Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 108 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




ĐINH THỊ HOÀI PHƢƠNG









MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HÌNH PHẠT
CẢNH CÁO THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2010

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



ĐINH THỊ HOÀI PHƢƠNG







MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
HÌNH PHẠT CẢNH CÁO THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM



Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt




HÀ NỘI - 2010

2


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận
văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Đinh Thị Hoài Phƣơng














3
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT CẢNH CÁO
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
9
1.1.
Khái niệm và các đặc điểm cơ bản của hình phạt cảnh cáo
theo luật hình sự Việt Nam
9
1.1.1.
Khái niệm hình phạt và mục đích của hình phạt
9
1.1.2.
Khái niệm hình phạt cảnh cáo
13
1.1.3.
Các đặc điểm cơ bản của hình phạt cảnh cáo
16
1.2.
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự
Việt Nam về hình phạt cảnh cáo từ sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945 cho đến nay
27
1.2.1.
Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến
trƣớc pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1985
27
1.2.2.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm

1985 cho đến nay
32
1.3.
Phân biệt hình phạt cảnh cáo với một số chế định khác
35
1.3.1.
Phân biệt hình phạt cảnh cáo với miễn hình phạt
36
1.3.2.
Phân biệt hình phạt cảnh cáo với miễn trách nhiệm hình sự
37
1.3.3.
Phân biệt hình phạt cảnh cáo với miễn chấp hành hình phạt
40

4
1.3.4.
Phân biệt hình phạt cảnh cáo trong luật hình sự với biện pháp
cảnh cáo của luật hành chính
41

Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
NĂM 1999 VỀ HÌNH PHẠT CẢNH CÁO VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG
43
2.1.
Các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về hình
phạt cảnh cáo
43
2.1.1.

Trong Phần chung Bộ luật hình sự
43
2.1.2.
Trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự
49
2.2.
Thực tiễn áp dụng hình phạt cảnh cáo
52
2.2.1.
Tình hình áp dụng hình phạt cảnh cáo
53
2.2.2.
Một số tồn tại, hạn chế của việc áp dụng hình phạt cảnh cáo
và các nguyên nhân cơ bản
59

Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VỀ
HÌNH PHẠT CẢNH CÁO
72
3.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999 về hình phạt cảnh cáo
72
3.1.1.
Về phƣơng diện thực tiễn
73
3.1.2.
Về phƣơng diện lập pháp

74
3.1.3.
Về phƣơng diện lý luận
75
3.2.
Nội dung sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự
năm 1999 về hình phạt cảnh cáo
75
3.3.
Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về hình phạt cảnh cáo
81
3.3.1.
Tăng cƣờng năng lực, trình độ chuyên môn và ý thức pháp
luật, trách nhiệm của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm
81

5
3.3.2.
Tiếp tục ban hành các văn bản hƣớng dẫn áp dụng thống nhất
pháp luật
83
3.3.3.
Giải pháp về sự tham gia của các cơ quan, tổ chức và gia đình
ngƣời đƣợc áp dụng hình phạt cảnh cáo để giám sát, quản lý
và giáo dục
84
3.3.4.
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân
85

3.3.5.
Giải pháp tăng cƣờng sự hợp tác quốc tế và trao đổi về kinh
nghiệm lập pháp hình sự về hình phạt cảnh cáo
89

KẾT LUẬN
91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
93


6

DANH MỤC CÁC BẢNG

Sè hiÖu
b¶ng
Tªn b¶ng
Trang
1.1
Những điểm khác nhau giữa hình phạt cảnh cáo và miễn
hình phạt
37
1.2
Những điểm khác nhau giữa hình phạt cảnh cáo và miễn
trách nhiệm hình sự
39
1.3
Những điểm khác nhau giữa hình phạt cảnh cáo và miễn

chấp hành hình phạt
41
1.4
Những điểm khác nhau giữa hình phạt cảnh cáo trong
luật hình sự với biện pháp cảnh cáo trong luật hành chính
42
2.1
Thống kê các tội phạm trong Bộ luật hình sự có quy định
hình phạt cảnh cáo
50
2.2
Tỷ lệ số vụ án và bị cáo Tòa án nhân dân các cấp xử sơ
thẩm từ 2000 đến 2009
54
2.3
Tỷ lệ bị cáo bị áp dụng hình phạt cảnh cáo trên tổng số bị
cáo bị xét xử sơ thẩm từ 2000 đến 2009
55
2.4
Số bị cáo bị áp dụng hình phạt cảnh cáo theo từng nhóm
tội phạm từ 2000 đến 2009
56
2.5
Số bị cáo bị áp dụng hình phạt cảnh cáo trên tổng số bị
cáo bị đƣa ra xét xử từ 2000 đến 2009
58



