố cục của Luận văn
Bố cục của Luận văn đƣợc xây dựng phù hợp với mục đích, đối tƣợng
và phạm vi nghiên cứu. Ngoài phần Mục lục, Danh mục các từ viết tắt, Danh
mục các bảng, Mở đầu, Kết luận, Danh mục các tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 3 chƣơng với kết cấu nhƣ sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về chế định ngƣời bào chữa
Chương 2: Qui định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về chế
định NBC và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dƣơng
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các qui
định của pháp luật TTHS về chế định NBC



7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI BÀO CHỮA

1.1. NHỮNG NHẬN THỨC CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI
BÀO CHỮA
1.1.1. Khái niệm chế định ngƣời bào chữa
NBC là một chế định quan trọng trong pháp luật TTHS Việt Nam, cho
đến nay vẫn cần đƣợc làm sáng tỏ về mặt lý luận làm tiền đề cho việc thực
hiện nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của NBTG, bị can, bị cáo”. Tuy
nhiên, trong khoa học pháp lý và thực tiễn TTHS hiện nay, chƣa có khái niệm
thống nhất về chế định này, nên vẫn tồn tại nhiều cách hiểu và quan điểm
khác nhau thể hiện trong các sách chuyên khảo, giáo trình, các bài báo, tạp chí
cũng nhƣ trong qui định của pháp luật TTHS. Để đƣa ra khái niệm khoa học
về chế định NBC chúng ta cần hiểu đƣợc khái niệm chế định pháp luật và
khái niệm NBC. “Chế định pháp luật bao gồm một số quy phạm có những
đặc điểm chung giống nhau nhằm để điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội

tương ứng”[57, tr.402].
Về khái niệm NBC, trong khoa học pháp lý hiện nay có nhiều quan
điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng: “NBC là người tham gia tố tụng với
mục đích làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án nhằm chứng minh sự vô tội
hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và giúp bị can, bị
cáo về mặt pháp lý cần thiết”

[16, tr.153]. Tƣơng tự nhƣ vậy, có quan điểm
cho rằng: “NBC trong TTHS là người tham gia tố tụng để chứng minh sự vô
tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS của người bị buộc tội, giúp người bị buộc tội
về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thông qua đó
góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”[2]. Quan điểm khác cho rằng:
“NBC là người được các CQTHTT chứng nhận, tham gia tố tụng để đưa ra



8
những tình tiết xác định NBTG, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của NBTG, bị can, bị cáo và giúp đỡ NBTG, bị can, bị cáo
về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ” [58, tr.137]
Có thể nói, các quan điểm trên xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau trên
cơ sở nghiên cứu chế định NBC trong Luật TTHS Việt Nam và thực tiễn thi
hành luật. Mỗi quan điểm đều nhấn mạnh một hoặc một số đặc điểm của
NBC, chƣa đƣa ra một cách khái quát, đầy đủ khái niệm NBC. Do đó, dễ dẫn
đến cách hiểu khái niệm NBC chỉ bao gồm trách nhiệm, mục đích của NBC
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NBTG, bị can, bị cáo mà
chƣa khái quát hết các qui định của pháp luật TTHS về điều kiện, tiêu chuẩn,
vị trí, vai trò tham gia tố tụng của NBC, chƣa mở rộng việc bào chữa đối với
ngƣời bị bắt, ngƣời bị kết án mặc dù việc giúp đỡ họ về mặt pháp lý và bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho họ là vô cùng quan trọng và cần thiết.

Vì vậy, theo chúng tôi một khái niệm đầy đủ về NBC phải thể hiện
đƣợc các đặc điểm về NBC và phạm vi đối tƣợng bào chữa nhƣ sau:
Thứ nhất, NBC là người tham gia tố tụng. Đặc điểm này nhằm phân
biệt NBC với ngƣời THTT. Bởi ngƣời THTT là ngƣời nhân danh và sử dụng
quyền lực nhà nƣớc để giải quyết VAHS. NBC chỉ là ngƣời tham gia làm
sáng tỏ những tình tiết của vụ án, giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
NBTG, bị can, bị cáo, không phải là ngƣời trực tiếp giải quyết VAHS.
Thứ hai, NBC tham gia tố tụng với mục đích đưa ra những tình tiết xác
định người bị bắt, NBTG, bị can, bị cáo, người bị kết án vô tội, những tình tiết
giảm nhẹ TNHS đối với họ và giúp đỡ họ về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ. Đặc điểm này xác định nhiệm vụ, mục đích tham
gia tố tụng của NBC đối với đối tƣợng bào chữa. Theo chúng tôi, nên mở
rộng phạm vi đối tƣợng bào chữa không chỉ bao gồm NBTG, bị can, bị cáo
nhƣ trong qui định của BLTTHS hiện hành mà bao gồm cả ngƣời bị bắt cho



