1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN TRUNG KIÊN
MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2013
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN TRUNG KIÊN
MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí
HÀ NỘI - 2013
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONGGIẢI
QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ
6
1.1. Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự 6
1.2. Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng 12
1.2.1.
Vị trí, chức năng của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự 12
1.2.2.
Khái niệm mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng 19
1.2.3.
Nội dung mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng 21
1.3. Một số nguyên tắc tác động đến mối quan hệ giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng hình sự
24
1.3.1.
Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa 24
1.3.2.
Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân
25
1.3.3.
Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án 26
1.3.4.
Nguyên tắc cấp dưới chịu sự chỉ đạo của cấp trên trong hoạt
động tố tụng hình sự
27
1.4. Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở mô hình tố
tụng hình sự thẩm vấn và mô hình tố tụng hình sự tranh tụng
28
Chương 2:
MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ
TỤNG TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
33
2.1. Tổ chức, vị trí và nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam
33
4
2.1.1.
Cơ quan điều tra 33
2.1.2.
Viện kiểm sát 37
2.1.3.
Tòa án 40
2.2. Đặc điểm và nội dung mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp
luật Việt Nam
41
2.2.1.
Đặc điểm, nội dung mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra với
Viện kiểm sát
45
2.2.2.
Đặc điểm và nội dung mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra với
Tòa án
61
2.2.3.
Đặc điểm và nội dung mối quan hệ giữa Viện kiểm sát với Tòa
án
67
Chương 3:
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CƠ
QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM
74
3.1. Thực trạng mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự trong giải quyết vụ án hình sự
74
3.1.1.
Thực trạng mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra
74
3.1.2.
Thực trạng mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án 83
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi mối quan hệ giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự
88
3.2.1.
Những vấn đề đặt ra cho mối quan hệ giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự
88
3.2.2.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng trong giải quyết các vụ án hình sự
93
KẾT LUẬN
105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
107
5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã
khẳng định nhiệm vụ mang tính chiến lược của nước ta là xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trước nhiệm vụ xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai các nhiệm vụ
cải cách tư pháp nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng công tác tư pháp vì sự
phát triển chung của đất nước.
Việc nâng cao trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân; đảm bảo
hiệu quả hoạt động và tính độc lập của các cơ quan tư pháp; bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân… là những đòi hỏi
quan trọng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền trong công cuộc đổi mới
ở nước ta hiện nay.
Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02/06/2005 "về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đã nói lên tình hình công tác tư
pháp trong những năm vừa qua. Trong những năm vừa qua công tác tư pháp
có nhiều thay đổi theo hướng tích cực; chất lượng hoạt động tư pháp đã được
nâng lên từng bước.
Tuy nhiên, những kết quả đó mới chỉ là bước đầu và mới tập trung vào
giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn
chế, đặc biệt trong hoạt động tư pháp hình sự, nơi mà hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) mang tính
quyền lực nhà nước rất cao, nơi mà mọi hoạt động chính đều liên quan lớn đến
quyền, lợi ích của công dân thì việc quy định rõ quyền hạn và trên cơ sở đó,
xác định cụ thể trách nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng có ý nghĩa rất
quan trọng, không chỉ trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng, mà còn
6
trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là quyền, lợi
ích hợp pháp của bị can, bị cáo cũng như những người tham gia tố tụng khác.
Từ những điều đã phân tích trên đây cho thấy việc nghiên cứu về
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và đặc
biệt là mối quan hệ của các cơ quan tiến hành tố tụng có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và nâng cao hiệu quả áp
dụng các qui định đó trong thực tiễn.
Để góp phần nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, tôi đã chọn đề tài "Mối
quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự"
làm đề tài luận văn Thạc sĩ luật học với mong muốn nghiên cứu góp phần bổ
sung lý luận khoa học cho công cuộc củng cố và hoàn thiện mối quan hệ giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn hiện nay
2. Tình hình nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu, đề tài khoa
học và bài viết liên quan đến vấn đề mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự, trong đó đáng chú ý là một số công
trình sau:
Công trình của PGS,TS Đỗ Ngọc Quang về "Mối quan hệ giữa cơ
quan điều tra với các cơ quan tham gia tố tụng hình sự" (sách tham khảo), đề
cập mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra với các cơ quan tiến hành tố tụng khác
và các cơ quan bổ trợ tư pháp trong tố tụng hình sự. Luận văn thạc sĩ luật học
của Nguyễn Tiến Sơn với đề tài "Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện
kiểm sát trong tố tụng hình sự Việt Nam", phân tích cơ sở và những đặc trưng
cơ bản của quan hệ cũng như những chế định cụ thể trong mối quan hệ giữa
Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra xuất phát từ vai trò, chức năng của Viện
kiểm sát và của Cơ quan điều tra trong quá trình tiến hành các hoạt động tố
tụng hình sự. Luận văn thạc sĩ luật học của Hoàng Ngô Văn với đề tài "Mối
7
quan hệ giữa cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi
tố điều tra", mới chỉ đề cập, nghiên cứu, phân tích mối quan hệ giữa Cơ quan
Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình
sự. Luận văn thạc sĩ luật học của Ngô Hồng Sơn với đề tài "Mối quan hệ giữa
cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình điều tra
bổ sung các vụ án hình sự theo yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân", đã nghiên
cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả mối quan hệ
giữa cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát trong quá trình điều tra bổ
sung vụ án hình sự. Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Vũ Văn Sơn với đề
tài "Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra với Viện kiểm sát, Tòa
án trong điều tra truy tố xét xử các vụ án hình sự ở cấp huyện - tỉnh Hải
Dương", đã phân tích lý luận về quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng và đưa ra một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp huyện.
