Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Một số vấn đề cơ bản về chế định hiệu lực của Bộ Luật Hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (818.28 KB, 91 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN XUÂN LƯỢT





MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỊNH
HIỆU LỰC CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ TRONG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM











LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC













HÀ NỘI - 2012


2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN XUÂN LƯỢT






MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỊNH
HIỆU LỰC CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ TRONG

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM




Chuyên ngành: Luật Hình sự
Mã số : 60 38 40



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm







HÀ NỘI - 2012

4
MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa


Lời cam đoan

Mục lục

Mở đầu
01
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU LỰC CỦA
ĐẠO LUẬT HÌNH SỰ
08
1.1. Khái niệm hiệu lực của đạo luật hình sự và các đặc điểm cơ bản của

08
1.2. Nội hàm khoa học của phạm trù “hiệu lực hồi tố” của đạo luật hình
sự
11
1.2.1. Khái niệm “hiệu lực hồi tố của đạo luật hình sự”
11
1. 2. 2. Bản chất xã hội – pháp lý của vấn đề hiệu lực “hồi tố của đạo luật
hình sự”
12
1.2.3. Hiệu lực của đạo luật hình sự về thời gian
17
1.2.4. Hiệu lực của đạo luật hình sự về không gian
23
1.2.5. Hiệu lực của đạo luật hình sự về lãnh thổ
27
1.3. Vấn đề hiệu lực của đạo luật hình sự trong pháp luật hình sự một số
nước trên thế giới
29

CHƢƠNG 2: CÁC QUY PHẠM PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN CHẾ ĐỊNH HIỆU LỰC CỦA ĐẠO LUẬT
HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
43
2.1. Giai đoạn từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến pháp điển hóa lần
thứ nhất (1945-1985)
43
2.2. Trong Bộ luật hình sự năm 1985
46

5
2.2.1 Các quy phạm pháp luật về hiệu lực của đạo luật hình sự trong Bộ
luật hình sự năm 1985
46
2.2.2 Quy định về hiệu lực của Bộ luật hình sự trong Bộ luật hình sự
trong các lần sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1985
50
2.3. Trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành
51
2.4. Thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự liên quan đến chế
định hiệu lực của Bộ luật hình sự
55
2.4.1 Vấn đề áp dụng chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự trong thự tế
hiện nay
55
2.4.2 Một số bất cập, vướng mắc trong quá trình áp dụng chế định hiệu
lực của Bộ luật hình sự trên thực tiễn
57
CHƢƠNG 3: VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN CÁC QUY PHẠM PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN CHẾ ĐỊNH HIỆU

LỰC CỦA ĐẠO LUẬT HÌNH SỰ
69
3.1. Một số quy định cần sửa đổi trong Bộ luật hình sự hiện hành
70
3.2. Bổ sung một số quy định mới trong Bộ luật hình sự hiện hành
73
3. 3. Mô hình lý luận về một số quy phạm pháp luật của chế định hiệu lực
của Bộ luật hình sự Việt Nam
77
KẾT LUẬN
81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
84




6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cùng với đó là
quá trình nhất thể hóa hội nhập pháp luật đã và đang thực sự diễn ra trên
nhiều lĩnh vực, có tác động sâu sắc đến sự phát triển của đất nước ta hiện nay.
Trong đó, vấn đề hoàn thiện chính sách pháp luật trong đó có chính sách
pháp luật hình sự là một vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan
tâm.
Điều đó được phản ánh trong các văn kiện Đại hội của Đảng Cộng Sản
Việt Nam, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa
xã hội trong các kỳ Đại hội vừa qua. Nhằm cụ thể hóa một số chủ chương của

Đảng, tại nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính
Trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: ”hoàn thiện hệ
thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp hình sự phù hợp với mục tiêu
của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi trọng việc
hoàn thiện chính sách hình sự” [19] với quan điểm “phải kế thừa truyền
thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của ngoài phù
hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế; đáp ứng
được xu thế phát triển của xã hội trong tương lai” [19].
Với chủ chương cải cách tư pháp trên, việc nghiên cứu chế định hiệu
lực của Bộ luật hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam có ý nghĩa rất quan
trọng thể hiện trên các bình diện chủ yếu dưới đây:
- Về mặt lý luận, luận văn là công trình nghiên cứu chuyên khảo đề cập
riêng đến việc phân tích có hệ thống những nội dung cơ bản của chế định

