Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Đổi mới Toà án trong tố tụng hình sự trước yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 123 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
  




THẠCH THỊ HẰNG




Đổi mới toà án
trong tố tụng hình sự trước yêu cầu của công cuộc cảI cách tư pháp


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









Hà Nội – 2012


2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
  




THẠCH THỊ HẰNG


Đổi mới toà án
trong tố tụng hình sự trước yêu cầu của công cuộc cảI cách tư pháp


Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số: 60 38 40


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí


Hà Nội – 2012


3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân tôi, chưa
từng được công bố trong một công trình khoa học nào của người khác. Các
tài liệu tham khảo được trích dẫn một cách hợp pháp.

Học viên



THẠCH THỊ HẰNG

4

LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến phó Giáo sư-Tiến sĩ
luật học Nguyễn Ngọc Chí - Giảng viên khoa Luật thuộc Đại học quốc gia Hà
Nội - người đã hướng dẫn khoa học và tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận
văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô
giảng viên của khoa Luật thuộc Đại học quốc gia Hà Nội và các thầy cô cộng tác
viên giảng dạy tại Khoa - những người đã tận tình dìu dắt và truyền đạt những kiến
thức khoa học pháp lý bổ ích cho tôi trong suốt khoá học.
Xin cảm ơn gia đình, người thân, các bạn đồng môn và đồng nghiệp đã
luôn ở bên cạnh động viên và cổ vũ tôi trong quá trình thực hiện Luận văn này.


THẠCH THỊ HẰNG









5
BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT

BLTTHS
:
Bộ luật tố tụng hình sự

HĐND
:
Hội đồng nhân dân

Nghị quyết 08-NQ/TW
:
Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/1/2002
của Bộ chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”

Nghị quyết 49-NQ/TW
:

Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ chính trị “Về chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020”

TAND
:
Tòa án nhân dân

TTHS
:
Tố tụng hình sự

UBND
:
Uỷ ban nhân dân

XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa


6
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN 3
LỜI CẢM ƠN 4
BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT 5
MỞ ĐẦU 8
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TOÀ ÁN TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ 15
1.1. Vị trí, chức năng của Toà án 15
1.1.1. Vị trí của Toà án 15

1.1.2. Chức năng của Tòa án 23
1.2. Nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Toà án trong tố tụng hình sự 25
1.2.1. Nguyên tắc độc lập 25
1.2.2. Nguyên tắc xét xử công bằng 28
1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm những điều kiện để Thẩm phán độc lập, yên tâm
trong hoạt động xét xử. 33
1.3. Toà án trong tố tụng hình sự một số nƣớc điển hình trên thế giới 36
1.3.1. Hệ thống Toà án được tổ chức theo các cấp Toà án 37
1.3.2. Hệ thống Toà án được tổ chức theo cấp hành chính hoặc theo khu vực
43
1.3.3. Các Toà án chuyên trách độc lập với Toà án tư pháp 45
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TOÀ ÁN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM 49
2.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về tổ chức và
hoạt động của Toà án 49
2.1.1. Toà án trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1987 49
2.1.2. Toà án trong giai đoạn từ khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 đến nay 61
2.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Toà án trong tố tụng hình sự theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 67

7
2.3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng tổ chức và hoạt động của Toà án
trong tố tụng hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 78
Chƣơng 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA TOÀ ÁN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRƢỚC YÊU CẦU CỦA CẢI
CÁCH TƢ PHÁP 81
3.1. Những yêu cầu của công cuộc cải cách tƣ pháp đặt ra đối với Toà án . 81
3.1.1. Sự cần thiết phải đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án trong tố
tụng hình sự 81

3.1.2. Những nguyên tắc của việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Toà
án trong tố tụng hình sự 83
3.1.3. Phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án trong tố tụng
hình sự 88
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Toà án trong tố
tụng hình sự 93
3.2.1. Nhóm giải pháp đổi mới mô hình tổ chức hệ thống Toà án và phân định
lại thẩm quyền của Toà án các cấp 93
3.2.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật. 98
3.2.3. Nhóm giải pháp đổi mới tổ chức của TAND cấp huyện 104
3.2.4. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực, phẩm chất, địa vị pháp lý của
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. 106
KẾT LUẬN 109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 111
PHỤ LỤC 116