Bài báo "Mối quan hệ tố tụng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện
kiểm sát nhân dân", của PGS.TS Nguyễn Đức Thuận đăng trên tạp chí Cảnh
sát nhân dân, số 2/1998, phân tích một số tồn tại trong quan hệ giữa Cơ quan
Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu
quả mối quan hệ này. Bài báo "Quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ
quan điều tra trong quá trình điều tra vụ án hình sự", của ThS. Phạm Quang
Luyện đăng trong Tạp chí Kiểm sát, số 12/2003, mới chỉ nghiên cứu phân tích
các hình thức thể hiện mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện
kiểm sát trong quá trình điều tra các vụ án hình sự.
Từ cách thức tiếp cận và phạm vi nghiên cứu khác nhau, chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện, phân tích sâu và đưa ra các giải
pháp nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự là vấn đề có ý nghĩa quan
trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay.
8
Phạm vi nghiên cứu mà đề tài đặt ra chỉ giới hạn ở những vấn đề lý
luận và thực tiễn liên quan tới:
Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án
hình sự trong đó làm sáng tỏ khái niệm, mối quan hệ, các mô hình tố tụng,
lịch sử mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án
hình sự ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về mối quan
hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự từ đó
kiến nghị đưa ra những phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng
cao chất lượng mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án
nhân dân trong giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam.
Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về mối quan hệ giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam.
- Làm rõ thực trạng và các yêu cầu về mối quan hệ giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam, cũng như xác
định phương hướng và các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng mối quan hệ
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và lý luận nhà nước và pháp luật.
Qua nghiên cứu những tài liệu thu thập được luận văn này sử dụng phương
pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê, so sánh và một số phương pháp khác.
9
5. Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn
Đây là đề tài chuyên khảo mà tôi nghiên cứu dựa trên những hiểu biết
về tri thức khoa học pháp lý, trình bày, phân tích và đánh giá có hệ thống về
mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự.
Lần đầu tiên, trên cơ sở lý luận và thực tiễn phân tích một cách có hệ
thống thực trạng và các yêu cầu về mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng trong giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam.
Đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được tham khảo và vận
dụng từng bước vào quá trình nâng cao chất lượng công tác cải cách tư pháp
theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị ở Việt Nam hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự.
Chương 2: Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải
quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả mối
quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự ở
Việt Nam.
10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hoạt động tố tụng hình sự và xử lý tội phạm là hoạt động mang tính
tất yếu của bất kỳ nhà nước nào cũng phải thực hiện. Thực hiện chức năng
này các nhà nước thiết lập ra các cơ quan để đảm nhiệm các hoạt động khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Lúc đầu những chức năng
này chưa được tách khỏi bộ máy công quyền chung, nhưng khi xã hội phát
triển các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp được tách bạch thì hoạt động tố
tụng hình sự được tách khỏi bộ máy cai trị và trở thành một bộ phận của
quyền tư pháp. Tùy theo đặc điểm của từng nước mà cách thức tổ chức các cơ
quan tiến hành tố tụng ở mỗi quốc gia cũng có sự khác biệt. "Ở những nơi nhà
nước được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền thì quyền tư pháp chỉ là hoạt
động xét xử và cơ quan tư pháp chỉ là Tòa án, cơ quan công tố và cơ quan
điều tra là những cơ quan thuộc nhánh quyền hành pháp" [10, tr. 77-86].
Ngược lại, ở Việt Nam hoặc những nước mà việc tổ chức quyền lực nhà nước
theo nguyên tắc tập quyền thì hoạt động tư pháp có phạm vi rộng hơn, không
chỉ có hoạt động xét xử mà còn có cả hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố và thi
hành án. Theo đó, cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án, Cơ quan thi hành án để đảm nhiệm hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án.
Hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng thực hiện, mang tính quyền lực nhà nước, được quy định
trong pháp luật tố tụng hình sự và trực tiếp liên quan đến quá trình giải quyết
các vụ án hình sự. Cho dù các cơ quan này, với những nguyên tắc tổ chức bộ
11
máy nhà nước khác nhau và nằm trong nhánh quyền lực nào thì hoạt động của
nó cũng mang tính độc lập không bị chi phối bởi bất kỳ cơ quan, tổ chức cá
nhân nào. Trong các nhà nước dù được tổ chức theo nguyên tắc nào thì Tòa
án cũng là một trong số các cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện chức năng
xét xử và là đại diện hoặc là trung tâm của quyền lực tư pháp.
Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự là những cơ quan nhà nước đại diện
cho quyền lực công để xét xử tội phạm, để thực hành quyền công tố truy cứu
trách nhiệm hình sự một người ra trước Tòa án và để thi hành án hình sự. Cá
nhân, tổ chức thực hiện quyền tư tố không đại diện cho quyền lực nhà nước
nên mặc dù có tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự nhưng không
phải là cơ quan tiến hành tố tụng.
- Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mang tính quyền uy đảm bảo cho
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc áp dụng trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội. Tùy tính phức tạp, nghiêm trọng và yêu cầu giải
quyết vụ án phải chính xác, nhanh chóng, xử lý công minh, không làm oan
người vô tội, không để lọt tội phạm, đồng thời do yêu cầu khách quan của
việc giải quyết vụ án hình sự nên không phải bất kỳ cơ quan nhà nước nào
cũng có thể tiến hành điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội mà chỉ những cơ
quan có chuyên môn và được pháp luật qui định mới có thẩm quyền tiến hành
giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy, trong giải quyết vụ án hình sự, ngoài cơ
quan tiến hành tố tụng còn có các cơ quan nhà nước, tổ chức khác cùng tham
gia. Tuy nhiên, những cơ quan, tổ chức này không phải là cơ quan tiến hành
tố tụng.
