Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

địa vị pháp lý của người bào chữa trong luật tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.88 KB, 16 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong một phiên tòa hình sự, người bào chữa có vai trò hêt sức quan trọng trong
việc định tội cuối cùng cho một bị can, bị cáo. Có thể nói, cơ hội cuối cùng của
những bị can, bị cáo phụ thuộc rất nhiều vào người bào chữa. Họ là người nghe
những tâm sự cuối cùng của bị can, bị cáo, trước khi họ chịu án phạt. Vị trí của họ
là quan trọng như vậy, nhưng trên thực tế, địa vị pháp lý của họ được quy định như
thế nào, liệu đã đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội không? Để tìm hiểu rõ hơn
về vấn đề này, em xin chọn đề tài “địa vị pháp lý của người bào chữa trong luật tố
tụng hình sự”.
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I.Khái quát chung về chế định người bào chữa:
1.Tại sao phải đặt ra chế định người bào chữa?
Điều 11, BLTTHS quy định về nguyên tắc đảm bảo quyền được bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, như sau:
“Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào
chữa.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”
Thực tế thì, khi thực hiện tội phạm, đôi khi người hạm tội không thể nhận thức
hết được mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình gây ra, cũng như
không đủ hiểu biết pháp luật để tìm những chứng cứ, những lý lẽ gỡ tội cho mình.
Trình độ hiểu và nhận thức pháp luật của người dân nước ta còn thiều, vì vậy, trên
phiên tòa, bị can, bị cao thường bị động, không tìm ra hướng bào chữa cho mình.
Chính vì vậy, Nhà nước cho phép họ được gỡ tội cho mình thông qua những người
có trình độ hiểu biết pháp luật nhất định, được gọi là người bào chữa.
2.Khái niệm người bào chữa:
Hiện nay, trong khoa học pháp lý và thực tiễn tố tụng có những cách hiểu
khác nhau về người bào chữa. Có một số quan điểm cho rằng:: “Người bào chữa là
người giúp đỡ Tòa án trong việc xác định tất cả các tình tiết cần thiết về vụ án để
cuối cùng Tòa án ra một bản án có căn cứ và đúng pháp luật” Một tác giả khác còn
khẳng định rõ hơn rằng người bào chữa là người tham gia tố tụng để giúp đỡ Tòa


1
án. Ngoài ra, cũng có không ít người vẫn quan niệm người bào chữa là “thầy
cãi”…
Những cách hiểu nói trên là không chính xác, chưa làm rõ được khái niệm, vị
trí, vai trò, chức năng của người bào chữa cũng như chưa phân biệt được người bào
chữa với người tiến hành tố tụng, với người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Thật
ra, người bào chữa là người tham gia tố tụng không có quyền và lợi ích liên quan
đến vụ án. Họ tham gia tố tụng là nhằm để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
cho người bị buộc tội. Người bào chữa không phải là người tiến hành tố tụng mà
chỉ là người tham gia tố tụng. Từ “tham gia” nói lên tính chất, vai trò của người
bào chữa. “Người tham gia” chỉ là người góp phần hoạt động của mình vào một
hoạt động chung nào đó, do những chủ thể khác chủ động và chính thức tiến hành.
Hơn nữa, người bào chữa không phải là người được nhân danh quyền lực nhà nước
và không được sử dụng quyền lực nhà nước như những tiến hành tố tụng. Bên cạnh
đó, cũng không thể đồng nhất khái niệm người bào chữa với người bảo vệ quyền
lợi của đương sự. Ngay trong Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 đã có sự phân biệt giữa
người bào chữa vời người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Tiêu chí để phân biệt
chính là chức năng của họ và đối tượng mà họ bào chữa, bảo vệ. Người bào chữa
tham gia tố tụng chủ yếu để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo. Trong khi đó, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự
tham gia tố tụng chủ yếu là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp về dân sự cho
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án.
Như đã trình bày, người bào chữa không có quyền và lợi ích trong vụ án
hình sự. Việc họ tham gia tố tụng bất luận trong trường hợp nào cũng chỉ để nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Cơ sở cho sự hiện diện
của họ trong tố tụng hình sự xuất phát từ hợp đồng bào chữa giữa họ với người bị
buộc tội (hoặc với người đại diện hợp pháp của người bị buộc tội) và phải được sự
chấp thuận của cơ quan tiến hành tố tụng. Trong trường hợp đặc biệt do Bộ luật tố
tụng hình sự quy định, nếu người bị buộc tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ

không mời người bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu Đoàn Luật sư
cử người bào chữa cho họ và dĩ nhiên ngay trong trường hợp này sự tham gia của
người bào chữa cũng phải được sự đồng ý của người bị buộc tội.
Từ những phân tích trên, có thể nói về khái niệm người bào chữa trong tố tụng
hình sự như sau: “Người bào chữa trong tố tụng hình sự là người tham gia tố tụng
để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc
2
tội, giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
3.Phân loại người bào chữa:
Điều 56, BLTTHS quy định về người bào chữa, bao gồm:
“a) Luật sư;
b) Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
c) Bào chữa viên nhân dân”.
Luật sư là người hoạt động bào chữa chuyên ngành hiệp hoạt động trong đoàn
luật sư.
Người đại diện của bị can, bị cáo có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào
chữa để bào vệ quyền và lợi ích của bị can bị cáo. Đây là trường hợp người đại
diện cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất
hoặc tâm thần. Nếu bị can, bị cáo là người đủ 18 tuổi và không có nhược điểm gì
về thể chất, tâm thần khi tham gia tố tụng hình sự với tư cách bị can, bị cáo thì
không có người đại diện hợp pháp. Như vậy, chế định người đại diện cho bị can, bị
cáo chỉ được áp dụng đối với người phạm tội là người chưa thành niên hoặc người
có nhược điểm về mặt tâm thần. Ví dụ: một hành vi phạm tội của bị can, bị cáo
được thực hiện ở độ tuổi từ 14 đến dười 18 tuổi khi bại khởi tố bị can, cơ quan tiến
hành tố tụng phải yêu cầu đoàn luật sư cử người bào chưa cho họ nếu như bị can
hoặc gia đình bị can không mời người bào chữa, hoặc cơ quan tiến hành tố tụng
phải yêu cầu gia đình cử người đại diện hợp pháp tham gia trong suốt các giai đoạn
tố tụng. Nếu thiếu người đại diện hợp pháp khi tham gia tố tụng hoặc có người đại
diện hợp pháp của bị can, bị cáo mà không có chữ ký của họ trong biên bản hỏi

cung của bị can thì biên bản đó không có giá trị.
Viện kiểm sát có quyền kiểm sát việc tuân theo Pháp luật của cơ quan điều tra
trong hoạt động tố tụng của họ. Tại khoản 3, Điều132, BLTTHS quy định: “Khi
hỏi cung có mặt người bào chữa, người đại diện hợp pháp của bị can thì Điều tra
viên phải giải thích cho những người này biết quyền và nghĩa vụ của họ trong khi
hỏi cung bị can. Bị can, người bào chữa, người đại diện hợp pháp cùng ký vào biên
bản hỏi cung”.
3
Bào chữa viên nhân dân: hiện nay được coi là người được tổ chức, đoàn thể xã
hội cử ra để bào chữa cho bị can, bị cáo. Hoạt động của bào chữa viên nhân dân
không mang tính chuyên nghiệp mà mang tính nghiệp dư.
Thực tế pháp luật quy định ba đối tượng trên đều là người bào chữa, nhưng trên
thực tế, thông thường, luật sư là người xuất hiện nhiều nhất. Bởi xét cho cùng,
trong ba đối tượng trên, luật sư là người có trình độ va hiểu biết pháp luật tốt hơn
cả. Họ là người không liên quan đến bị can, bị cáo cũng như tòa án, vì vậy, họ có
thể làm tốt công việc của mình, vừa có thể giúp bị can, bị cáo gỡ tội, vừa đảm bảo
đúng pháp luật.
4.Địa vị pháp lý của người bào chữa:
Nói đến người bào chữa trong tố tụng hình sự không thể không nói đến địa vị
pháp lý của họ. Về vấn đề này cũng có nhiều quan điểm khác nhau.
Có quan điểm cho rằng người bào chữa là người giúp đỡ tòa án trong việc xác
định những tình tiết cần thiết về vụ án để cuối cùng tòa án ra một bản án có căn cứ
và đúng pháp luật.
Lại có quan điểm cho rằng người bào chữa trong tố tụng hình sự vừa là người
đại diện cho bị can, vừa là người tham gia tố tụng độc lập. Cơ sở của nhận định
này xuất phát từ việc họ cho rằng người bào chữa không chỉ là người đại diện cho
tố tụng của bị can mà còn là người tham gia tố tụng độc lập, có thể đưa ra các quan
điểm trong một số trường hợp mà không phụ thuộc vào ý chí của bị can.
Quan điểm khác lại cho rằng người bào chữa tham gia vào tố tụng hình sự với vị
thế độc lập. Theo tôi, quan điểm này thuyết phục hơn cả.