8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp
hoá và hiện đại hoá. Yêu cầu khách quan đặt ra là phải tiến hành cải cách bộ máy
nhà nước, trong đó cải cách tư pháp có vị trí rất quan trọng bởi mục tiêu của cải
cách tư pháp là đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan sai
người vô tội. Xuất phát từ yêu cầu khách quan đó, ngày 02/1/2002, Bộ chính trị đã
ban hành Nghị quyết số 08 – NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác
tư pháp trong thời gian tới (Nghị quyết 08 – NQ/TW). Tiếp đó là Nghị quyết số 48
– NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị
quyết số 49 –NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020 (Nghị quyết 49 –NQ/TW). Tinh thần của các Nghị quyết trên
đều xác định trong nhiệm vụ cải cách tư pháp, Toà án có vị trí trung tâm và hoạt
động xét xử là trọng tâm, việc xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Toà
án là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm đảm bảo xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật các vụ án hình sự, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp khác
của công dân. Bằng hoạt động của mình, Toà án góp phần vào việc đấu tranh
phòng ngừa tội phạm và giáo dục pháp luật trong nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp đã đạt được thì hoạt động của Toà án
vẫn còn tồn tại rất nhiều hạn chế, bất cập. Cụ thể như: Tỷ lệ án tồn đọng vẫn còn
cao, án sửa, huỷ, bị giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn còn nhiều, hiện tượng chạy án,
tham nhũng vẫn còn tồn tại, v.v,… Điều đó đã làm giảm lòng tin của nhân dân vào
ngành Toà án. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là mô hình tổ
chức và hoạt động của Toà án vẫn còn nhiều điểm bất cập, chưa hợp lý. Toà án
chưa thực sự độc lập trong hoạt động xét xử, chưa đảm bảo được nguyên tắc Tư

9
pháp là một nhánh quyền lực độc lập với các nhánh còn lại (lập pháp, hành pháp,
độc lập với chính trị, các tổ chức Đảng, tổ chức chính trị - xã hội, các nhóm quyền
lực hoặc bất kỳ cơ quan, tổ chức nào), trình độ năng lực chuyên môn của đội ngũ
Thẩm phán còn nhiều hạn chế, cơ sở vật chất còn thiếu, hiện tượng suy thoái đạo
đức trong một số Thẩm phán, v.v,…
Trước những thực trạng trên, công tác cải cách tư pháp đã đặt nhiệm vụ
trọng tâm vào cải cách Toà án, coi đây là một khâu đột phá, đưa ra những phương
hướng chỉ đạo và một số nhiệm vụ mà ngành Toà án cần phải làm trong thời gian
tới. Tuy nhiên, đó mới chỉ dừng lại ở những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo, còn việc
triển khai thực hiện sao cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam lại đặt ra nhiều vấn đề
cần phải làm rõ. Cũng có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về Toà án nhưng
chỉ mới dừng lại ở việc nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận chung về Toà
án, có một số bài viết cũng đã đề cập đến nhiệm vụ cần phải đổi mới tổ chức và
hoạt động của Toà án trước yêu cầu của cải cách tư pháp nhưng mức độ nghiên

cứu, phân tích, đánh giá và đưa ra các luận giải khoa học, các kiến nghị lập pháp
thì chưa sâu. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm trái chiều về việc nên
hay không nên tổ chức lại mô hình Toà án, nếu có thì mô hình Toà án nên tổ chức,
hoạt động như thế nào cho phù hợp với điều kiện thực tiễn ở Việt Nam, các vấn đề
tranh tụng tại phiên toà, v.v,…đặc biệt là trong tố tụng hình sự (TTHS).
Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Đổi mới Toà án trong tố tụng
hình sự trước yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp” làm luận văn tốt nghiệp
thạc sĩ của mình. Nội dung của luận văn là cố gắng tìm hiểu nguyên nhân, đưa ra
phương hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức, nâng cao hiệu quả
hoạt động của Toà án trong TTHS trên cơ sở có nghiên cứu thực tiễn, phân tích
đưa ra các luận giải khoa học, các kiến nghị lập pháp cho việc xây dựng, hoàn