Chẳng hạn, trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì ngoài các cơ
quan tiến hành tố tụng là: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án còn có các
cơ quan nhà nước khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong
phạm vi lĩnh vực quản lý của mình, như Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm
lâm, Cảnh sát biển, các cơ quan nghiệp vụ trong Quân đội nhân dân và Công
12
an nhân dân. Khi phát hiện hành vi phạm tội trong phạm vi lĩnh vực mình
quản lý, các cơ quan này có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành
một số hoạt động điều tra ban đầu sau đó chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm
quyền trong thời hạn luật định. Sự khác nhau cơ bản giữa các cơ quan điều tra
và cơ quan được tiến hành một số hoạt động điều tra là: Cơ quan điều tra
được thực hiện đầy đủ các hành vi tố tụng trong giai đoạn điều tra. Trong khi
đó, cơ quan được tiến hành một số hoạt động điều tra chỉ được tiến hành một
số hoạt động điều tra khi tội phạm xảy ra trong phạm vi lĩnh vực mình quản lý
và hành vi phạm tội đó cần thiết phải áp dụng các biện pháp không cho tội
phạm tiếp tục được thực hiện, ngăn chặn kịp thời tội phạm đang xảy ra, chứ
không được thực hiện trọn vẹn tất cả các hành vi tố tụng của giai đoạn điều
tra. Sau khi thực hiện xong một số hoạt động tố tụng, các cơ quan này phải
chuyển hồ sơ đến cơ quan có thẩm quyền trong thời hạn luật định để tiếp tục
giải quyết vụ án.
Các cơ quan này được tiến hành một số hoạt động sau:
+ Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang,
chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng, thì ra quyết định khởi tố vụ án,
khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm
quyền trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án;
+ Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì ra quyết định khởi tố
vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho Cơ
quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định
khởi tố vụ án. Riêng đối với các cơ quan nghiệp vụ trong Công an nhân dân,
Quân đội nhân dân thì chỉ được tiến hành một số hoạt động như: khởi tố vụ
án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho Cơ quan
điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi
tố vụ án. Khi tiến hành hoạt động điều tra, các cơ quan này phải thực hiện
13
đúng nguyên tắc, trình tự, thủ tục tố tụng đối với hoạt động điều tra theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Viện kiểm sát có trách nhiệm
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của các cơ quan này.
Trong quá trình tiến hành tố tụng còn có các cơ quan, tổ chức tham gia
vào việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Các cơ quan này có chức
năng thực hiện một số nhiệm vụ liên quan đến việc đưa quyết định, bản án
của Tòa án đã có hiệu lực ra thi hành nhưng cũng không phải là cơ quan tiến
hành tố tụng. Điểm khác biệt giữa cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan, tổ
chức có trách nhiệm đưa bản án, quyết định đã có hiệu lực ra thi hành ở chỗ:
các cơ quan này chỉ thực hiện một số nhiệm vụ đưa bản án, quyết định đã có
hiệu lực ra thi hành, còn việc ra quyết định đưa bản án đã có hiệu lực pháp
luật vào thi hành và giám sát các hoạt động liên quan đến việc thi hành quyết
định, bản án đó lại do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện.
- Giải quyết vụ án khách quan, công bằng là mục đích mà các cơ quan
tiến hành tố tụng phải hướng tới trong quá trình tiến hành tố tụng. Khi vụ án
xảy ra thì việc xác định sự thật khách quan và giải quyết vụ án kịp thời, đảm
bảo công bằng là đòi hỏi tất yếu của trách nhiệm hình sự trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, khi điều tra, truy tố, xét xử thường có sự
không "cân bằng", không bình đẳng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng với bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác do
một bên là đại diện cho công quyền với đầy đủ sức mạnh của quyền lực, của
pháp luật, một bên là những người bị nghi là phạm tội không có những sức
mạnh và điều kiện như vậy. Người tiến hành tố tụng là những người thay mặt
nhà nước ở các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm thu thập chứng cứ
chứng minh tội phạm làm rõ bản chất vụ án. Việc vô tư của họ khi tiến hành
tố tụng có ý nghĩa quan trọng góp phần vào việc giải quyết vụ án một cách
khách quan nên luật tố tụng hình sự các quốc gia cũng như trong các thiết chế
tư pháp quốc tế đều coi bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
là nền tảng, là nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng hình sự [8].
14
Tính khách quan trong giải quyết vụ án hình sự thể hiện trên những
khía cạnh sau:
+ Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm thu thập chứng cứ, khôi
phục lại sự thật khách quan vụ án;
+ Khi tiến hành tố tụng, tất cả mọi quyết định, phán quyết của cơ quan
tiến hành tố tụng đều phải dựa trên cơ sở chứng cứ, trên cơ sở sự thật khách
quan đã được thu thập. Đồng thời, mọi quyết định của cơ quan tiến hành tố
tụng ngoài việc có căn cứ pháp luật còn phải được lý giải tại sao lại áp dụng
Quyết định đó đối với những trường hợp cụ thể;
+ Người tiến hành tố tụng phải vô tư trong quá trình giải quyết vụ án,
tất cả những yếu tố ảnh hưởng tới sự vô tư của những người này đều phải
được loại bỏ;
+ Tòa án có trách nhiệm xác định, đánh giá tính khách quan của vụ án
và trên cơ sở đó đưa ra quyết định và bản án phù hợp với các tình tiết khách
quan của vụ án;
+ Trách nhiệm chứng minh vụ án thuộc về bên buộc tội (Cơ quan
công tố, Viện kiểm sát), những chủ thể khác của tố tụng hình sự có quyền
nhưng không có nghĩa vụ phải chứng minh.