7


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu của
Đảng và Nhà nƣớc ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ, quyền làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa các dân tộc,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, duy trì trật tự, an toàn xã hội,
đồng thời, pháp luật hình sự còn góp phần chống lại mọi hành vi phạm tội,
giáo dục mọi ngƣời ý thức chấp hành và tuân theo pháp luật.
Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam từ năm 1945 đến
nay cho thấy hệ thống hình phạt đƣợc quy định phong phú và đa dạng, có sự
kế thừa và bổ sung hoàn thiện qua từng thời kỳ. Hệ thống hình phạt trong Bộ
luật hình sự năm 1999 là kết quả của nhiều lần sửa đổi và bổ sung trên cơ sở
tổng kết thực tiễn áp dụng và thi hành các loại hình phạt của các cơ quan bảo
vệ pháp luật và Tòa án.
Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, các hình phạt có ý
nghĩa quyết định và góp phần phát huy đƣợc vai trò tích cực là một bộ phận
cấu thành không thể thiếu trong hệ thống các biện pháp tác động của Nhà
nƣớc và xã hội đến tội phạm. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển toàn
diện của đất nƣớc trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và qua thực
tiễn áp dụng, nhiều quy định về hình phạt trong hệ thống hình phạt nói chung
và hình phạt cảnh cáo nói riêng của Bộ luật hình sự năm 1999, mặc dù Bộ luật
này đã đƣợc sửa đổi, bổ sung theo Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/6/2009 vẫn
còn một số bất cập và hạn chế (nhƣ: chƣa đƣa ra định nghĩa pháp lý của khái
niệm hình phạt cảnh cáo, ở một chừng mực nhất định, điều kiện áp dụng hình

8
phạt cảnh cáo chƣa đƣợc quy định chặt chẽ và hợp lý, đồng thời, cần bổ sung

quy định của Bộ luật hình sự với nội dung tăng tính cƣỡng chế của hình phạt
cảnh cáo; v.v ).
Một số tồn tại và hạn chế nêu trên đã gây ra những vƣớng mắc, lúng
túng và có không ít trƣờng hợp áp dụng còn chƣa thống nhất các quy định của
Bộ luật hình sự trong hoạt động xét xử của Tòa án các cấp. Mặt khác, trong
thực tiễn áp dụng, do chƣa đánh giá hết vai trò, chức năng, công dụng của
hình phạt cảnh cáo trong cải tạo, giáo dục ngƣời phạm tội, phòng ngừa tội
phạm, nên các Tòa án còn ít quan tâm áp dụng hình phạt; khi áp dụng còn có
trƣờng hợp không đúng, vi phạm nội dung, điều kiện, phạm vi áp dụng hình
phạt cảnh cáo. Tất cả những vấn đề này là nguyên nhân làm giảm hiệu quả
trong áp dụng và thi hành hình phạt cảnh cáo.
Hiện nay, khoa học luật hình sự trong và ngoài nƣớc đã có nhiều công
trình khoa học nghiên cứu về hình phạt, nhƣng chủ yếu chỉ đề cập một cách tổng
thể và có hệ thống những khía cạnh lý luận chung nhất về hình phạt hoặc về các
hình phạt chính hay hình phạt bổ sung mà chƣa có một công trình khoa học nào
nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và sâu sắc riêng về hình phạt cảnh cáo dƣới
góc độ lý luận cũng nhƣ thực tiễn áp dụng. Ngoài ra, trong bối cảnh Việt Nam
đang thực hiện công cuộc cải cách tƣ pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trong tâm công tác tƣ pháp
trong thời gian tới"; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị
về "Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hƣớng đến năm 2020"; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005
của Bộ Chính trị về "Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020" với nội dung
"sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tƣ pháp phù hợp mục
tiêu của chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật…, đề cao hiệu
quả phòng ngừa và tính hƣớng thiện trong việc xử lý ngƣời phạm tội. Giảm hình
phạt tù…". Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự

9
Việt Nam hiện hành về hình phạt cảnh cáo và thực tiễn áp dụng để làm sáng tỏ

về mặt khoa học và đƣa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa
lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho sự cần
thiết để chúng tôi lựa chọn đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình
phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Do hình phạt có vị trí, vai trò quan trọng trong luật hình sự, nên ở
trong và ngoài nƣớc đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những
mức độ khác nhau, những khía cạnh, phƣơng diện khác nhau về hình phạt và
hệ thống hình phạt, trong đó có hình phạt cảnh cáo.
Vấn đề hình phạt đã đƣợc nhiều chuyên gia ở nƣớc ngoài nghiên cứu
nhƣ: Sargorotxki, Hình phạt, mục đích và hiệu quả của nó, Leningrat 1973
(tiếng Nga); A. Merle và A. Vitu, Những vấn đề chung về khoa học hình sự.
Luật hình sự Phần chung, Paris, 1981 (tiếng Pháp); Hình phạt, những khía cạnh
pháp lý, xã hội và lịch sử, Berlin, 1982 (tiếng Đức); Galperin I.M, Hình phạt,
chức năng xã hội và thực tiễn áp dụng, Matxcơva, 1983 (tiếng Nga); v.v
Ở Việt Nam, khoa học luật hình sự là một trong những ngành khoa
học pháp lý phát triển nhất so với các ngành khoa học pháp lý khác, do đó, xét
riêng về hình phạt, cho thấy có các công trình nghiên cứu tiêu biểu nhƣ sau:
Cấp độ luận văn thạc sĩ thực hiện ở Viện Nhà nƣớc và pháp luật (Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam) có các đề tài của các tác giả Nguyễn Văn Vĩnh, Hệ
thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 1996; Vũ Lai Bằng, Hình
phạt tiền trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 1997; Đặng Đức Thạo, Hệ thống
hình phạt trong luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2002; v.v
Còn ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các đề tài của các tác giả
Nguyễn Sơn, Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam, Viện Nhà
nƣớc và Pháp luật, Hà Nội, 2003; Phạm Văn Beo, Hình phạt tử hình trong