10
thiện mô hình tổ chức, hoạt động của Toà án trong TTHS đáp ứng yêu cầu của
công cuộc cải cách tư pháp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong hệ thống các cơ quan tư pháp bao gồm: Toà án, Viện kiểm sát, Cơ
quan thi hành án và các cơ quan bổ trợ tư pháp thì Toà án có vị trí, vai trò đặc biệt
quan trọng vì phán quyết của Toà án thể hiện kết quả cuối cùng của tiến trình tố
tụng, tuyên bố một người có tội hay không có tội, đúng hay sai. Toà án là nơi thể
hiện sâu sắc bản chất Nhà nước và nền công lý, thể hiện chất lượng hoạt động và
uy tín của hệ thống tư pháp trong hệ thống các cơ quan Nhà nước. Nhận thức được
vị trí và vai trò quan trọng của Toà án nên trong thời gian qua đã có nhiều bài viết,
công trình nghiên cứu về Toà án như: Đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án
nhân dân của Phạm Quý Tỵ đăng trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 07, tháng
07/2005; Đổi mới hệ thống tổ chức Toà án nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
nguyên tắc 2 cấp xét xử của Vũ Gia Lâm đăng trên Tạp chí luật học số 06/2007;
Một số vấn đề về tổ chức hệ thống Toà án theo định hướng cải cách tư pháp của
Đinh Văn Quế đăng trên Tạp chí TAND số 23/2007; Cải cách hệ thống tư pháp
Việt Nam, Đề tài cấp Nhà nước, mã số 92-98-353, Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Văn

Yểu và Nguyễn Đình Lộc; Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp (góp phần sửa đổi Hiến pháp năm 1992), Đề tài cấp Bộ,
Chủ nhiệm đề tài: Hoàng Thế Liên, năm 2001; Một số vấn đề về hoàn thiện tổ
chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
PGS.TS Lê Minh Thông, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2001; Những vấn đề
đổi mới hệ thống tư pháp ở nước ta, PGS.TS Phạm Hồng Hải, Tạp chí TAND, số 4
năm 1999; Tìm hiểu tổ chức và thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự một số
nước trên thế giới của Nguyễn Văn Trượng và Trần Ngọc Thành đăng trên Tạp chí
TAND số 06/2007; Các hệ thống Toà án ở một số nước trên thế giới của Võ Khánh

11
Vinh đăng trên Tạp chí TAND số 23/2004; Cải cách tư pháp với việc sớm hình
thành Toà án sơ thẩm khu vực của Lê Thúc Anh đăng trên Tạp chí TAND số
20/2007; Cơ sở lý luận và thực tiễn tăng cường năng lực xét xử của TAND cấp
huyện - đề tài thuộc Bộ tư pháp, chủ nhiệm đề tài Nguyễn Văn Hiện; Một số vấn
đề về mối quan hệ giữa tranh tụng trong tố tụng hình sự với chức năng xét xử của
Toà án trong bối cảnh cải cách tư pháp của Nguyễn Trương Tín đăng trên Tạp chí
Nhà nước pháp luật số 10/2008; Thẩm quyền của TAND các cấp theo luật tố tụng
hình sự Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên bảo vệ năm 2000; Tiếp tục đổi mới tổ
chức và hoạt động của TNAD ở Việt Nam của Hoàng Mạnh Hùng đăng trên Tạp
chí cộng sản số 1 (122) năm 2007; Sách tham khảo “Cải cách tư pháp ở Việt Nam
trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền” do TSKH. Lê Cảm và TS. Nguyễn
Ngọc Chí đồng chủ biên (2004), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội; Bài viết trao đổi
“Bàn thêm về cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay” của TS. Nguyễn Minh Đoan,
Tạp chí Toà án nhân dân, số 14 năm 2009, v.v,…
Khái quát tất cả những bài viết, công trình nghiên cứu trên cho thấy các
nghiên cứu chủ yếu về tổ chức và hoạt động của Toà án nói chung, chưa có một
công trình nghiên cứu nào về “Đổi mới Toà án trong tố tụng hình sự trước yêu cầu
của công cuộc cải cách tư pháp”, chưa có điều kiện đi sâu để phân tích nguyên
nhân và những giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Toà án trong TTHS

nói riêng đặc biệt là khi đặt trong bối cảnh của cải cách tư pháp.
3. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu và đối tƣợng nghiên cứu của
luận văn
a/ Mục đích nghiên cứu
Mục đích đặt ra của luận văn là: Nghiên cứu một cách có hệ thống về mặt lý
luận cũng như thực tiễn vị trí, vai trò, tổ chức và hoạt động của Toà án trong TTHS
Việt Nam, thấy được những điểm hợp lý và những điểm còn bất cập trong các quy