7
hiệu lực của Bộ luật hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam với những đóng
góp về mặt khoa học pháp lý, làm sáng tỏ bản chất pháp lý của chế định hiệu
lực của Bộ luật hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam.
- Về mặt lập pháp, các kết quả của quá trình nghiên cứu sẽ hỗ trợ, bổ
sung cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình xây dựng và
áp dụng pháp luật. Nó giúp cho chúng ta nhận ra những vấn đề cụ thể nào cần
thống nhất; vấn đề nào cần làm sáng tỏ những qui định trong pháp luật hình
sự nước ta về chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự trong pháp luật hình sự
Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn, kết quả của việc nghiên cứu sẽ cung cấp cho các
nhà làm luật, các nhà lý luận, các thẩm phán và những chủ thể hoạt động thực
tiễn pháp lý khác những giải pháp để giải quyết các vấn đề xã hội được đặt ra
trong đời sống xã hội. Các giải pháp này đôi khi hữu ích hơn những tư tưởng
đang bị vây hãm chặt chẽ bởi hệ thống pháp luật quốc gia đang cần cải cách.

Đặc biệt, hiện nay những qui định của pháp luật hình sự Việt Nam về
hiệu lực của Bộ luật hình sự mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung so với Bộ luật
hình sự năm 1985, nhưng trong thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự vẫn còn
một số điểm khó khăn, vướng mắc, bất cập vẫn chưa được giải quyết. Dựa
trên kết quả của việc nghiên cứu chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự trong
pháp luật hình sự Việt Nam sẽ góp phần xây dựng và hoàn thiện chế định
hiệu lực của Bộ luật hình sự trong pháp luật hình sự nước ta hiện nay.
Ngay cả trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự
gần đây của Quốc Hội khóa XII kỳ họp thứ 5 số 37/2009/QH12 ngày 19
tháng 6 năm 2009 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010 cũng chỉ sửa
đổi, bổ sung và bãi bỏ một số điều trong các quy định tại phần riêng của Bộ
luật hình sự năm 1999 mà không sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ các qui định

8
trong phần chung của Bộ luật hình sự nói chung cũng như qui định về chế
định hiệu lực của Bộ luật hình sự nói riêng.
Vì vậy, việc nghiên cứu chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự trong
pháp luật hình sự Việt Nam để từ đó đưa ra những giải pháp góp phần hoàn
thiện các qui định của pháp luật hình sự trở thành một yêu cầu cấp bách và có
ý nghĩa thiết thực về mặt lý luận, mặt lập pháp cũng như thực tiễn áp dụng
các qui định của pháp luật hình hình sự ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự Việt Nam đã có nhiều tài
liệu đề cập đến như giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Phần chung, Khoa luật
- Đại Học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội, 2003;
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 1, Đại Học Luật Hà Nội, Nxb Công
An Nhân Dân, Hà nội, 2006; Lê Văn Cảm: Những vấn đề cơ bản trong khoa
học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội,
2005; Đinh Văn Quế: Bình Luận Khoa Học Bộ Luật Hình Sự (Phần chung),
Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, Thành Phố Hồ Chí Minh, 2006…

Những công trình này đã phần nào đề cập đến chế định hiệu lực của Bộ
luật hình sự. Tuy nhiên, các công trình này vẫn chưa nghiên cứu một cách có
hệ thống và chuyên biệt chế định này. Vì vậy, việc nghiên cứu chế định này
có ý nghĩa thiết thực về mặt lý luận cũng như về thực tiễn áp dụng, nhằm đưa
ra một cách hệ thống, toàn diện, đầy đủ và chuyên biệt nhất chế định hiệu lực
của Bộ luật hình sự Việt Nam. Tác giả chọn đề tài “Một số vấn đề cơ bản về
chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam” để
làm luận văn tốt nghiệp cũng nhằm mục đích đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

9
- Mục đích:
Mục đích của luận văn đó là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt
lý luận những nội dung cơ bản của chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự
trong pháp luật hình sự Việt Nam, xác định những bất cập trong thực tiễn để
đề xuất những giải pháp tiếp tục hoàn thiện chế định trong thời gian tới và
nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung vào giải quyết những
nhiệm vụ sau:
Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu sự phát triển của chế định này
trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, đồng thời so sánh chế định hiệu lực
của Bộ luật hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam với chế định hiệu lực
của Bộ luật hình sự trong pháp luật hình sự của một số nước khác trên thế
giới, làm sáng tỏ bản chất pháp lý của chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự
trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: nghiên cứu việc áp dụng các quy phạm pháp luật của
chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự nước ta. Trên cơ sở phân tích những thiếu sót, khuyết điểm và những

vướng mắc của việc áp dụng pháp luật hình sự liên quan đến chế định hiệu
lực của Bộ luật hình sự, đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm góp phần tạo sự
nhận thức và áp dụng pháp luật được thống nhất.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chế định hiệu lực của Bộ luật
hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ và các qui định về