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo bằng những phương pháp,
cách thức hợp pháp là một trong những nguyên tắc của tố tụng hình sự. Người bào
chữa thể hiện vị trí tố tụng độc lập của mình cũng có nghĩa là người bào chữa
không có quyền tuân theo những yêu cầu không hợp pháp, không có căn cứ của bị
can, bị cáo.
Vị trí độc lập của người bào chữa trong tố tụng hình sự được xác định rõ bằng
những quy phạm tố tụng hình sự trong đó chứa đựng những quyền và nghĩa vụ mà
người bào chữa có như một chủ thể của tố tụng hình sự độc lập. Tại khỏa 3, điều
36, BLTTHS quy định người bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp
luật quy định để làm sảng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, hay
4
những tình tiết làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ; giúp bị can bị cáo về mặt
pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Muốn thực hiện được các công việc trên, phải xác định được thời điểm bắt đầu
cũng như thời điểm chấm dứt việc tham gia tố tụng của người bào chữa.
Xác định thời điểm bắt đầu hoạt động của người bào chữa trong tố tụng hình sự
không chỉ đơn thuần là việc giải quyết theo tinh thần của cá quy phạm pháp luật tố
tụng hình sự. trên thực tế, để xác định thời điểm đó cũng có nhiều ý kiến khác
nhau.
Có người cho rằng hoạt động điều tra trước khi mở phiêm tòa là điều tra sơ bộ, là
căn cứ để tiến hành các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Điều tra tại phiên tòa là điều tra
công khai nhất, khách quan nhất. Vì thế bản án chủ yếu chỉ dựa trên những chứng
cứ được xem xét tại phiên tòa. ..cho nên việc quy định thời điểm bắt đầu hoạt động
của người bào chữa là từ giai đoạn khởi tố bị can là không thực sư cần thiết. Người
bào chữa chỉ cần tham gia tố tụng từ khi có quyết định truy tố trước tòa án.
Xét về nguyên tắc khi nào quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo bị vi
phạm thì họ được quyền thực hiện bào chữa cho dù chỉ có Tòa án mới có quyền
quyết định ai là người có tội và quyết định hình phạt dối với họ, nhưng ở giai đoạn
tố tụng trước đó mà lợi ích của họ bị xâm phạm, định truy tố trước tòa án.
Xét về nguyên tắc khi nào quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo bị vi

phạm thì họ được quyền thực hiện bào chữa cho dù chỉ có Tòa án mới có quyền
quyết định ai là người có tội và quyết định hình phạt dối với họ, nhưng ở giai đoạn
tố tụng trước đó mà lợi ích của họ bị xâm phạm, thì thời điểm bắt đầu việc tham
gia tố tụng hinh sự của người bào chữa được tính kể từ thời điểm khởi tố bị can.
Thời điểm khi nào được xem là chấm dứt sự tham gia tố tụng của người bào
chữa cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Có ý kiến cho rằng khi người bào chữa dự xong phiên tòa xét xử sơ thẩm thì họ
chấm dứt việc bào chữa. Còn khi họ tham gia tố tụng cũng trong vụ án đó nhưng ở
các giai đoạn tiếp theo được coi là thủ tục tham gia hoàn toàn mới.
Ý kiến khác lại cho rằng khi người bào chữa tham gia tố tụng một vụ án từ gia
đoạn điều tra thì họ vẫn có trách nhiệm tham gia vụ án đó ở những cấp xét xử tiếp,
như phúc thâm, giám đốc thẩm. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào tòa án nhân
dân từng cấp.
5
Trong các quy định cụ thể ở luật tố tụng hình sự Việt Nam chỉ quy định thời
điểm bắt đầu tham gia tố tụng của người bào chữa chứ không có trường hợp nào
quy định thời điểm chấm dứt sự tham gia của người bào chữa trong các vụ án. Vì
thế có thể hiểu người bào chữa có trách nhiệm tham gia tố tụng một vụ án cho đến
lúc bản án của vụ án đó có hiệu lực pháp luật, không còn kháng cáo, kháng nghị
hay xét sử theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm….Khi Tòa án ở cấp phúc thâm,
giám đốc thẩm chuẩn bị xét xử thì đương nhiên tòa án phải triệu tập người bào
chữa đã tham gia tố tụng tai phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm trước đó.
II.Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa:
1.Quyền của người bào chữa:
Khoản 2, Điều 58, BLTTHS quy định về quyền của người bào chữa gồm có:
a) Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu
Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những
hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của
mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
b) Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can

để có mặt khi hỏi cung bị can;
c) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch
theo quy định của Bộ luật này;
d) Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ
chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí
mật nhà nước, bí mật công tác;
đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;
g) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến
việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
h) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;
6

×