Vấn đề cốt lõi để bảo đảm những khía cạnh nêu trên của tính khách
quan trong quá trình giải quyết vụ án là sự vô tư của những người tiến hành tố
tụng. Sự vô tư của những người này được hiểu là trong quá trình giải quyết họ
phải có thái độ công tâm khi thu thập, đánh giá chứng cứ và kết luận các vấn
đề của vụ án, phải dựa vào các qui định của pháp luật làm căn cứ, hướng tới
công lý, bình đẳng làm mục tiêu của toàn bộ hoạt động tố tụng, không vì tình
riêng mà thiên vị đưa ra các quyết định không phù hợp với thực tế khách quan
và trái pháp luật [7].
Ngoài trách nhiệm hướng tới sự khách quan, tố tụng hình sự còn đòi
hỏi việc công bằng của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình tố tụng.
15
"Quyền được xét xử công bằng" là một quyền cơ bản và có tính phổ quát cao,
tồn tại trong cả các vụ án hình sự và phi hình sự. Giải quyết vụ án công bằng
đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải bảo đảm những quyền cụ thể sau
đối với người bị tình nghi phạm tội: Quyền bình đẳng trước tòa án và được
xét xử bởi tòa án độc lập, không thiên vị, công khai; Quyền bào chữa; Quyền
được xét xử theo thủ tục riêng của người chưa thành niên; Quyền kháng cáo;
Quyền được bồi thường khi bị kết án oan; Quyền không bị xét xử hai lần về
cùng một tội danh; Không bị truy cứu hình sự vì lý do không thực hiện được
nghĩa vụ hợp đồng; Không bị coi là có tội nếu hành vi không cấu thành tội
phạm theo pháp luật vào thời điểm thực hiện hành vi; Không áp dụng hồi tố
cũng được nghiên cứu khi đề cập đến quyền được xét xử công bằng.
Thủ tục tố tụng giải quyết vụ án hình sự đòi hỏi tính chặt chẽ, dân chủ,
tranh tụng, minh bạch tôn trọng công lý, bảo vệ quyền con người. Những yêu
cầu này, trước hết được thể hiện trong các qui phạm pháp luật tố tụng hình sự
thông qua việc xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật. Đến lượt mình, các
cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ nghiêm chỉnh các qui định của pháp
luật tố tụng hình sự, làm cho các qui định của pháp luật được thể hiện đầy đủ
nhất trong thực tiễn giải quyết vụ án. Tất cả mọi tư tưởng tiến bộ được qui
định trong pháp luật tố tụng sẽ trở thành vô nghĩa nếu các qui phạm pháp luật
không được các cơ quan tiến hành tố tụng thực thi một cách nghiêm chỉnh.
Trên cơ sở những phân tích trên PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí đã đưa
khái niệm cơ quan tiến hành tố tụng như sau:
Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự là các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền được giao thực hiện chức năng tố tụng trong việc khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án nhằm giải quyết vụ án khách
quan, công bằng, bảo đảm và tôn trọng quyền con người, không bỏ
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ lợi ích của nhà
nước, xã hội, mọi hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng phải dựa
trên cơ sở và trong phạm vi của pháp luật tố tụng hình sự [9].
16
1.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
1.2.1. Vị trí, chức năng của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự
- Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước đòi hỏi không chỉ
được phân chia rõ ràng mà còn phải dựa trên cơ sở hợp hiến, hợp pháp. Tính
tối thượng của pháp luật không phải là phạm trù chung chung mà phải được
thể hiện ở từng thiết chế, từng hoạt động của bộ máy nhà nước. Vì vậy, cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự chỉ có thể đại diện cho quyền lực nhà nước để
giải quyết vụ án khi được thành lập theo một đạo luật do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành.
Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự là những cơ quan trong bộ máy nhà
nước thực hiện chức năng tư pháp của nhà nước, trên cơ sở đó mỗi cơ quan
lại có chức năng của riêng mình trong hoạt động tố tụng hình sự. Theo quan
niệm chung được thừa nhận tương đối rộng rãi thì tố tụng hình sự có ba chức
năng: chức năng buộc tội; chức năng gỡ tội; chức năng xét xử. Trong đó chức
năng xét xử, chức năng buộc tội (trong trường hợp công tố) hoàn toàn thuộc
thẩm quyền của các các cơ quan tiến hành tố tụng, chức năng gỡ tội là quyền
của người bị buộc tội và người bào chữa. Việc phân định hợp lý thẩm quyền
của các chủ thể tố tụng hình sự theo các chức năng cơ bản nêu trên sẽ giúp
cho hoạt động tố tụng hình sự có tính chuyên nghiệp cao, tăng cường trách
nhiệm của các chủ thể trong việc thực hiện chức năng tố tụng được giao, là
điều kiện quan trọng để bảo đảm mục tiêu, hiệu quả của tố tụng hình sự. Ngoài
ra, ba chức năng cơ bản của tố tụng hình sự được phân định rõ ràng còn là
điều kiện quan trọng cho việc phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước
giữa các cơ quan nhà nước trong giải quyết vụ án hình sự. Đồng thời, nó cũng
góp phần làm minh bạch, dân chủ trong tố tụng hình sự, góp phần tôn trọng
và bảo đảm quyền con người. Những chức năng của tố tụng hình sự do nhiều
chủ thể thực hiện, đó là những cơ quan, người đại diện cho công quyền;
Người có quyền, lợi ích liên quan đến vụ án; Các cơ quan, cá nhân khác liên
17
quan hoặc tham gia vào quá trình giải quyết vụ án. Trong số này thì các cơ
quan tiến hành tố tụng là chủ thể chính giải quyết phần lớn các chức năng của
tố tụng hình sự. Cụ thể là:
Tòa án
Khi tội phạm xảy ra những xung đột về lợi ích cần phải giải quyết bởi
một cơ quan đại diện cho công quyền, đại diện công lý là Tòa án. Vì vậy, hoạt
động xét xử vụ án hình sự của Tòa án không những là hoạt động nhân danh
quyền lực nhà nước mà còn nhân danh công lý xem xét, đánh giá xác định sự
thật vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ để ra bản án, quyết định
trong đó ấn định trách nhiệm hình sự cho người đã thực hiện hiện tội phạm
xâm phạm đến những lợi ích được Nhà nước bảo vệ. Hoạt động xét xử của
Tòa án, mặc dù được tiến hành trên cơ sở những kết quả đã được ghi nhận
trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố - là những giai đoạn tố tụng được tiến
hành tiền xét xử nhưng lại mang tính chất chính thức về mặt pháp lý đối với
sự việc phạm tội và trách nhiệm của người thực hiện tội phạm.
Cơ quan công tố
Công tố là sự cáo buộc của Nhà nước đối với người đã có hành vi vi
phạm pháp luật trước Tòa án. Quyền công tố là một khái niệm pháp lý xuất
hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và gắn liền với một cơ quan nhất định.
Quyền công tố luôn luôn là một bộ phận cấu thành của quyền lực nhà nước
gắn liền với bản chất nhà nước và vì vậy, nó cũng gắn liền với cách thức tổ
chức thực hiện quyền lực nhà nước, phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể của mỗi quốc gia. Cùng với sự phát triển của xã hội, quyền công tố được
tách ra khỏi quyền lập pháp, hành pháp và do một cơ quan thực hiện - Cơ
quan công tố hoặc Viện kiểm sát. Quyền công tố trong lĩnh vực tố tụng hình
sự chính là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát thực hiện theo quy
định của pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội,
thực hiện sự buộc tội đối với người đó trước Tòa án. Vì vậy, quyền công tố
18
được bắt đầu kể từ khi có sự kiện phạm tội xảy ra trên thực tế và chấm dứt khi
Tòa án ra một bản án (kết tội hoặc tuyên vô tội đối với người thực hiện hành
vi bị coi là tội phạm đó) có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị. Quyền
công tố có thể hiểu là việc Cơ quan công tố thực hiện tổng hợp các quyền
năng pháp lý được nhà nước trao để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội, đưa người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử và
bảo vệ sự buộc tội đó.
Khi Nhà nước Xô viết ra đời, theo sáng kiến của V.I.Lênin, Viện công
tố được chuyển thành Viện kiểm sát và ngoài chức năng công tố, nó còn đảm
nhiệm một nhiệm vụ rất quan trọng, đó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật,
nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất
trong phạm vi cả nước. Sau khi xuất hiện lần đầu tiên ở nước Nga, mô hình
Viện kiểm sát - cơ quan thực hiện quyền công tố - đã được các nước xã hội
chủ nghĩa áp dụng. Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật, nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, vai trò của
Viện kiểm sát ngày càng được đề cao trong việc tổ chức bộ máy nhà nước.
Viện kiểm sát là cơ quan trực thuộc Quốc hội - Cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất, và được tổ chức theo ngành dọc từ trung ương xuống địa phương.
Cơ quan điều tra
Trong các mô hình tố tụng hình sự, một phần chức năng công tố được
thực hiện bởi Cơ quan điều tra. Cơ quan này là một trong những chủ thể tố
tụng hình sự, nhân danh Nhà nước (công quyền) thực hiện các hoạt động điều
tra xác định sự thật khách quan của vụ án và những vấn đề liên quan đến trách
nhiệm hình sự của người phạm tội cũng như những nội dung khác có liên
quan. Đồng thời, cơ quan điều tra còn có trách nhiệm chứng minh, xác định
nguyên nhân, điều kiện phạm tội và đưa ra ra biện pháp khắc phục, phòng
ngừa tội phạm. Tùy theo đặc điểm tổ chức bộ máy nhà nước, mỗi quốc gia có
cách thức tổ chức hoạt động điều tra và phân công thẩm quyền điều tra cho
19
những cơ quan khác nhau. Về cơ bản có những cách thức sau: Cơ quan công
tố trực tiếp tiến hành điều tra trên cơ sở phối hợp, trợ giúp của cơ quan cảnh
sát hoặc những cơ quan khác như: Cơ quan An ninh, Quân đội, Hải quan
Trong trường hợp này chức năng điều tra là một trong những nội dung của
quyền công tố và do cơ quan công tố đảm nhiệm; Cơ quan công tố không trực
tiếp tiến hành các hoạt động điều tra nhưng chỉ đạo mọi hoạt động điều tra
của cơ quan điều tra và những cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt
động điều tra. Mặc dù hoạt động điều tra được tiến hành bởi những cơ quan
khác nhưng cơ quan công tố phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả điều
tra cũng như có toàn quyền đối quá trình điều tra; Thành lập cơ quan điều tra
riêng đảm nhiệm chức năng điều tra trong tố tụng hình sự dưới sự kiểm sát
của cơ quan công tố (Viện kiểm sát). Trong trường hợp này, Cơ quan điều tra
không những phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về các hoạt động của mình
trong quá trình điều tra mà còn phải đưa ra bản kết luận điều tra và các quyết
định phù đối với từng vụ án trong đó có quyết định đề nghị cơ quan công tố
truy tố tội phạm và người thực hiện tội phạm ra trước Tòa án.