10
chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự ở một số nước trên thế giới. Cụ thể là
nghiên cứu những vấn đề về chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự như: Khái
niệm; căn cứ; điều kiện…
Luận văn nghiên cứu chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự trong pháp
luật hình sự Việt Nam dưới góc độ luật hình sự. Luận văn nghiên cứu chế
định hiệu lực của Bộ luật hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam trải dài
theo suốt chiều dài lịch sử của nước ta kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa được thành lập năm 1945 cho đến nay. Cụ thể là: Bộ luật hình sự của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1985; Các luật sửa đổi, bổ
sung năm 1989, năm 1991, năm 1992, năm 1997 Bộ luật hình sự năm 1985;
Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999;
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự của Quốc Hội khóa XII
kỳ họp thứ 5 số 37/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009 có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 01 năm 2010; và một số Bộ luật hình sự của một số nước khác
trên thế giới.
Đồng thời, luận văn còn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam về chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm đường lối chính sách của Đảng Cộng
Sản Việt Nam và của Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền và hoạt động tư
pháp, các học thuyết chính trị pháp lý trên thế giới. Luận văn cũng được trình

bày trên cơ sở nghiên cứu Hiến pháp, Bộ luật hình sự Việt Nam, Bộ luật hình
sự của một số nước trên thế giới và các tài liệu khác.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể

11
như phương pháp hệ thống, lịch sử, lôgíc, phân tích, tổng hợp, so sánh luật
học. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn tham khảo ý kiến của
các chuyên gia đầu nghành trong lĩnh vực tư pháp hình sự liên quan đến đề
tài.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn.
Luận văn là công trình lần đầu tiên nghiên cứu đi sâu vào phân tích
một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống chế định hiệu lực của Bộ luật hình
sự qua các thời kỳ.
Đồng thời luận văn cũng tiếp thu có chọn lọc những qui định tiến bộ
của pháp luật một số nước trên thế giới phù hợp với pháp luật nước ta để từ
đó tìm ra những giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện, hệ thống các qui phạm
pháp luật về chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự Việt Nam.
Điều này được thể hiện qua các kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện chế
định hiệu lực của Bộ luật hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay
được tác giả trình bày trong luận văn đó là:
- Khái niệm chung nhất về chế định hiệu lực của Bộ luật hình sự;
- Các trường hợp được miễn trừ trách nhiệm ngoại giao;
- Việc áp dụng các qui định trong các điều ước quốc tế song phương;
điều ước quốc tế đa phương; các tổ chức quốc tế mà nước ta tham gia; hay
các qui tắc quốc tế khác có liên quan đến chế định hiệu lực của Bộ luật hình
sự của nước ta hiện nay.
- Vấn đề hồi tố;
- Các trường hợp phạm tội ở nước ngoài;


12
- Các trường hợp người phạm tội bị kết án ở nước ngoài, đã thi hành
hoặc thi hành một phần hoặc chưa thi hành được miễn chấp hành hình phạt
các bản án có hiệu lực của nước ngoài; và một số vấn đề khác;
- Đưa ra mô hình lý luận về một số quy phạm pháp luật của chế định
hiệu lực của Bộ luật hình sự Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
này bao gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về hiệu lực của đạo luật hình sự
Chương 2: Các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam có liên quan
đến chế định hiệu lực của đạo luật hình sự và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Vấn đề hoàn thiện các quy phạm pháp luật hình sự Việt
Nam liên quan đến chế định hiệu lực của đạo luật hình sự













13
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU LỰC CỦA ĐẠO LUẬT

HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm hiệu lực của đạo luật hình sự và các đặc điểm cơ
bản của nó
1.1.1. Khái niệm hiệu lực của đạo luật hình sự
Trước hết, theo lý luận chung về pháp luật thì “đạo luật hình sự có thể
là Bộ luật hình sự hoặc một đạo luật hình sự đơn hành qui định trách nhiệm
hình sự đối với một hoặc một số tội phạm nhất định. Bộ luật hình sự được
hiểu là Đạo luật hình sự hoàn chỉnh nhất tập hợp đầy đủ các qui phạm pháp
luật hình sự”[8, tr. 84]. Như vậy, khi nói tới khái niệm về hiệu lực của Bộ
luật hình sự cũng chính là nói tới khái niệm hiệu lực của đạo luật hình sự.
Về mặt hình thức thì khái niệm hiệu lực của đạo luật hình sự chưa được
qui định cụ thể trong Bộ luật hình sự hiện hành ở nước ta hiện nay. Tuy
nhiên, trong khoa học luật hình sự hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về
khái niệm này như sau:
Theo từ điển luật học của GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và PGS.TS Lê Thị
Sơn thì hiệu lực của đạo luật hình sự là “giá trị thi hành của đạo luật hình sự
theo không gian và thời gian (đạo luật hình sự được áp dụng cho những hành
vi phạm tội xảy ra khi nào, ở đâu, do ai thực hiện)” [24].
Theo PTS Võ Khánh Vinh thì “Hiệu lực của đạo luật hình sự là sự hoạt
động hiện thực của những quy phạm pháp luật được thể hiện trong đạo luật
đó, là sự biểu hiện trong thực tế năng lượng pháp lý của chúng. Sự hoạt động
hiện thực, sự biểu hiện trong thực tế năng lượng pháp lý đó của các quy
phạm của đạo luật hình sự được khái quát bằng khái niệm hiệu lực pháp lý
của đạo luật hình sự. Khái niệm hiệu lực của đạo luật hình sự về cơ bản bao