10
luật hình sự Việt Nam, Viện Nhà nƣớc và Pháp luật, Hà Nội, 2007 và gần đây

nhất là của tác giả Trịnh Quốc Toản, Các hình phạt bổ sung trong luật hình
sự Việt Nam, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010.
Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công
trình sau: GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Chương thứ bảy - Hình phạt và biện pháp
tư pháp, Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học
luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; GS.TS.
Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội, 2001; Viện Nhà nƣớc và Pháp luật, Tội phạm học, luật
hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1994; Viện Nhà nƣớc và Pháp luật, Những vấn đề lý luận của việc đổi mới
pháp luật hình sự trong giai đoạn hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
1994; Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tƣ pháp, Hình phạt trong luật hình sự Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; TS. Đặng Quang Phƣơng (Chủ
nhiệm đề tài), Cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả của các biện pháp
tư pháp và các hình phạt không phải là tù và tử hình, Hà Nội, 1996; v.v
Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có
đề cập đến hình phạt nhƣ: GS. TSKH. Lê Văn Cảm, Hình phạt và các biện
pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số
8/2000; Một số vấn đề cơ bản về hình phạt, Tạp chí Công an nhân dân, số
5/2001 và Hình phạt và hệ thống hình phạt, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
7/2007; GS. TS. Võ Khánh Vinh, Những đòi hỏi của nguyên tắc công bằng
đối với việc quy định hệ thống chế tài ở Phần các tội phạm của Bộ luật hình
sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/1993; GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Mục đích
của hình phạt, Tạp chí Luật học, số 1/1999; PGS. TS. Trần Văn Độ, Một số
vấn đề về hình phạt cải tạo không giam giữ, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
5/1995; PGS. TS. Nguyễn Mạnh Kháng, Hình phạt - Một số vấn đề lý luận,
Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 10/2000; TS. Trịnh Quốc Toản, Một số vấn
đề về hình phạt quản chế trong luật hình sự Việt Nam, chuyên san Kinh tế -

11

Luật, số 1/2004; Về hình phạt cấm cư trú trong luật hình sự Việt Nam, Tạp
chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 6/2004 và Về hình phạt tiền trong luật hình sự
một số nước trên thế giới, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 7/2003; TS.
Phạm Văn Beo, Một số vấn đề về khái niệm hình phạt, Tạp chí Nhà nƣớc và
pháp luật, số 11/2005; TS. Trịnh Tiến Việt, Một số vấn đề mới về hình phạt
tiền trong Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7/2003; TS.
Trịnh Tiến Việt, ThS. Trần Thị Quỳnh, Về chế định miễn hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2006; v.v
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nƣớc ta
đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về hình phạt chính và
hình phạt bổ sung, còn đối với riêng hình phạt cảnh cáo, nhìn một cách tổng
quan có thể khẳng định chƣa đƣợc khoa học luật hình sự Việt Nam quan tâm
nghiên cứu đúng mức. Những nghiên cứu về hình phạt cảnh cáo mới chỉ dừng
lại ở các công trình nghiên cứu chung về hệ thống hình phạt hoặc hình phạt
chính, hoặc là đƣợc thể hiện một phần trong kết quả của các công trình nghiên
cứu khác về hình phạt, phân biệt với miễn hình phạt chứ chƣa đƣợc triển khai
nghiên cứu độc lập, đánh giá lý luận và tổng kết thực tiễn với tính cách là một
hình phạt chính quan trọng của hệ thống hình phạt.
Nhƣ vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép
khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam" là đòi hỏi khách quan, cấp
thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về
hình phạt cảnh cáo dƣới khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng chúng trong
thực tiễn, từ đó luận văn đƣa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy

12
định về hình phạt cảnh cáo trong luật hình sự Việt Nam, cũng nhƣ đề xuất

những giải pháp nâng cao hiệu quả của hình phạt này trong thực tiễn áp dụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Từ cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả trong và
ngoài nƣớc về hình phạt và hình phạt cảnh cáo, luận văn nghiên cứu làm sáng
tỏ một số vấn đề chung về hình phạt cảnh cáo nhƣ: Khái niệm, đặc điểm của
hình phạt cảnh cáo; phân biệt hình phạt cảnh cáo với miễn trách nhiệm hình
sự, miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt và cảnh cáo với tính cách là
biện pháp xử lý vi phạm hành chính;
- Khái quát sự phát triển của chế định hình phạt nói chung, hình phạt
cảnh cáo nói riêng trong lịch sử pháp luật hình sự của nƣớc ta từ năm 1945
đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu các quy định cụ thể về hình phạt cảnh cáo trong Bộ luật
hình sự hiện hành của Việt Nam, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về hình phạt
cảnh cáo, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc
áp dụng và những nguyên nhân cơ bản của nó;
- Từ đó đề xuất những định hƣớng và giải pháp hoàn thiện các quy
định về hình phạt cảnh cáo trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành, cũng
nhƣ những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng của hình phạt này trong
thực tiễn.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh hình
phạt cảnh cáo trong luật hình sự Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu đánh
giá tình hình áp dụng hình phạt cảnh cáo trong thực tiễn xét xử của Tòa án các

13
cấp và những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải
pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt cảnh

cáo trong thực tiễn.
Luận văn cũng có tham khảo những bài học kinh nghiệm lập pháp một
số nƣớc trong khi nghiên cứu hình phạt cảnh cáo.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt cảnh
cáo trong 10 năm (2000-2009).
4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
Nhà nƣớc và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tƣ pháp đƣợc thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về
Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phƣơng pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ: phƣơng pháp
phân tích và tổng hợp; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu; phƣơng pháp diễn
dịch; phƣơng pháp quy nạp; phƣơng pháp thống kê, điều tra xã hội học để
tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tƣơng
ứng đƣợc nghiên cứu trong luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phƣơng diện
lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở
cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về hình phạt cảnh cáo, mà trong đó giải
quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới hình phạt
cảnh cáo trong luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:

14
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nƣớc về hình phạt,
hình phạt cảnh cáo để xây dựng nên khái niệm hình phạt cảnh cáo, bảo đảm
tính chính xác, khoa học, đồng thời chỉ ra các đặc điểm cơ bản của hình phạt

cảnh cáo trong mối tƣơng quan so sánh với một số chế định khác;
- Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành
và phát triển của hình phạt cảnh cáo trong luật hình sự Việt Nam từ năm 1945
cho đến nay;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình áp dụng
hình phạt cảnh cáo của Tòa án các cấp; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn
áp dụng hình phạt cảnh cáo, cũng nhƣ những nguyên nhân cơ bản của các tồn
tại, hạn chế đó;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất các định hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao
hiệu quả áp dụng hình phạt này trong giai đoạn xây dựng Nhà nƣớc pháp
quyền và cải cách tƣ pháp hiện nay ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tƣ pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự đƣợc khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề chung về hình phạt cảnh cáo theo luật hình
sự Việt Nam.

15
Chương 2: Các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về
hình phạt cảnh cáo và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả

áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về hình phạt
cảnh cáo.

16
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT CẢNH CÁO
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HÌNH PHẠT CẢNH
CÁO THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm hình phạt và mục đích của hình phạt
Trong tất cả những phƣơng thức đấu tranh phòng, chống tội phạm thì
việc áp dụng hình phạt với ngƣời phạm tội là phƣơng thức chủ yếu và có lịch
sử lâu đời nhất. Hình phạt là một phạm trù pháp lý - xã hội phức tạp, mang
tính khách quan, gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nƣớc và pháp luật, vì thế
"hình phạt" đƣợc nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau từ triết
học, giáo dục học, đạo đức học, tâm lý học đến tội phạm học, điều tra hình sự
nhƣng đặc biệt là dƣới góc độ khoa học luật hình sự; v.v
Trong lĩnh vực khoa học luật hình sự, tội phạm và hình phạt thuộc
những đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu và quan trọng nhất, trong đó việc làm
sáng tỏ khái niệm hình phạt là một vấn đề hết sức cần thiết.
Trong lịch sử nhân loại có những quan niệm khác nhau về bản chất và
nội dung của hình phạt. Nhìn chung, các quan điểm đó có thể đƣợc chia thành
hai loại: 1) Quan niệm thứ nhất coi hình phạt là công cụ trừng trị, trả thù ngƣời
phạm tội, lấy sự khắc nghiệt của hình phạt làm điều răn cho ngƣời phạm tội;
2) Quan niệm thứ hai coi hình phạt là công cụ pháp lý cần thiết để đấu tranh
phòng, chống tội phạm, cải tạo giáo dục ngƣời phạm tội [22, tr. 107-108].
Quan điểm coi hình phạt là sự trả thù của Nhà nƣớc dựa theo học
thuyết trừng trị (Vergeltungstheorie) hay còn gọi là học thuyết hình phạt tuyệt
đối (Absolute Straftheorie) do Immanuel Kant (1724-1804) và sau đó là

Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831) chủ trƣơng. Trong tác phẩm