9
phù hợp với qui định của Hiến pháp năm 2013 và ngƣời bị kết án nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ trong giai đoạn thi hành án.
Thứ ba, NBC là người được các CQTHTT chứng nhận thông qua việc
cấp Giấy chứng nhận NBC. Đặc điểm này đƣợc qui định tại khoản 4 Điều 56
BLTTHS năm 2003.
Thứ tư, NBC là người đáp ứng đầy đủ các điều kiện do pháp luật qui
định. Bởi không phải bất cứ ai cũng có thể tham gia tố tụng với tƣ cách là
NBC. Theo qui định của pháp luật thì các điều kiện đó là:
- Phải đƣợc NBTG, bị can, bị cáo hoặc ngƣời đại diện hợp pháp của họ,
những ngƣời khác đƣợc họ ủy quyền mời [43, khoản 1 Điều 57]; [32, điểm 2
Mục II]; đƣợc CQTHTT yêu cầu Đoàn LS phân công Văn phòng LS cử NBC
cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên

của Mặt trận cử NBC cho thành viên của tổ chức mình trong trƣờng hợp bắt
buộc phải có NBC nhƣng NBTG, bị can, bị cáo hoặc ngƣời đại diện hợp pháp
của họ không mời NBC [43, khoản 2, khoản 3 Điều 57]; hoặc do Trung tâm
Trợ giúp pháp lý Nhà nƣớc cử Trợ giúp viên pháp lý hoặc Luật sƣ – Cộng tác
viên tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ngƣời đƣợc trợ giúp
pháp lý là NBTG, bị can, bị cáo [46, Điều 39];
- Phải không thuộc vào một trong những trƣờng hợp không đƣợc bào
chữa theo qui định tại khoản 2 Điều 56 BLTTHS năm 2003;
- Phải đáp ứng điều kiện do các văn bản pháp luật khác qui định. Ví dụ:
đối với NBC là LS thì phải đáp ứng các điều kiện do Luật LS và các văn bản
hƣớng dẫn; đối với NBC là Trợ giúp viên pháp lý thì phải đáp ứng các điều
kiện do Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản hƣớng dẫn,…
Nhƣ vậy, trên cơ sở phân tích các đặc điểm về NBC và sự tiếp thu
những điểm hợp lý, khắc phục những hạn chế trong các khái niệm NBC nói
trên, dƣới góc độ khoa học Luật TTHS, chúng ta có thể rút ra khái niệm về
NBC trong Luật TTHS nhƣ sau: “NBC trong Luật TTHS là người đáp ứng



10
các tiêu chuẩn, điều kiện do pháp luật qui định, được CQTHTT cấp giấy
chứng nhận, tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức để
chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS của người bị bắt, NBTG, bị
can, bị cáo, người bị kết án và giúp đỡ các chủ thể đó về mặt pháp lý trong
các vụ án hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.
Từ hai khái niệm chế định pháp luật và khái niệm NBC, có thể đƣa ra
khái niệm khoa học về chế định NBC nhƣ sau: “Chế định NBC trong luật
TTHS Việt Nam là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhóm các quan
hệ xã hội liên quan tới NBC, trong đó có chủ thể bào chữa, đối tượng bào
chữa, quyền và nghĩa vụ của NBC”.