14
hàm hiệu lực của đạo luật về không gian và hiệu lực của đạo luật về thời
gian, tức là khía cạnh làm sáng tỏ các giới hạn về không gian và thời gian về
thời gian của việc áp dụng đạo luật hình sự” [39, tr. 57].
GS.TSKH Lê Văn Cảm đưa ra định nghĩa về khái niệm hiệu lực của

Đạo luật hình sự:”Hiệu lực của đạo luật hình sự là thời điểm áp dụng một
hoặc nhiều quy phạm (chế định) cụ thể của luật hình sự đối với hành vi phạm
tội tương ứng được thực hiện bởi chủ thể nhất định trên một lãnh thổ nào đó
và trong một thời gian nào đó” [16, tr. 218].
Từ những quan điểm khoa học kể trên về hiệu lực của đạo luật hình sự,
chúng tôi có thể đưa ra quan điểm của mình về khái niệm này như sau: Hiệu
lực của đạo luật hình sự là sự biểu hiện năng lượng pháp lý của một hoặc
nhiều qui phạm cụ thể được qui định cụ thể trong Bộ luật hình sự đối với tội
phạm xảy ra trong thực tế trên một lãnh thổ nào đó và trong một khoảng thời
gian nào đó.
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản về hiệu lực của đạo luật hình sự
Từ khái niệm hiệu lực của đạo luật hình sự nêu trên cho thấy, các đặc
điểm chính của nó là:
Thứ nhất, hiệu lực của đạo luật hình sự biểu hiện năng lượng pháp lý
của một hoặc nhiều quy phạm pháp luật cụ thể. Bởi lẽ, Bộ luật hình sự thể
hiện những tư tưởng, những quan điểm cơ bản về chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nước ta; do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành, theo
trình tự, thủ tục nhất định; và việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự
này cũng do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng theo đúng quy định
của pháp luật; các quy phạm pháp luật được quy định trong Bộ luật hình sự
được mọi người tôn trọng chấp hành, khi có hành vi vi phạm các quy định

15
được quy định trong Bộ luật này có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo
quy định của pháp luật.
Trong khái niệm hiệu lực của đạo luật hình sự mà chúng tôi đưa ra ở
trên, chúng tôi đã sử dụng khái niệm“năng lượng pháp lý”. Thuật ngữ năng
lượng là thuật ngữ thường được sử dụng trong khoa học tự nhiên. Nó nói đến
khả năng làm thay đổi trạng thái hoặc thực hiện công năng lên một hệ vật
chất. Còn năng lượng pháp lý mà chúng tôi muốn nói đến ở đây, nó thể hiện

khả năng, sức lan tỏa, sức mạnh từ bên trong của chính các quy phạm pháp
luật cũng như ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể tham gia vào các
quan hệ pháp luật. Qua khái niệm này chúng tôi cũng muốn nói đến quy luật
về bảo toàn năng lượng trong vật lý học “năng lượng không tự nhiên sinh ra
cũng không tự nhiên mất đi mà nó chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng
khác” cũng giống như những giá trị thực, ý nghĩa thực của các quy phạm
pháp luật không thay đổi nó chỉ biến đổi các quy phạm pháp luật từ dạng này
sang dạng khác để phù hợp với các điều kiện khách quan ở mỗi thời kỳ, mỗi
giai đoạn và mỗi quốc gia khác nhau.
Thứ hai, một hoặc nhiều quy phạm cụ thể được quy định tại một hoặc
nhiều điều (khoản) tương ứng của pháp luật hình sự thực định. Đặc điểm này
thể hiện, chỉ có pháp luật hình sự thực định mới có các quy định pháp luật
hình sự mà không có trong các quy định pháp luật khác. Tất cả các chủ thể
khi áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự chỉ được căn cứ vào các quy
định trong Bộ luật hình sự và các văn bản pháp luật hình sự khác hướng dẫn,
giải thích các quy định trong Bộ luật hình sự.
Thứ ba, có hành vi xảy ra trong thực tế được coi là tội phạm theo qui
định của Bộ luật hình sự. Điều này có nghĩa, hành vi sảy ra trong thực tế
tương ứng với hành vi quy định trong pháp luật hình sự được coi là tội phạm.