17
"Luân lý siêu hình", I. Kant cho rằng, sự bất công do hành vi của ngƣời phạm
tội gây ra phải đƣợc đền bù bằng hình phạt, thông qua đó trật tự pháp luật bị
xâm phạm đƣợc khôi phục. Việc áp dụng hình phạt nhằm bảo đảm công lý, công
bằng. Ở đây, I. Kant đòi phải "thực hiện nguyên tắc "ân oán ngang bằng": Đối
với tội giết ngƣời phải tử hình, đối với tội hiếp dâm-cần thiến kẻ hiếp dâm, tội
làm nhục - cần công khai hôn tay ngƣời bị làm nhục v.v " [73, tr. 151]. Nhƣ
vậy, cơ sở pháp lý và ý nghĩa của hình phạt theo học thuyết hình phạt tuyệt
đối, chỉ nằm ở sự trừng trị, trả thù, có nghĩa là bằng việc áp dụng hình phạt,
sự bất công mà ngƣời phạm tội đã có lỗi gây ra đƣợc đền bù công bằng.
Ngƣời phạm tội là ngƣời làm điều ác, mang nợ đối với xã hội nên cần phải trả
bằng hình phạt, họ là kẻ thù của xã hội chứ không phải là thành viên của xã
hội, vì vậy, hình phạt chỉ có mục đích tự thân trừng trị, trả thù, chứ tuyệt đối
không có mục đích phòng ngừa tội phạm.
Theo tiến trình phát triển của xã hội, bên cạnh các học thuyết trừng trị
hay là học thuyết hình phạt tuyệt đối xuất hiện các học thuyết về phòng ngừa
tội phạm hay còn gọi là học thuyết hình phạt tƣơng đối (relative Straftheorien)
do Cesare Beccaria (1738-1794) khởi xƣớng, sau đó là Jeremy Bentham
(1748-1832), P.J.A. Feuerbach (1775-1833) và F. v. Liszt (1851-1919). Theo học
thuyết này, hình phạt không hƣớng vào việc trả thù ngƣời phạm tội mà chỉ nhằm
phòng ngừa tội phạm trong tƣơng lai. Do không có học thuyết nào là phù hợp,
vƣợt trội để biện minh cho sự tồn tại của hình phạt, nên có nhiều học giả đã hợp
nhất hai loại học thuyết trên thành học thuyết liên hợp (Vereinigungstheorie),
mà những ngƣời đại diện xuất sắc là A. Merkel; R. V. Hippel; H. L. A. Hart.
Theo học thuyết này, hình phạt không chỉ có mục đích trừng trị mà còn có
mục đích phòng ngừa tội phạm [68, tr. 14].
Với nhận thức về cơ sở pháp lý và ý nghĩa của hình phạt nhƣ trên, nên
trong khoa học luật hình sự nƣớc ngoài có những định nghĩa về khái niệm

hình phạt nhƣ:

18
Hình phạt là sự trừng trị đƣợc luật quy định để phòng ngừa
và trấn áp hành vi cấu thành tội phạm gây tổn hại đến trật tự xã
hội ; sự trừng trị buộc ngƣời phạm tội phải chịu trong lĩnh vực
hình sự thuộc quyền của Thẩm phán hình sự, chiểu theo quy định
của pháp luật ;
Hình phạt là sự đền bù của hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng bằng việc trừng trị các điều ác đƣợc làm thích ứng với mức độ
của sự bất công và lỗi. Nó là sự khiển trách công khai hành vi trái
pháp luật, qua đó khôi phục lại công lý. Ngoài ra, hình phạt cần
phải mở rộng sự tác động tích cực vào ngƣời phạm tội [68, tr. 15].
Còn trong khoa học luật hình sự Liên Xô trƣớc đây và Liên bang Nga
ngày nay có các quan điểm coi hình phạt hoặc là biện pháp cƣỡng chế của
Nhà nƣớc do Tòa án nhân danh Nhà nƣớc áp dụng đối với ngƣời có lỗi trong
việc thực hiện tội phạm nhằm mục đích ngăn ngừa chung và ngăn ngừa riêng
(Natasev A.E., Xtruchkôv H.A., Nôi I.X., Bêlaev N.A.); hoặc là sự trừng trị,
tức là gây cho ngƣời có tội những sự đau đớn và những sự tƣớc đoạt do luật
định mà ngƣời đó phải chịu (Đementrev X.I); hoặc là một trong các biện pháp
đấu tranh chống tội phạm mà nội dung của nó là kết hợp thuyết phục với
cƣỡng chế (Karpetx) [9, tr. 674].
Còn trong khoa học luật hình sự Việt Nam, các học giả luôn đi theo tƣ
tƣởng tiến bộ, nhân đạo về hình phạt, nên đã đƣa ra những quan niệm về hình
phạt mà về cơ bản là thống nhất, mặc dù trong mỗi quan niệm đó có những sự
khác nhau nhất định, chẳng hạn nhƣ:
Theo GS.TSKH. Lê Văn Cảm: "Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nƣớc đƣợc quyết định trong bản án kết tội có hiệu
lực pháp luật của Tòa án để tƣớc bỏ hay hạn chế quyền, tự do của ngƣời bị kết
án theo các quy định của pháp luật hình sự" [3, tr. 11-12].

GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa định nghĩa:

19
Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc nghiêm khắc nhất
đƣợc quy định trong luật hình sự, do Tòa án áp dụng cho chính ngƣời
đã thực hiện tội phạm, nhằm trừng trị và giáo dục họ, góp phần vào
việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ chế độ và trật tự xã
hội cũng nhƣ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân [26, tr. 29].
Hay theo GS.TS Võ Khánh Vinh lại quan niệm:
Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất do luật
quy định đƣợc Tòa án nhân dân nhân danh Nhà nƣớc quyết định
trong bản án đối với ngƣời có lỗi trong việc thực hiện tội phạm và
đƣợc thể hiện ở việc tƣớc đoạt hoặc hạn chế các quyền và lợi ích do
pháp luật quy định đối với ngƣời bị kết án [87, tr. 110].
TS. Trịnh Quốc Toản viết:
Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc của Nhà
nƣớc, đƣợc luật quy định, do tòa án nhân danh nhà nƣớc áp dụng
đối với ngƣời phạm tội và đƣợc thể hiện ở việc tƣớc bỏ hoặc hạn
chế quyền, lợi ích của họ nhằm giáo dục, cải tạo họ và phòng ngừa
tội phạm, đảm bảo cho luật hình sự thực hiện đƣợc nhiệm vụ bảo vệ
và đấu tranh phòng, chống tội phạm [68, tr. 34-35].
Còn TS. Phạm Văn Beo lại quan niệm rộng và chƣa thật chuẩn xác khi
cho rằng hình phạt áp dụng với "ngƣời phạm tội", đồng thời sử dụng ngôn
ngữ "nói", cũng nhƣ chƣa thể hiện hình phạt là biện pháp cƣỡng chế về hình
sự nghiêm khắc nhất của Nhà nƣớc, do Tòa án tƣớc bỏ hoặc hạn chế quyền, tự
do hoặc lợi ích khác, khi tác giả viết:
Hình phạt là sự mất mát một quyền hoặc lợi ích nhất định đƣợc áp dụng
đối với ngƣời phạm tội về chính hành vi phạm tội của anh ta. Ngƣời phạm tội
ở đây đƣợc hiểu là ngƣời mà theo luật hình sự phải gánh chịu hình phạt. Hình
phạt đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, do Tòa án quyết định và đƣợc đảm

bảo thực hiện bằng sự cƣỡng chế cao nhất của Nhà nƣớc [2, tr. 31].

20
Còn dƣới góc độ lập pháp, lần đầu tiên trong Bộ luật hình sự năm 1999,
các nhà làm luật Việt Nam đã ghi nhận định nghĩa pháp lý về khái niệm hình
phạt tại Điều 26 nhƣ sau: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất
của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội.
Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết định".
Nhƣ vậy, trong khoa học luật hình sự Việt Nam và nƣớc ngoài, cũng
nhƣ trong luật thực định, đã đƣa ra các định nghĩa khác nhau về khái niệm
hình phạt và hầu nhƣ mỗi định nghĩa trong số đó đều có những hạt nhân hợp
lý, mỗi định nghĩa đã chỉ ra một cách tƣơng đối rõ ràng hoặc là về một hoặc
nhiều khía cạnh cơ bản của hình phạt.
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những quan điểm của các học giả trong
và ngoài nƣớc về khái niệm hình phạt và phân tích tính chất, đặc điểm, nội dung
của hình phạt, theo chúng tôi định nghĩa về khái niệm hình phạt nhƣ sau: Hình
phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, được quyết định
trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án đối với chính người đã
thực hiện hành vi phạm tội, tước bỏ hoặc hạn chế những quyền, tự do của
người bị kết án hoặc đặt ra những nghĩa vụ pháp lý nhất định đối với họ theo
quy định của pháp luật hình sự.
1.1.2. Khái niệm hình phạt cảnh cáo
Hình phạt cảnh cáo theo quy định của luật hình sự Việt Nam thể hiện
quan điểm nhân đạo và chính sách hình sự của Đảng và Nhà nƣớc ta đối với
ngƣời phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời chứng tỏ khả năng tự
giáo dục, cải tạo trở thành ngƣời có ích cho xã hội. Hình phạt cảnh cáo còn là
một trong những biện pháp đƣợc tòa án áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả của
công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội
nên hình phạt cảnh cáo cần phải đƣợc quan tâm một cách sâu sắc trên các
phƣơng diện lập pháp, áp dụng pháp luật và nghiên cứu lý luận nhƣng cho

đến nay hình phạt cảnh cáo vẫn chƣa đƣợc quan tâm một cách đúng mức trên
cả ba phƣơng diện này.