- Mỗi cơ quan tiến hành tố tụng đảm nhiệm những chức năng khác
nhau hướng tới việc thực hiện chức năng chung của tố tụng hình sự.
Trong tố tụng tranh tụng, với việc hình thành lợi ích của chủ thể và vai
trò độc lập của các chủ thể đã hình thành rõ rệt hai bên tố tụng và cả hai bên
đều hoàn toàn bình đẳng, tự do, tự chịu trách nhiệm cho riêng mình về việc sử
dụng mọi khả năng và phương tiện tố tụng mà pháp luật đã đặt ra để bảo vệ
quan điểm, quyền và lợi ích của mình. Sự hiện hữu của hai yếu tố chủ đạo:
Yếu tố hai bên tố tụng và yếu tố phân chia chức năng tranh tụng là điểm đặc
trưng cơ bản của tố tụng tranh tụng. Căn cứ của việc hình thành và tồn tại hai
bên trong tranh tụng là sự tồn tại của các lợi ích tố tụng độc lập. Từ đó, việc
theo đuổi tố tụng để bảo vệ lợi ích của mình đã làm nên tính tranh tụng của tố
tụng, tức là quan hệ tranh tụng giữa các bên có lợi ích khác nhau. Cũng vì lý
20
do đó, mà trong tố tụng tranh tụng, các hoạt động tố tụng không được coi là
nhiệm vụ duy nhất của một phía trong việc phát hiện tội phạm, xử lý người
phạm tội, để qua đó đấu tranh phòng chống tội phạm, phòng ngừa tội phạm và
giáo dục người phạm tội. Tố tụng tranh tụng được coi là địa hạt hành động
của cả hai phía: Phía nhà nước mà đại diện là các cơ quan có chức năng buộc
tội; phía bị can, bị cáo cùng với người bào chữa hoặc Tòa án người bào chữa
đại diện.
- Bên công tố: Khái niệm quyền công tố bao hàm trong đó quyền phát
hiện những hành vi vi phạm những điều cấm của nhà nước và việc nhân danh
nhà nước truy tố hành vi vi phạm và người vi phạm đó ra trước Tòa án.
Các hoạt động điều tra tội phạm, truy tố và buộc tội bị cáo trước Tòa
án là những hình thức để thực hiện quyền công tố. Nếu xét về thẩm quyền thì
đó là những hoạt động của các cơ quan hành pháp và do vậy, đó là chức năng
của hành pháp trong quá trình thực hiện vai trò duy án trì và bảo vệ trật tự
pháp luật. Nếu xét theo mục đích cần đạt được thì những hoạt động này nằm
trong chuỗi các hoạt động tư pháp vì đích cần hướng tới ở đây là xét xử tội
phạm đã xảy ra; Điều tra, truy tố là để xét xử. Trong trường hợp mục đích xét
xử không còn thì sẽ không còn chức năng công tố. Chức năng công tố là một
hệ thống hoạt động do những cơ quan khác nhau thực hiện, trong đó Viện
kiểm sát chịu trách nhiệm chủ đạo. Vì thế pháp luật của các quốc gia đều giao
cho Viện kiểm sát hoặc các thiết chế tương tự vai trò chỉ huy điều tra, chí ít là
phối hợp điều tra và phê chuẩn kết luận điều tra, quyết định truy tố hay không
truy tố. Tại phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát là chủ thể
duy nhất giữ quyền công tố, là một bên trong tố tụng tranh tụng với việc một
mình chịu trách nhiệm chứng minh lời buộc tội; chịu trách nhiệm về dung
lượng và chất lượng buộc tội, truy tố hay rút truy tố (toàn bộ hay từng phần).
Hơn thế nữa, Viện kiểm sát còn có nhiệm vụ đưa ra các lập luận trong việc
bác bỏ (một phần hay toàn bộ) nội dung bào chữa của bên bị buộc tội. Vì vậy,
21
yêu cầu đối với việc bảo vệ quan điểm truy tố, nội dung, mức độ và phương
pháp buộc tội phải được đặt ra ngay từ thời điểm khởi tố vụ án và kết thúc khi
bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật hoặc khi chính cơ quan công tố chủ
động rút quyết định truy tố. Là một bên trong vụ án, mọi hoạt động của chủ
thế quyền công tố đều phải chịu sự điều hành của Tòa án. Toàn quyền quyết
định vấn đề truy tố và buộc tội (quyền công tố) và hoàn toàn chịu trách nhiệm
bảo vệ quan điểm buộc tội là những tố chất làm nên tính độc lập của chủ thể
quyền công tố và là biểu hiện đầy đủ nhất cho tính chất của bên tranh tụng
trong tố tụng hình sự.