16
Thứ tư, quy định trong đạo luật hình sự được áp dụng đối với tội phạm
thực hiện trên một lãnh thổ nào đó.
Thứ năm, quy định trong đạo luật hình sự được áp dụng trong thời gian
mà thời hiệu để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình
sự chủ thể của tội phạm theo luật định vẫn còn.
1.2. Nội hàm khoa học của phạm trù “hiệu lực hồi tố” của đạo luật
hình sự
1.2.1. Khái niệm “hiệu lực hồi tố của đạo luật hình sự”
Hiệu lực hồi tố là một dạng hiệu lực pháp luật của văn bản quy phạm

pháp luật. Theo từ điển pháp luật thì hiệu lực của văn bản quy phạm pháp
luật là được coi là “tính bắt buộc thi hành của văn bản quy phạm pháp luật
trong một giai đoạn nhất định, trên một không gian nhất định và với những
chủ thể pháp luật nhất định” [38].
Hiệu lực hồi tố là “hiệu lực trở về trước của một văn bản quy phạm
pháp luật trước cả ngày văn bản đó được ban hành, tức là các quy định của
văn bản pháp luật đó được áp dụng với cả những hành vi, sự kiện đã xảy ra
trước ngày văn bản quy phạm pháp luật đó được ban hành” [38].
Theo chúng tôi, hiệu lực hồi tố có thể được chia thành ba hình thức:
một số qui định của pháp luật cũ vẫn được áp dụng để giải quyết sau khi qui
đinh pháp luật mới có hiệu lực (thường thấy trong các qui định của pháp luật
dân sự như: các qui định về thừa kế, đất đai, hợp đồng dân sự…); hành vi
được thực hiện trước khi quy định pháp luật mới có hiệu lực có thể được điều
chỉnh bởi quy định pháp luật mới; và hành vi được thực hiện trước khi quy
định pháp luật mới có hiệu lực không thể được điều chỉnh bởi quy định pháp

17
luật mới. Pháp luật hình sự hiện hành ở nước ta được qui định theo hai hình
thức sau cùng. Cụ thể là:
Tại khoản 2 và khoản 3 điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “2.
Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết
tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình
sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định khác không
có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội
đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành; 3. Điều luật xoá bỏ
một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt
nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo,
miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các
quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi
phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”.

Từ những nhận định trên, theo chúng tôi hiệu lực hồi tố của đạo luật
hình được hiểu là: hiệu lực của một hoặc nhiều quy phạm pháp luật hình sự
đối với hành vi được pháp luật hình sự quy định là tội phạm đã thực hiện
trước khi quy phạm pháp luật hình sự đó có hiệu lực thi hành.
1.2.2. Bản chất xã hội - pháp lý của vấn đề “hiệu lực hồi tố của đạo
luật hình sự”
Nhìn từ phía Nhà nước - chủ thể có quyền ban hành pháp luật có hiệu
lực thi hành đối với mọi người cũng như nhìn từ phía các thành viên xã hội -
những chủ thể có nghĩa vụ chấp hành pháp luật, xét về mặt thời gian, một văn
bản quy phạm pháp luật được ban hành có hiệu lực từ bao giờ, từ mốc thời
gian nào là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt.
Qua cách thức xác định mốc thời gian, tức là từ thời điểm một văn bản
quy phạm pháp luật được ban hành bắt đầu có hiệu lực, nhất là các văn bản

18
quy phạm pháp luật trực tiếp liên quan, có quan hệ đến các quyền tự do, dân
chủ của công dân, có thể hình dung ra bản chất nhân dân, thuộc tính dân chủ
của một hệ thống pháp luật, cũng là của một chế độ chính trị, nhà nước.
Trong các xã hội dân chủ, thông thường văn bản quy phạm pháp luật
bắt đầu có hiệu lực thi hành kể từ ngày văn bản đó được công bố, được đăng
Công báo hoặc được xác định ngay trong văn bản pháp luật đó và thường ở
thời điểm muộn hơn. Ví dụ như: Bộ luật tố tụng hình sự được Quốc hội thông
khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003, nhưng theo
Nghị quyết về việc thi hành Bộ luật tố tụng hình sự được thông qua cũng tại
kỳ họp trên thì hiệu lực thi hành bắt đầu từ ngày 01 tháng 7 năm 2004. Nói
một cách ngắn gọn, hiệu lực pháp luật của một văn bản pháp luật là trở về
sau, từ ngày hoặc sau ngày văn bản được thông qua, ban hành, công bố, đăng
Công báo…
Tuy nhiên, trong những trường hợp cá biệt và như Điều 79 Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật quy định, có một số trường hợp cần thiết