1.1.2. Chủ thể bào chữa
Một là, Luật sư
Luật sƣ là ngƣời có đủ điều kiện hành nghề theo qui định của pháp luật,
tham gia tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức [45, Điều 2] nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đó theo qui định của pháp luật.
Hoạt động bào chữa của LS có tính chất chuyên nghiệp [58, tr. 137]. Tiêu
chuẩn để trở thành LS phải: là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc,
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng Cử nhân
Luật, đã đƣợc đào tạo nghề LS, đã qua thời gian tập sự hành nghề LS, có sức
khỏe bảo đảm hành nghề LS [45, Điều 10]. Ngƣời có đủ tiêu chuẩn nói trên
muốn đƣợc hành nghề LS phải có Chứng chỉ hành nghề LS và gia nhập một
Đoàn LS [45, Điều 11]. LS có thể tham gia TTHS với tƣ cách NBC theo hợp
đồng dịch vụ pháp lý hoặc theo yêu cầu của CQTHTT.
- Với tƣ cách là NBC theo hợp đồng dịch vụ pháp lý: Tại Điều 26 Luật
LS năm 2006 qui định: LS thực hiện dịch vụ pháp lý theo hợp đồng dịch vụ
pháp lý, trừ trƣờng hợp LS tham gia tố tụng theo yêu cầu của CQTHTT và LS
hành nghề với tƣ cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động cho cơ quan,



11
tổ chức. NBTG, bị can, bị cáo có thể làm giấy trực tiếp yêu cầu và ký hợp
đồng với LS mà mình chọn. Đối với NBTG, bị can, bị cáo không thể gặp trực
tiếp LS, thì ngƣời thân thích của họ có thể làm giấy yêu cầu LS và ký hợp
đồng dịch vụ pháp lý với LS. Trong những trƣờng hợp này nhất thiết phải có
sự đồng ý của NBTG, bị can, bị cáo. Nếu NBTG, bị can, bị cáo đồng ý lựa
chọn NBC, CQTHTT xem xét, cấp Giấy chứng nhận NBC cho LS để thực
hiện việc bào chữa [45, Điều 27];
- Với tƣ cách là NBC theo yêu cầu của CQTHTT: Tại khoản 2 Điều 57
BLTTHS năm 2003 qui định: trong một số trƣờng hợp bắt buộc nếu bị can, bị

cáo hoặc ngƣời đại diện hợp pháp của họ không mời NBC thì CQĐT, VKS
hoặc TA phải yêu cầu Đoàn LS phân công Văn phòng LS cử NBC cho họ. Đó
là những trƣờng hợp: Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao
nhất là tử hình đƣợc qui định tại Bộ luật Hình sự; Bị can, bị cáo là ngƣời chƣa
thành niên, ngƣời có nhƣợc điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Hai là, người đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo
Ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo theo qui định của
BLTTHS năm 2003 cũng là một chủ thể bào chữa nhƣng kể từ khi ban hành
BLTTHS năm 1988 đến nay chƣa có một văn bản quy phạm pháp luật nào
khái niệm về dạng chủ thể bào chữa này. Năm 1988 có một văn bản pháp luật
gián tiếp qui định ngƣời đại diện hợp pháp của bị cáo đó là Thông tƣ liên
ngành số 01/TTLN ngày 18/12/1988 của TA nhân dân tối cao - VKS nhân
dân tối cao qui định: Đại diện hợp pháp của bị cáo chƣa thành niên là bố mẹ
hoặc ngƣời đỡ đầu của họ [54, tr.137]. Tuy nhiên, mới chỉ qui định ngƣời đại
diện hợp pháp của bị cáo mà không bao gồm ngƣời đại diện của NBTG, bị
can và chỉ qui định ngƣời đại diện đối với bị cáo chưa thành niên mà không
phải là bị can, bị cáo thuộc những trƣờng hợp khác nhƣ: ngƣời có nhƣợc điểm



12
về thể chất hoặc tâm thần. Tại Hội nghị tổng kết ngành TA năm 1991, Chánh
án TA nhân dân tối cao khẳng định:
Ngƣời thân thích của bị cáo không phải là NBC, nhƣng thực
tiễn cho thấy có những vấn đề, những tình tiết thuộc về vụ án, thuộc
về nhân thân của bị cáo thì chỉ có ngƣời thân thích mới thấu hiểu và
nắm bắt đƣợc một cách tƣờng tận và do đó họ có thể giúp cho
HĐXX cân nhắc việc xử lý đƣợc chính xác hơn, bảo đảm việc xét xử
của TA đƣợc đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, ngƣời
thân thích của bị cáo có quyền làm NBC cho bị cáo [55, tr.138].