- Bên bào chữa: bào chữa là quyền Hiến định của bị can, bị cáo. Nhưng
quyền đó chỉ trở thành quyền tố tụng khi có sự hiện diện của quyền đối lập là
quyền công tố. Công tố là hoạt động làm khởi động và chuyển động vụ án
hình sự. Với nghĩa "đối lập" như vậy, chức năng bào chữa không thể thuộc về
cơ quan công tố. Việc pháp luật quy định trách nhiệm của cơ quan tố tụng
hình sự "phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án
một cách khách quan, toàn diện và đẩy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định
có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo" [35] hoàn toàn không có
nghĩa rằng Tòa án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát bên cạnh chức năng buộc
tội và xét xử cũng thực hiện chức năng bào chữa. Những yêu cầu trên đây
thực chất là nội dung của nguyên tắc về tính khách quan của tố tụng hình sự.
- Sự hình thành và tồn tại của hai bên tranh tụng dẫn đến nhu cầu về
"người thứ ba vô tư" - đó là lý do hình thành và tồn tại chức năng xét xử của
Tòa án và lý do cho việc khẳng định vai trò trung tâm của Tòa án trong mô
hình tố tụng hình sự tranh tụng.
Để bảo đảm thực hiện đúng chức năng đó, Tòa án phải được thoát ra
khỏi vai trò theo đuổi mục đích đi tìm sự thật khách quan của vụ án, để rồi từ
đó đóng luôn cả vai trò của phía buộc tội. Việc Tòa án có thể trả hồ sơ đề điều
22
tra bổ sung theo những quy định như tại Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự là
biểu hiện của việc vi phạm một nguyên tắc quan trọng của tố tụng tranh tụng
là: Một chủ thể tố tụng chỉ thực hiện một chức năng tố tụng. Tòa án trong tố
tụng tranh tụng chỉ xét xử trong phạm vi và mức độ buộc tội theo nguyên lý
"nemo judex sine actore" - sẽ không có xét xử nếu không có bên nguyên.
Để đóng được vai trò là khâu trung tâm, việc xét xử của Tòa án phải
thực sự là tạo ra sự tự do tranh luận, tự do trình bày quan điểm, chứng cứ của
các bên: Bên buộc tội cũng như bên bào chữa. Tòa án phải là chủ thể trung
tâm của hoạt động xét xử theo nghĩa tạo mọi điều kiện cho những hoạt động
tố tụng nói trên. Yếu tố "vô tư", "khách quan" của các cá nhân Thẩm phán khi
xem xét chứng cứ, lời khai, khi quyết định về tội danh và hình phạt.
Đối với chủ thể thực hiện quyền công tố; trên cơ sở khẳng định quyền
công tố (truy tố, buộc tội) là hoạt động có mục đích nhất quán kể từ khi khởi
tố vụ án hình sự nhằm xác định hành vi tội phạm và truy tố người phạm tội ra
trước Tòa án để xét xử, chủ thể của quyền đó cần hiểu được là Cơ quan điều
tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát và Kiểm sát viên, người bị hại, nguyên đơn
dân sự. Những chủ thể này có mục đích chung là phát hiện tội phạm và đưa
người phạm tội ra truy tố. Trong số đó, cần quy định Viện kiểm sát là chủ thể
chịu trách nhiệm chính và cuối cùng đối với việc thực hiện chức năng này.
Như đã nói ở trên, tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, chủ thể duy
nhất thực hiện chức năng công tố là Viện kiểm sát mà đại diện là Kiểm sát viên,
đối diện với bên gỡ tội bào chữa (người bào chữa, bị cáo, bị đơn dân sự).
Đại diện Viện kiểm sát trước tòa chịu trách nhiệm về chất lượng, dung
lượng, mức độ buộc tội; có quyền thay đổi mức độ buộc tội so với mức độ
buộc tội ban đầu; có quyền quyết định truy tố nếu thấy không đủ chứng cứ
buộc tội hoặc có căn cứ để không áp dụng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
Như vậy, chất lượng buộc tội trước Tòa án của Viện kiểm sát phụ
thuộc vào chất lượng điều tra, truy tố và cần đặt trách nhiệm đối với việc bảo
23
đảm chất lượng này cho Viện kiểm sát. Vì thế, cần xác định thẩm quyền kiểm
sát và chỉ huy hoạt động điều tra cho Viện kiểm sát mà không đơn thuần chỉ
dừng lại ở những thẩm quyền hiện hành, được quy định tại Điều 36 và Điều 37
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Đồng thời, cần quy định thêm rằng, tại
phiên tòa xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát có trách nhiệm bảo vệ lời buộc
tội của mình trước các chứng lý của phía gỡ tội.
1.2.2. Khái niệm mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
Mối quan hệ là "sự gắn liền mặt nào đó giữa hai hoặc nhiều sự vật
khác nhau khiến sự vật này có biến đổi, thay đổi thì có thể tác động đến sự vật
kia" [52, tr. 827]. Như vậy, mối quan hệ giữa hai hoặc nhiều sự vật hiện tượng
trong xã hội thể hiện ở sự tác động lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau trong sự tồn
tại và phát triển. Theo quan niệm của triết học Mác - Lênin thì mọi sự vật hiện
tượng trong xã hội không tồn tại một cách biệt lập mà có mối quan hệ biện
chứng với nhau; chúng tác động lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau trong những
điều kiện nhất định. Nội dung của mối quan hệ này thể hiện rất đa dạng, phản
ánh sự toàn diện của sự vật, hiện tượng. Thông thường, trên bình diện triết
học được chia thành các nhóm mối quan hệ chính sau: mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng, giữa nội dung và hình thức, giữa tất yếu và ngẫu nhiên,
bản chất và hiện tượng, bên trong và bên ngoài, nguyên nhân và kết quả, giữa
các mặt đối lập… Chính vì sự tác động lẫn nhau mà gây nên sự phát triển
giữa các sự vật hiện tượng. Vì thế, mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng, những người tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự cũng không nằm
ngoài quy luật đó. Mặc dù, ở mỗi một giai đoạn tố tụng hình sự đều có những
cơ quan tiến hành tố tụng chủ yếu với những chức năng và nhiệm vụ riêng.