có thể quy định hiệu lực trở về trước cho văn bản quy phạm pháp luật.
“Điều 79. Hiệu lực trở về trước của văn bản quy phạm pháp luật
1. Chỉ trong những trường hợp thật cần thiết, văn bản quy phạm pháp
luật mới được quy định hiệu lực trở về trước.
2. Không được quy định hiệu lực trở về trước đối với các trường hợp sau
đây:
a) Quy định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm
thực hiện hành vi đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý;
b) Quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn”.

19
Bộ luật hình sự quy định về tội phạm và hình phạt – quy định về loại
hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng nhất, nguy hiểm đáng kể nhất và loại
biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất. Vì vậy, việc thừa nhận về
nguyên tắc có hiệu lực hồi tố hay không là hết sức quan trọng, vì nó thể hiện
rõ nét nhất bản chất giai cấp, bản chất chế độ của nhà nước và pháp luật Việt
Nam.
Để thấy được Bộ luật hình sự có hiệu lực hồi tố hay không, chúng ta có
thể nghiên cứu các quy định có liên quan trong Bộ luật hình sự năm 1999:
Nói về cơ sở của trách nhiệm hình sự, Điều 2 quy định: “Chỉ người
nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách
nhiệm hình sự”. Điều đó có nghĩa là, chỉ người nào thực hiện một hành vi
nguy hiểm cho xã hội, khi và chỉ khi hành vi đó đã bị cấm trong Bộ luật hình
sự lúc nó được thực hiện thì mới bị coi là tội phạm và phải chịu hình phạt.
Định nghĩa về tội phạm, Điều 8 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự…”. Trong các dấu hiệu
của tội phạm, tính trái pháp luật hình sự thể hiện rất rõ việc không áp dụng
hồi tố trong luật hình sự Việt Nam. Việc quy định như trên là là sự thừa nhận
nguyên tắc đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền
của Liên hiệp quốc: “Không ai bị kết án vì một hành vi mà lúc họ thực hiện

luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế không coi là tội phạm” (Trích
khoản Điều 11). Cùng với việc không áp dụng nguyên tắc tương tự, việc
không áp dụng hồi tố là sự thể hiện cụ thể của nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong luật hình sự Việt Nam.
Về hiệu lực của Bộ luật hình sự về thời gian, Điều 7 quy định:
“1. Điều luật được áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật
đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện.

20
2. Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một
tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định
khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đối với hành
vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.
3. Điều luật xoá bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng
nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở
rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt,
giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội,
thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó
có hiệu lực thi hành”.
Như vậy, theo các quy định trên thì luật hình sự Việt Nam hiện hành
không thừa nhận nguyên tắc hồi tố. Không nhà nước nào có thể bắt các chủ
thể pháp luật phải chịu trách nhiệm về một hành vi, dù là nguy hiểm, mà khi
hành vi đó được thực hiện, nó chưa bị cấm! Đó là nguyên tắc được thừa nhận
rộng rãi trong luật hình sự quốc tế.
Tuy vậy, trong lịch sử luật hình sự Việt Nam, cũng như một số vấn đề
áp dụng pháp luật, chúng ta cho phép vận dụng nguyên tắc này.
Trước khi Bộ luật hình sự được ban hành (năm 1985), do điều kiện luật
hình sự chưa hoàn chỉnh nên luật hình sự Việt Nam còn vận dụng nguyên tắc
hồi tố. Việc vận dụng này xuất phát từ sự cần thiết phải bảo vệ lợi ích của

Nhà nước, lợi ích của xã hội và công dân. Tuy nhiên, khi xã hội phát triển
đến một chừng mực nào đó, kỹ thuật lập pháp hình sự phát triển, yêu cầu của
nguyên tắc pháp chế không cho phép áp dụng nguyên tắc hồi tố để xử lý tội
phạm, bởi nó khiến người ta không thể biết trước liệu việc mình làm hôm nay
có chắc chắn không vi phạm pháp luật hình sự hay không. Ngay cả trong các