Nội dung hƣớng dẫn trên chứa đựng sự mâu thuẫn khi khẳng định ngƣời
thân thích của bị cáo không phải là NBC nhƣng sau đó lại cho phép ngƣời thân
thích của bị cáo có quyền tham gia TTHS để bào chữa cho bị cáo. Hơn nữa,
hƣớng dẫn này không làm rõ ngƣời thân thích của bị cáo là ai [2]. Một số qui
định khác trong BLTTHS hiện hành và Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán
TA nhân dân tối cao có nhắc tới ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị
cáo [43, Điều 231]; [33, điểm 1 Mục I] nhƣng vẫn không qui định cụ thể hoặc
khái niệm ngƣời đại diện hợp pháp cho NBTG, bị can, bị cáo.
Hiện nay, trong khoa học pháp lý và thực tiễn TTHS vẫn tồn tại các quan
điểm khác nhau về ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo dẫn đến
cách áp dụng khác nhau trên thực tế. Có quan điểm cho rằng ngƣời đại diện
hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo là ngƣời đại diện theo pháp luật. Nhƣng
cũng có quan điểm cho rằng ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo
có thể là ngƣời đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền.
Đối với ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo, BLTTHS
năm 2003 không quy định cụ thể là những ngƣời nào nhƣng theo quy định
của Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ có ngƣời chƣa thành niên, ngƣời mất năng
lực hành vi dân sự mới có ngƣời đại diện hợp pháp đƣơng nhiên (nếu không,



13
phải có ủy quyền hợp pháp). Tuy nhiên, rất hiếm hoặc có thể nói chƣa có
trƣờng hợp nào cha, mẹ hay ngƣời giám hộ của ngƣời chƣa thành niên, ngƣời
có nhƣợc điểm về thể chất hoặc tâm thần đƣợc tham gia bào chữa, đặc biệt từ
giai đoạn điều tra bởi lẽ họ sẽ vừa mang tƣ cách của ngƣời đại diện, ngƣời
giám hộ, vừa mang tƣ cách của NBC. Trƣờng hợp nếu ngƣời đại diện hợp
pháp của NBTG, bị can, bị cáo là ngƣời đại diện theo pháp luật và đại diện
trong trƣờng hợp NBTG, bị can, bị cáo là ngƣời ngƣời chƣa thành niên, ngƣời
có nhƣợc điểm về thể chất hoặc tâm thần nếu họ không tham gia tố tụng với

tƣ cách NBC thì họ cũng có những quyền nhƣ NBTG, bị can, bị cáo, khi đó
họ tham gia tố tụng với tƣ cách là ngƣời đại diện hợp pháp, nếu tham gia tố
tụng với tƣ cách là NBC thì họ có quyền và nghĩa vụ nhƣ đối với NBC. Và
liệu họ có thể đƣợc đọc hồ sơ vụ án, gặp ngƣời đang bị tạm giữ, tạm giam
nhƣ một LS bào chữa hay không? Quy định ngƣời đại diện hợp pháp tham gia
bào chữa chỉ mang tính hình thức và không khả thi.
Ba là, Bào chữa viên nhân dân
Chế định BCVND ở Việt Nam ra đời trên cơ sở Sắc lệnh số 69/SL ngày
18/6/1949, Nghị định số 01/NĐ-VY ngày 12/01/1950 của Bộ Tƣ pháp quy
định rõ tiêu chuẩn đối với BCVND phải: Có quốc tịch Việt Nam, không phân
biệt đàn ông hay đàn bà; Từ 21 tuổi trở lên; có hạnh kiểm tốt, chƣa can án.
Theo đó, cũng qui định những trƣờng hợp không đƣợc cử làm BCVND để
tránh tình trạng xét xử không vô tƣ, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị
can, bị cáo: Các nhân viên Ủy ban kháng chiến khu hay tỉnh, Thẩm phán xử
án hay buộc tội, các Lục sự và Thƣ ký thuộc quản hạt TA đang xét xử, các
Trƣởng ty, Phó Trƣởng ty Công an thuộc tỉnh mà việc của đƣơng sự đang
mang ra xét xử. Trong suốt thời gian dài (từ năm 1949 đến năm 1987)
BCVND đã giữ một vai trò quan trọng trong TTHS. Tuy nhiên, từ năm 1989
đến nay, khi các Đoàn LS đƣợc khôi phục ở các địa phƣơng thì các Đoàn bào