21
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, động từ "cảnh" đƣợc hiểu là "làm cho
người ta chú ý" [92, tr. 256], "cáo" đƣợc hiểu là "báo, bảo cho biết" [92, tr. 263].
Do đó, "cảnh cáo" đƣợc hiểu là nghiêm khắc phê bình trƣớc tập thể [92, tr. 256].
Mặc dù hình phạt cảnh cáo là một hình phạt chính nhƣng nó vẫn thể
hiện tính nhân đạo cao vì cảnh cáo là một hình phạt không tƣớc tự do, song
khái niệm "hình phạt cảnh cáo" cũng chƣa đƣợc Bộ luật hình sự hiện hành
làm rõ. Điều 29 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ nêu ra những điều kiện để
ngƣời phạm tội đƣợc áp dụng hình phạt cảnh cáo, đó là: "Cảnh cáo được áp
dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ,
nhưng chưa đến mức miễn hình phạt". Còn trong thực tiễn các cơ quan và
ngƣời áp dụng pháp luật vẫn còn có sự nhận thức chƣa chính xác về khái
niệm "hình phạt cảnh cáo" với một số khái niệm tƣơng tự nhƣ "miễn trách
nhiệm hình sự", "miễn hình phạt", "miễn chấp hành hình phạt"; v.v
Trong luật hình sự nƣớc ngoài, hình phạt cảnh cáo đƣợc quy định tại
Điều 27 Bộ luật hình sự của nƣớc Lào với tên gọi "phê phán công khai" là
"sự lên án công khai của Nhà nƣớc đối với ngƣời phạm tội tại Tòa án thông
qua hội đồng xét xử. Trong trƣờng hợp cần thiết, quyết định của Tòa án về
việc phê phán ngƣời phạm tội còn có thể đƣợc công khai đăng tải trên báo
chí hoặc các phƣơng tiện thông tin đại chúng khác" [94]. Ngoài ra, Điều 51
Bộ luật hình sự của Bungari cũng quy định về hình phạt cảnh cáo với tên gọi
"phê bình công khai" nhƣ sau: "Đây là hình phạt phê phán ngƣời phạm tội
về tội phạm họ đã thực hiện bằng một thông báo cụ thể tới nơi họ sinh sống
hoặc thông qua phƣơng tiện truyền thông hoặc bằng hình thức khác do Tòa
án quyết định" [93]. Trong khi đó, hình phạt cảnh cáo lại không đƣợc quy
định trong Bộ luật hình sự nhiều nƣớc (ví dụ: Thụy Điển, Trung Quốc ).
Phân tích quy định của luật hình sự nƣớc ngoài về hình phạt cảnh cáo

cho thấy nhận thức chung về hình phạt cảnh cáo là (1) sự phê phán công khai
của Nhà nƣớc đối với ngƣời phạm tội bằng Tòa án, và (2) sự phê phán này có

22
thể đƣợc công khai đăng tải trên báo chí hoặc thông qua các phƣơng tiện
thông tin đại chúng.
Hiện nay, trong khoa học luật hình sự nƣớc ta, khái niệm hình phạt
cảnh cáo còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau nhƣng về cơ bản đều thống
nhất nội hàm khái niệm này, mà cụ thể là:
Theo TS. GVC. Trịnh Quốc Toản, cảnh cáo là hình phạt có nội dung
cƣỡng chế ít nghiêm khắc nhất so với các hình phạt chính khác đƣợc quy định
trong Bộ luật hình sự. Cảnh cáo đƣợc áp dụng không nhằm trực tiếp hạn chế
hoặc tƣớc bỏ những quyền và lợi ích thiết thân của ngƣời bị kết án nhƣ quyền
tự do, quyền sở hữu tài sản, quyền sống mà nó là sự khiển trách công khai
của Nhà nước do Tòa án tuyên phạt đối với người bị kết án. Tuy vậy, với nội
dung thể hiện ở việc Tòa án tuyên bản án buộc tội và thay mặt Nhà nƣớc
khiển trách công khai ngƣời phạm tội, cảnh cáo gây cho họ những tổn thất
nhất định về tinh thần, ngƣời bị kết án đã phải chịu sự lên án của Nhà nƣớc về
hành vi phạm tội của mình [8, tr. 285].
Theo GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, PGS.TS. Lê Thị Sơn, hình phạt cảnh
cáo đƣợc hiểu là "hình phạt công khai lên án, phê phán của Tòa án đối với
ngƣời phạm tội" [27, tr. 32].
TS. Nguyễn Phong Hòa viết: "Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất trong số
các hình phạt của Bộ luật hình sự, hình phạt cảnh cáo đƣợc áp dụng đối với
những ngƣời phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhƣng
chƣa đến mức miễn hình phạt" [29, tr. 20].
TS. Trần Minh Hƣởng lại quan niệm: "Cảnh cáo là hình phạt khiển trách
công khai của Nhà nƣớc do Tòa án tuyên đối với ngƣời bị kết án" [31, tr. 30].
Gần đây, ThS. Mai Bộ cho rằng: "Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất
trong số hình phạt chính và là sự khiển trách công khai của Tòa án đối với

ngƣời bị kết án về tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhƣng
chƣa đến mức miễn hình phạt", v.v