Do vậy, nó vẫn có mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan điều hành tố tụng
khác trong cả tiến trình giải quyết vụ án hình sự. Quan hệ giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng bao gồm hai mặt: Quan hệ phối hợp và quan hệ chế ước.
Quan hệ phối hợp được hiểu là mỗi cơ quan thực hiện nghiêm chỉnh chức
24
năng, nhiệm vụ để đảm bảo sự thống nhất, nhịp nhàng khi thực hiện nhiệm vụ
chung. Với ý nghĩa này thì sự phối hợp là yếu tố thường xuyên không thể thiếu
được trong hoạt động tố tụng hình sự. Quan hệ chế ước giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng không phải là quan hệ quyền uy, mệnh lệnh, phục tùng. Tức là,
quan hệ giữa các cơ quan này không phải là quan hệ chấp hành và điều hành.
Khi thực hiện nhiệm vụ tố tụng, yêu cầu đặt ra cho các cơ quan tiến hành tố
tụng là phải tuyệt đối tuân thủ các quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Nếu
vi phạm thì hoạt động tố tụng hình sự bị coi là bất hợp pháp. Hậu quả của nó
không chỉ xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà còn có
thể dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng, giải quyết vụ án sai lệch với sự
khách quan. Chế ước là sự cần thiết để mỗi cơ quan độc lập trong việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật của
cơ quan khác, từ đó có biện pháp ngăn chặn, khắc phục, sửa chữa.
Quan hệ phối hợp và chế ước giữa các cơ quan tiến hành tố tụng tồn
tại đan xen nhau, liên quan chặt chẽ với nhau trong quá trình tố tụng. Thậm
chí trong một số trường hợp nhất định sự thể hiện cụ thể của mối quan hệ này
là rất khó phân biệt. Để hoàn thành nhiệm vụ tố tụng, các cơ quan tiến hành tố
tụng phải coi trọng và phát huy cả hai loại quan hệ, thực hiện sự phối hợp và
chế ước phải được giới hạn trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
mà pháp luật quy định cho mỗi cơ quan. Khác với các hoạt động tố tụng dân
sự, kinh tế, lao động hoạt động tố tụng hình sự là hoạt động hết sức khó khăn
và phức tạp. Nó nhằm vào chứng minh một sự kiện, một hiện tượng đã tồn tại
trong quá khứ. Vì thế, các cơ quan tiến hành tố tụng không thể đơn lẻ tự mình
mà giải quyết được vụ án. Điều đó có nghĩa là quan hệ phối hợp hoạt động
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, là hết sức quan trọng và cần thiết nhằm
tạo ra sự đồng bộ, thống nhất trong hoạt động để vụ án được giải quyết một
cách nhanh chóng, chính xác, công mình và đúng pháp luật. Tuy nhiên, sự
phối hợp đó cũng chỉ ở một giới hạn, mức độ nhất định trong khuôn khổ mà
25
pháp luật cho phép. Tức là không được thái quá, vì như vậy sẽ xâm phạm tính
độc lập tự chủ và sáng tạo của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng.
Cơ quan điều tra có mối quan hệ rõ nét với Viện kiểm sát, bên cạnh đó
cũng có mối quan hệ với Tòa án. Nội dung của mối quan hệ giữa cơ quan điều
tra với Viện kiểm sát được xuất phát từ nhiệm vụ chung nhất là thu thập
những tài liệu có căn cứ và hợp pháp để chứng minh tội phạm và người phạm
tội làm cơ sở cho việc buộc tội trước Tòa án. Để làm được nhiệm vụ này hai
cơ quan này phải có sự phối hợp với nhau trong quá trình giải quyết vụ án.
Đồng thời để tránh những khiếm khuyết, sai lầm có thể xảy ra trong quá trình
giải quyết vụ án giữa hai cơ quan này phải có sự chế ước lẫn nhau đảm bảo
cho hoạt động tố tụng hình sự được tuân thủ đúng pháp luật.
Trên cơ sở vị trí, chức năng, quyền hạn trách nhiệm của Tòa án, Viện
kiếm sát (cơ quan công tố), Cơ quan điều tra trong giải quyết vụ án hình sự có
thể đưa ra định nghĩa về mối quan hệ này như sau: Mối quan hệ giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự là mối quan hệ chế ước, phối hợp lẫn nhau
trên cơ sở qui định của pháp luật hướng tới mục đích của tố tụng hình sự
trong giải quyết vụ án hình sự bảo đảm đấu tranh phòng ngừa tội phạm có
hiệu quả cũng như tôn trọng và bảo đảm quyền con người.
1.2.3. Nội dung mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
1.2.3.1. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát (cơ
quan công tố)
Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát tồn tại như một
tất yếu khách quan của quá trình giải quyết vụ án nhưng nội dung mối quan
hệ này lại phụ thuộc vào nguyên tắc tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà
nước được xác định trong Hiến pháp và mô hình tố tụng hình sự mối quốc
gia. Ở những quốc gia, Bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân
quyền thì Viện kiểm sát (Cơ quan công tố) là một cơ quan thuộc nhánh quyền
hành pháp có chức năng thực hành quyền công tố. Để thực hiện quyền công