14
chữa đã giải thể và chấm dứt hoạt động, do đó chức danh BCVND chỉ tồn tại
trên “phƣơng diện pháp lý”. Hiện nay, BLTTHS hiện hành chƣa quy định
khái niệm, điều kiện, tiêu chuẩn, thẩm quyền, trình độ cũng nhƣ chức năng
của BCVND và trong thực tế hoạt động, BCVND không đƣợc tổ chức thành
một hệ thống, trong khi xã hội có nhiều ngƣời có kiến thức pháp lý và kinh
nghiệm bào chữa nhƣng chƣa đƣợc kết nạp vào Đoàn LS và họ đƣợc NBTG,
bị can, bị cáo nhờ bào chữa. Trƣờng hợp nhƣ vậy có đƣợc gọi là BCVND

không? Pháp luật TTHS chƣa qui định đối với trƣờng hợp này. Do đó, mỗi
nơi thực hiện khác nhau. Hiện nay, chƣa quy định cụ thể điều kiện để
BCVND đƣợc cấp Giấy chứng nhận NBC, thực tế có không ít BCVND không
am hiểu pháp luật, họ bào chữa cho thành viên của tổ chức mình nhƣng bản
thân cũng không hiểu việc bào chữa đó có đúng pháp luật không. Còn ngƣời
đƣợc bào chữa cũng không biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình có đƣợc
đảm bảo không nếu BCVND đứng ra bào chữa cho mình? Họ khó từ chối vì
họ là thành viên của tổ chức đó.
Căn cứ vào hƣớng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TA nhân dân tối cao
tại Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 về quy định tại khoản
2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 thì một ngƣời đƣợc coi là BCVND khi ngƣời
đó đƣợc Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận
cử NBC cho thành viên của tổ chức mình.
Theo qui định tại Khoản 1 Điều 6 Thông tƣ 70/2011/TT-BCA ngày
10/10/2011 của Bộ Công an thì thủ tục cấp Giấy chứng nhận NBC đối với
BCVND là phải có giấy tờ chứng minh là thành viên của Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử đến; Giấy Giới thiệu của
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận nơi
NBTG, bị can là thành viên. Nhƣ vậy, nếu hiểu theo qui định của BLTTHS
năm 2003 và Thông tƣ 70 thì chúng ta có thể hiểu BCVND cũng chính là



15
thành viên của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoặc tổ chức thành viên
của Mặt trận, phạm vi tham gia bào chữa hẹp hơn so với NBC là LS (họ chỉ
tham gia bào chữa cho NBTG, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình).
BCVND tham gia TTHS trong trƣờng hợp theo yêu cầu của CQTHTT hoặc
do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử để
bào chữa cho NBTG, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.

Bốn là, Trợ giúp viên pháp lý
Trợ giúp viên pháp lý là viên chức nhà nƣớc, làm việc tại Trung tâm
Trợ giúp pháp lý nhà nƣớc, đƣợc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cấp thẻ
Trợ giúp viên pháp lý theo đề nghị của Giám đốc Sở Tƣ pháp [46, Điều 22].
Trợ giúp viên pháp lý là ngƣời đƣợc Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nƣớc cử
và CQTHTT chấp nhận thì đƣợc tham gia TTHS với tƣ cách là NBC.
Chế định Trợ giúp viên pháp lý là một chế định hoàn toàn mới, lần đầu
tiên xuất hiện trong Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, chƣa đƣợc qui định
trong BLTTHS năm 2003. Chế định Trợ giúp viên pháp lý ra đời thể hiện tính
ƣu việt, nhân văn của chế độ ta nhằm giúp cho ngƣời nghèo, đối tƣợng chính
sách, những ngƣời yếu thế trong xã hội đƣợc quyền bình đẳng trong việc tiếp
cận, sử dụng pháp luật, đƣợc mời NBC miễn phí nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình. Theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, Trợ giúp viên
pháp lý tham gia tố tụng với tƣ cách ngƣời đại diện hợp pháp của NBTG, bị
can, bị cáo để thực hiện việc bào chữa.
Năm là, NBTG, bị can, bị cáo
Bên cạnh bốn chủ thể bào chữa trên, theo qui định của BLTTHS năm
2003, chủ thể bào chữa còn bao gồm: NBTG, bị can, bị cáo vì tại Điều 11,
điểm d Khoản 2 Điều 48, điểm e khoản 2 Điều 49, điểm e khoản 2 Điều 50
BLTTHS năm 2003 thì NBTG, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ
ngƣời khác bào chữa. So với BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 mở