21
đạo luật khác, những thay đổi của pháp luật, nếu bất lợi cho đối tượng áp
dụng cũng không có hiệu lực hồi tố.
Thực hiện nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, luật hình sự Việt
Nam cho phép vận dụng nguyên tắc hồi tố trong trường hợp có lợi cho người
phạm tội. Đây chỉ là việc vận dụng nguyên tắc trong một số trường hợp cụ
thể được quy định rõ trong Bộ luật hình sự và các văn bản liên quan (Nghị
quyết của Quốc hội về thi hành Bộ luật và Thông tư liên tịch hướng dẫn Nghị
quyết).
Khoản 3 Điều 7 BLHS quy định: “Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một
hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình
tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm
hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có
lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực
hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”.
Về mặt câu chữ, thì rõ ràng Bộ luật hình sự quy định cả về hiệu lực hồi
tố và cấm hồi tố. Vậy tại sao lại nói, luật hình sự Việt Nam cấm hồi tố? Việc
cấm hồi tố là quy định về mặt nguyên tắc, còn việc cho phép hồi tố đối với
một số trường hợp cụ thể là việc vận dụng nguyên tắc theo hướng có lợi cho
người phạm tội. Việc quy định không cho phép có hiệu lực hồi tố là một
nguyên tắc có tính pháp lý của một hệ thống pháp luật dân chủ theo tình thần
xây dựng nhà nước pháp quyền, có tầm quan trọng đặc biệt, vì nó góp phần
tạo lập một trật tự pháp luât đủ tin cậy, đảm bảo xác lập một tâm lý xã hội
vững tin vào tư cách hợp pháp của hành vi của mọi chủ thể qua hệ pháp luật,

tạo thế ổn định, vững chắc của cả hệ thống quan hệ xã hội được mọi người
tham gia, giải tỏa trạng thái bất an, đưa lại sự tin tưởng vào ngày mai của chủ
thể quan hệ pháp luật. Trong sự thống nhất với việc cấm hồi tố đó, việc quy

22
định cho phép hồi tố trong một số trường hợp cụ thể không làm ảnh hưởng
bất lợi đến quyền lợi, nghĩa vụ của người phạm tội, được cộng đồng quốc tế
thừa nhận và khuyến khích.
Như vậy có thể thấy, pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành không thừa
nhận nguyên tắc hồi tố mà chỉ cho phép vận dụng nguyên tắc này trong một
số trườg hợp cụ thể theo hướng có lợi cho người phạm tội.
1.2.3. Hiệu lực của đạo luật hình sự về thời gian
*Hiệu lực của Bộ luật hình sự theo thời gian
Hiệu lực theo thời gian của văn bản quy phạm pháp luật là “tính bắt
buộc thi hành của văn bản quy phạm pháp luật đối với các chủ thể pháp luật
tại thời điểm văn bản đó phát sinh hiệu lực tới thời điểm văn bản đó chấm
dứt hiệu lực” [38]. Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật 2008, thời điểm bắt đầu có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật
được quy định trong văn bản nhưng không được sớm hơn 45 ngày, kể từ
ngày công bố hoặc ký ban hành, trừ một số trường hợp đặc biệt.
“Điều 78. Thời điểm có hiệu lực và việc đăng Công báo văn bản quy
phạm pháp luật
1. Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy
định trong văn bản nhưng không sớm hơn bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày
công bố hoặc ký ban hành.
Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật quy định các biện pháp thi
hành trong tình trạng khẩn cấp, văn bản được ban hành để kịp thời đáp ứng
yêu cầu phòng, chống thiên tai, dịch bệnh thì có thể có hiệu lực kể từ ngày
công bố hoặc ký ban hành nhưng phải được đăng ngay trên Trang thông tin
điện tử của cơ quan ban hành và phải được đưa tin trên phương tiện thông tin


23
đại chúng; đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sau
đây gọi chung là Công báo) chậm nhất sau hai ngày làm việc, kể từ ngày công
bố hoặc ký ban hành.
2. Văn bản quy phạm pháp luật phải được đăng Công báo; văn bản
quy phạm pháp luật không đăng Công báo thì không có hiệu lực thi hành, trừ
trường hợp văn bản có nội dung thuộc bí mật nhà nước và các trường hợp
quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều này.
Trong thời hạn chậm nhất là hai ngày làm việc, kể từ ngày công bố
hoặc ký ban hành, cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải gửi
văn bản đến cơ quan Công báo để đăng Công báo.
Cơ quan Công báo có trách nhiệm đăng toàn văn văn bản quy phạm
pháp luật trên Công báo chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được
văn bản.
Văn bản quy phạm pháp luật đăng trên Công báo là văn bản chính
thức và có giá trị như văn bản gốc.
Chính phủ quy định cụ thể về Công báo”.
Còn hiệu lực của đạo luật hình sự theo thời gian được hiểu là “thời
điểm áp dụng một hoặc nhiều qui phạm (chế định) cụ thể của luật hình sự đối
với hành vi phạm tội tương ứng được thực hiện bởi chủ thể nhất định trong
một thời gian nào đó” [16, tr. 222].
Việc qui định hiệu lực về thời gian của đạo luật hình sự dựa vào hai
nguyên tắc cơ bản đó là:
Một là, nguyên tắc chung được thừa nhận trong luật hình sự của các
nước là luật hình sự được áp dụng là luật đang có hiệu lực thi hành tại thời
điểm thực hiện tội phạm.