23
Tóm lại, về cơ bản tất cả các quan điểm trên đây về khái niệm hình
phạt cảnh cáo đều hợp lý và điều quan trọng là thống nhất trong việc khẳng
định rõ đƣợc nội dung và bản chất pháp lý của nó. Tuy nhiên, để đƣa ra một
khái niệm đầy đủ và chính xác về nội dung, ngắn gọn và nhất quán về mặt
pháp lý, đồng thời phù hợp với thực tiễn xét xử và chính sách nhân đạo của
Nhà nƣớc, theo chúng tôi, khái niệm hình phạt cảnh cáo phải bao gồm các nội
dung nhƣ: Thứ nhất, bản chất pháp lý của hình phạt cảnh cáo; thứ hai, hình
thức thể hiện; thứ ba, cơ quan có thẩm quyền nào áp dụng; thứ tư, đối tƣợng
bị áp dụng; và, thứ năm, những điều kiện áp dụng.
Do đó, trên cơ sở xem xét các quan điểm khoa học đã nêu, kết hợp với
việc phân tích các quy định của pháp luật có liên quan, dƣới góc độ khoa học
luật hình sự Việt Nam, theo chúng tôi khái niệm hình phạt cảnh cáo có thể đƣ-
ợc định nghĩa nhƣ sau: Hình phạt cảnh cáo là một trong các biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do Bộ luật hình sự Việt Nam quy định,
thể hiện sự khiển trách công khai của Tòa án đối với người bị kết án phạm tội
ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhưng chưa
đến mức miễn hình phạt, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm và cải tạo, giáo dục người phạm tội.
Nhƣ vậy, từ khái niệm khoa học về hình phạt cảnh cáo nêu trên, theo
chúng tôi bản chất pháp lý của hình phạt này là một biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc của Nhà nước, thể hiện sự khiển trách công khai của Nhà nước
đối với người bị kết án, đồng thời thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nƣớc
đối ngƣời phạm tội trong trƣờng hợp phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhƣng chƣa đến mức miễn hình phạt.
1.1.3. Các đặc điểm cơ bản của hình phạt cảnh cáo
Trong số các hình phạt chính, cảnh cáo là hình phạt chính nhẹ nhất,

hình phạt cảnh cáo thể hiện sự lên án công khai của Nhà nƣớc đối với ngƣời
phạm tội về hành vi phạm tội của họ. Hình phạt này không có khả năng gây ra

24
những thiệt hại về tài sản hoặc những hạn chế nhất định về thể chất cho ngƣời
phạm tội. Tuy nhiên, với tính cách là sự khiển trách công khai của Nhà nƣớc
đối với ngƣời phạm tội, cảnh cáo gây ra những thiệt hại nhất định về mặt tinh
thần, hình phạt cảnh cáo do đó, có nội dung giáo dục và phòng ngừa tội phạm
sâu sắc, thể hiện rõ tính nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Với tính cách là một trong các hình phạt chính của luật hình sự, hình
phạt cảnh cáo mang những đặc điểm chung của hình phạt, cụ thể nhƣ sau:
- Trước hết, hình phạt nói chung và hình phạt cảnh cáo nói riêng là
biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất so với tất cả các biện pháp
cưỡng chế về hình sự khác của Nhà nước mà việc áp dụng nó đối với người bị
kết án sẽ đưa đến hậu quả pháp lý bất lợi là người đó bị coi là có án tích.
Tính cƣỡng chế của hình phạt, tức là dùng quyền lực nhà nƣớc bắt phải
tuân thủ là một đặc điểm cơ bản, đặc trƣng của hình phạt; đặc điểm này cho phép
phân biệt hình phạt với các biện pháp tác động xã hội khác. Tính cƣỡng chế của
hình phạt đƣợc thể hiện với mức độ khác nhau và với những hình thức cũng rất
khác nhau tùy thuộc vào từng loại hình phạt. Mặc dù các hình phạt có nội dung
cƣỡng chế, thuyết phục, giáo dục, nặng, nhẹ khác nhau, nhƣng chúng đều có
cùng tính chất là một loại biện pháp cƣỡng chế trong hệ thống các biện pháp
cƣỡng chế của Nhà nƣớc. Khi đƣợc áp dụng, hình phạt gây ra những tổn hại nhất
định cho ngƣời bị kết án. Họ có thể bị tƣớc bỏ hoặc bị hạn chế những quyền và
lợi ích thiết thân nhất, nhƣ tƣớc hoặc hạn chế quyền tự do, tƣớc quyền chính
trị, tƣớc quyền lợi vật chất, thậm chí họ có thể bị tƣớc cả quyền sống của
mình. Đồng thời khi áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội, Nhà nƣớc thể
hiện thái độ phản ứng chính thức, lên án về mặt chính trị-pháp lý, đạo đức đối
với tội phạm và với ngƣời thực hiện tội phạm. Những sự tác động pháp lý nhƣ
vậy của hình phạt làm cho ngƣời bị kết án và những ngƣời khác không vững

vàng trong xã hội trong tƣơng lai có thái độ tôn trọng pháp luật hình sự.
Tính cƣỡng chế, mặc dù là đặc điểm của hình phạt nhƣng không phải
duy nhất có ở hình phạt. Biểu hiện của sự cƣỡng chế trong cuộc sống hàng ngày

×