16
rộng hơn quyền bào chữa của bị cáo đặc biệt là quyền “trình bày ý kiến tranh
luận tại phiên tòa” đƣợc nhấn mạnh tại điểm g khoản 2 Điều 50.
Về chủ thể bào chữa là NBTG, bị can, bị cáo có ý kiến cho rằng các
chủ thể thực hiện chức năng bào chữa bao gồm: NBTG, bị can, bị cáo; NBC,
bị đơn dân sự; ngƣời đại diện hợp pháp và ngƣời bảo vệ quyền lợi của họ [3].

NBTG, bị can, bị cáo là chủ thể của một bên tranh tụng, họ là ngƣời bị buộc
tội trực tiếp, họ có quyền nhƣng không buộc phải chứng minh mình vô tội
[43, Điều 10]. Khi tham gia tố tụng để bào chữa cho sự vô tội hoặc làm giảm
nhẹ TNHS cho bản thân, đồng thời những lý lẽ họ đƣa ra cũng là chứng cứ
quan trọng cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Chỉ có họ là ngƣời
đã thực hiện hoặc không thực hiện hành vi phạm tội nên mới hiểu chính xác,
đầy đủ những tình tiết có hoặc không liên quan đến vụ án. Do đó, sự tham gia
tố tụng với tƣ cách là một chủ thể bào chữa (tự bào chữa) thì họ mới thực hiện
quyền bào chữa một cách khách quan, toàn diện và chính xác nhất. Mặc dù
vậy, nhƣng đa số các chủ thể này là những ngƣời có nhận thức pháp luật hạn
chế nên việc tự bào chữa gặp nhiều khó khăn, không ít trƣờng hợp làm tăng
nặng hành vi do mình thực hiện. Do đó, cần thiết phải có ngƣời trợ giúp về
mặt pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho họ đó là NBC.
1.1.3. Đối tƣợng bào chữa
Theo qui định của BLTTHS hiện hành thì đối tƣợng bào chữa bao gồm:
NBTG, bị can, bị cáo. Những đối tƣợng này vừa là chủ thể bào chữa vừa là
đối tƣợng bào chữa. Là chủ thể bào chữa khi họ tự bào chữa trƣớc các
CQTHTT, là đối tƣợng bào chữa khi họ nhờ ngƣời khác bào chữa.
* Người bị tạm giữ:
NBTG là một trong những đối tƣợng bào chữa mà chủ thể bào chữa
hƣớng tới. NBTG là ngƣời bị bắt trong trƣờng hợp khẩn cấp, phạm tội quả
tang, ngƣời bị bắt theo quyết định truy nã hoặc ngƣời phạm tội tự thú, đầu thú.
NBTG có quyền tự bào chữa hoặc nhờ ngƣời khác bào chữa [43, Điều 48].



17
NBTG là ngƣời đã có quyết định tạm giữ. NBTG có thể là ngƣời chƣa
bị khởi tố về hình sự, đó là những ngƣời bị bắt trong trƣờng hợp khẩn cấp
hoặc phạm tội quả tang, trƣờng hợp ngƣời phạm tội tự thú trƣớc khi hành vi