24
Điều này được thể hiện trong khoản 1 điều 7 Bộ luật hình sự năm 1999:

“Điều luật được áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có
hiệu lực thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện”.
Như vậy có thể thấy, không được áp dụng một đạo luật hình sự mới đối
với những hành vi được thực hiện tại thời điểm khi chưa có đạo luật hình sự
đó. Thời điểm thực hiện hành vi tội phạm được tính từ khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội không phụ thuộc vào thời điểm phát sinh hậu quả của
tội phạm.
Hai là, nguyên tắc không có hiệu lực hồi tố thể hiện ở chỗ đạo luật hình
sự không có hiệu lực đối với những hành vi phạm tội đã được thực hiện trước
khi đạo luật đó được ban hành, mà chỉ có hiệu lực ở khoảng thời gian từ thời
điểm đạo luật đó có hiệu lực thi hành cho đến thời điểm đạo luật đó mất hiệu
lực. Nguyên tắc đó đảm bảo tính xác định và tính vững chắc của trật tự pháp
luật, bảo đảm tác động giáo dục của các quy phạm pháp luật hình sự và các
đòi hỏi của chế độ pháp chế trong lĩnh vực pháp luật hình sự.
Điều này được qui định tại khoản 1 và khoản 2 điều 7 Bộ luật hình sự:
“1. Điều luật được áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có
hiệu lực thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện.
2. Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết
tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình
sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá án tích và các quy định khác không
có lợi cho người phạm tội, thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội
đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”.
Việc qui định nguyên tắc không có hiệu lực hồi tố trong Bộ luật hình
sự không phải là nguyên tắc tuyệt đối mà qua nguyên tắc này để qui định hiệu
lực về thời gian của đạo luật hình sự. Chính vì vậy, đề cập đến hiệu lực của

25
Bộ luật hình sự theo thời gian còn phải dựa vào cả nguyên tắc có hiệu lực hồi
tố. Nguyên tắc có hiệu lực hồi tố là “việc áp dụng các văn bản pháp luật hình
sự mới đối với những hành vi phạm tội được thực hiện trước khi văn bản đó

có hiệu lực thi hành” [38, tr. 60].
Như phần trên đã phân tích, pháp luật hình sự Việt Nam chỉ cho phép
vận dụng trong một số trường hợp cụ thể nguyên tắc hồi tố theo hướng có lợi
cho người phạm tội. Tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự quy định: “Điều luật
xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một
hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng
án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án
tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với
hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”.
Căn cứ để xác định hiệu lực về thời gian là thời điểm mà điều luật của
Bộ luật hình sự đó được ban hành có hiệu lực, chứ không phải căn cứ vào
ngày ban hành. Cụ thể, Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc hội thông qua
ngày 21 tháng 12 năm 1999 nhưng có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2000.
Theo qui định tại điểm 2 Nghị quyết số 32-1999/NQ-QH10 ngày 21 tháng 12
năm 1999 về việc thì hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 thì:
“A) Tất cả các điều khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng để điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ
0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm 2000;
B) Các điều luật xoá bỏ một hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy
định hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp
dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá
án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối
với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7 năm

26
2000 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử
hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xoá án
tích;
C) Các điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt mới, một
hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp

dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xoá
án tích và các quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không áp
dụng đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01 tháng 7
năm 2000 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét
xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xoá
án tích; trong trường hợp này, vẫn áp dụng quy định tương ứng của các văn
bản pháp luật hình sự trước đây để giải quyết;
D) Đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01
tháng 7 năm 2000 và đã có bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật, thì không được căn cứ vào những quy định của Bộ luật hình sự này có
nội dung khác so với các điều luật đã được áp dụng khi tuyên án để kháng
nghị giám đốc thẩm; trong trường hợp kháng nghị dựa vào căn cứ khác hoặc
đã kháng nghị trước ngày 01 tháng 7 năm 2000, thì việc xét xử giám đốc
thẩm phải tuân theo quy định tại điểm b và điểm c Mục này”.
Tuy nhiên, cần chú ý đối với một số qui định mang tính nhân đạo của
Bộ luật hình sự năm 1999 sẽ được áp dụng kể từ ngày Chủ tịch nước ký lệnh
công bố (tức là ngày 04 tháng 01 năm 2000). Theo Điểm 3 nghị quyết số 32-
1999-NQ-QH10 ngày 21 tháng 12 năm 1999 về việc thi hành Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999 các qui định đó là:

×