phạm tội bị phát hiện và khởi tố, đã có quyết định tạm giữ. Mặc dù chƣa bị
khởi tố về hình sự nhƣng trên thực tế, NBTG vẫn phải chịu sự cƣỡng chế của
cơ quan tạm giữ. Họ bị hạn chế quyền tự do, bị buộc phải khai báo hoặc trả
lời các câu hỏi của cán bộ điều tra. Vì vậy, pháp luật TTHS coi NBTG là
ngƣời tham gia tố tụng, có các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định. NBTG
cũng có thể là ngƣời đã bị khởi tố về hình sự. Bị can, bị cáo, ngƣời bị kết án,
ngƣời đang chấp hành án, nếu bị bắt theo quyết định truy nã hoặc ra đầu thú
và đã có quyết định tạm giữ đối với họ thì cũng là NBTG. Trong thời hạn tạm
giữ thì họ cũng có quyền và nghĩa vụ của NBTG [58, tr.118-119].
Đối với NBTG, chúng ta chƣa thể xác định chắc chắn rằng họ là ngƣời
có tội bởi họ chỉ là ngƣời bị nghi thực hiện tội phạm. Do đó, việc bắt giữ
những ngƣời bị nghi thực hiện tội phạm dễ dẫn tới tình trạng oan, sai, bắt
giữ ngƣời không đúng tội, không đúng pháp luật. Nhiều trƣờng hợp
CQTHTT chƣa tìm ra chứng cứ để chứng minh cho hành vi phạm tội của
ngƣời bị nghi thực hiện tội phạm nhƣng vẫn bắt giữ và hợp thức hóa hồ sơ
bằng cách xác định ngƣời đó là ngƣời phạm tội tự thú hoặc đầu thú. Kể cả
trong trƣờng hợp họ ra tự thú hoặc đầu thú cũng chƣa chắc đã phải là ngƣời
thực hiện hành vi phạm tội, bởi thực tế có rất nhiều trƣờng hợp họ nhận tội
thay ngƣời khác. Vì vậy, sự tham gia của NBC là hết sức cần thiết nhằm
giúp NBTG xác định đƣợc những chứng cứ chứng minh họ không thực hiện
tội phạm, không liên quan đến sự việc là lý do bắt giữ họ hoặc làm giảm
TNHS đối với họ. Khi đó NBTG trở thành đối tƣợng bào chữa. Đây là qui
định mới của BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm 1988 nhằm đảm bảo
quyền của NBTG trong TTHS.



18
* Bị can:
Bị can là ngƣời đã bị khởi tố về hình sự và tham gia tố tụng từ khi có

quyết định khởi tố bị can. Bị can tham gia vào giai đoạn điều tra, truy tố và
một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm [58, tr.120]. Bị can có quyền tự bào chữa
hoặc nhờ ngƣời khác bào chữa [43, Điều 49]. Trong quá trình giải quyết
VAHS đối với bị can, nếu vì lý do nào đó ngƣời THTT không vô tƣ, khách
quan hoặc do trình độ, năng lực hạn chế sẽ dẫn đến việc dùng các biện pháp
trái luật nhƣ: ép cung, mớm cung, dùng nhục hình buộc bị can phải khai báo
theo ý muốn chủ quan của ngƣời THTT. Vì vậy, việc tham gia của NBC để
giúp đỡ họ về mặt pháp lý là rất cần thiết. Trong trƣờng hợp này bị can trở
thành đối tƣợng bào chữa.
* Bị cáo:
Bị cáo là ngƣời bị TA quyết định đƣa ra xét xử. Bị cáo tham gia tố tụng
từ khi có quyết định đƣa vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định của
TA có hiệu lực pháp luật. Cũng nhƣ khái niệm bị can, bị cáo cũng là khái
niệm mang tính hình thức, căn cứ vào văn kiện tố tụng đƣợc áp dụng đối với
ngƣời đó. Một ngƣời sẽ trở thành bị cáo khi bị TA quyết định đƣa ra xét xử,
quyết định đó có thể đúng hoặc trái pháp luật. Vì vậy, khái niệm bị cáo không
đồng nghĩa với khái niệm chủ thể tội phạm. Trên thực tế bị cáo có thể không
phải là chủ thể của tội phạm và ngƣợc lại. Bị cáo chƣa chắc đã phải là ngƣời
có tội, bị cáo trở thành ngƣời có tội nếu sau khi xét xử, họ bị TA ra bản án kết
tội và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật [58, tr.124]. Hầu hết các nƣớc tiên
tiên trên thế giới qui định bị cáo phải có NBC, nếu bị cáo hoặc ngƣời thân
thích của bị cáo không nhờ NBC thì TA yêu cầu. Điều đó chứng minh rằng bị
cáo khi bị truy tố ra TA rất cần sự trợ giúp của NBC giúp chứng minh sự vô
tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS đối với họ bởi sự tham gia của NBC ở giai đoạn
xét xử rất quan trọng vì nó quyết định số phận pháp lý của bị cáo. Khi đó, bị
cáo là đối tƣợng bào chữa mà NBC hƣớng đến.

×