12
phạm về Toà án. Qua đó, đề xuất kiến giải lập pháp bằng việc đưa ra mô hình mới
về tổ chức, hoạt động của Toà án trong TTHS. Đặc biệt trong tiến trình cải cách tư
pháp thì việc nghiên cứu trên càng cần thiết và có ý nghĩa quan trọng bởi theo tinh
thần của cải cách tư pháp đã xác định trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của Tòa án.
b/ Nhiệm vụ nghiên cứu
Các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu đặt ra đối với luận văn là:
Về mặt lý luận:
Phải đưa ra được các luận giải khoa học và các kiến giải lập pháp cho việc
xây dựng mô hình tổ chức, hoạt động của Toà án trong TTHS Việt Nam trên cơ sở
nghiên cứu lịch sử tổ chức, hoạt động của Toà án trong TTHS Việt Nam qua các
thời kỳ lịch sử, so sánh với mô hình tổ chức, hoạt động của Toà án một số nước
trên thế giới.
Về mặt thực tiễn:
Phải đánh giá thực trạng hoạt động của Toà án trong thực tiễn TTHS Việt
Nam, tìm ra nguyên nhân của tình trạng đó. Qua đó, đề xuất phương hướng và một
số giải pháp hoàn thiện tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Toà án trong
TTHS Việt Nam trước yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp.
c/ Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về Toà án trong TTHS
Việt Nam như: Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động

của Toà án. Thực trạng hoạt động của Toà án, các nguyên tắc và một số giải pháp
nhằm hoàn thiện tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Toà án trong TTHS trên
cơ sở có so sánh, tham khảo có chọn lọc mô hình tổ chức, hoạt động của Toà án
một số nước trên thế giới nhưng phù hợp với đặc điểm, điều kiện của Việt Nam.

13
4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư
tưởng Hổ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước.
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích,
tổng hợp, chứng minh, so sánh, thống kê, lịch sử, v.v,…
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Thứ nhất, Phân tích một cách có hệ thống và toàn diện các vấn đề tổ chức và
hoạt động của Toà án trong TTHS Việt Nam.
Thứ hai, Hệ thống hoá lịch sử hình thành, phát triển các quy phạm về tổ
chức, hoạt động của Toà án trong hệ thống pháp luật nói chung và trong TTHS
Việt Nam nói riêng. Trên cơ sở đó, đưa ra nhận xét, đánh giá về tính hợp lý, bất
hợp lý và những tồn tại, bất cập của các quy định về tổ chức, hoạt động của Toà án
trong TTHS, có nghiên cứu, so sánh với hệ thống Toà án trong TTHS của một số
nước trên thế giới. Đưa ra các kiến nghị về mặt lập pháp xây dựng mô hình mới về
tổ chức và hoạt động của Toà án trong TTHS.
Thứ ba, Tìm hiểu nguyên nhân và đánh giá thực trạng tổ chức cũng như hoạt
động của Toà án trong TTHS Việt Nam.
Thứ tư, Xác định rõ vị trí, vai trò của Toà án trong công cuộc cải cách tư
pháp trên cơ sở quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Đảng và được cụ thể hoá
bằng các yêu cầu cụ thể đặt ra với Toà án. Luận văn đã đưa ra được cơ sở, phương
hướng và một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện về mặt tổ chức và nâng cao hiệu
quả hoạt động của Toà án trong TTHS.




14
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận:
Phân tích một cách có hệ thống và toàn diện các vấn đề tổ chức và hoạt
động của Toà án trong TTHS. Trên cơ sở đó bằng các luận giải khoa học về việc
xây dựng hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Toà án trong TTHS đưa ra
kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy phạm về tổ chức và hoạt động của
Toà án ở khía cạnh lập pháp.
Về mặt thực tiễn:
Trên cơ sở tìm hiểu nguyên nhân và đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt
động của Toà án trong TTHS Việt Nam, luận văn đưa ra một số phương hướng và
giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Toà án trong TTHS nhằm đáp ứng yêu
cầu thực tiễn đặt ra của công cuộc cải cách tư pháp.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục luận
văn gồm 3 chương với cơ cấu như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Toà án trong tố tụng hình sự
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Toà án trong tố tụng hình sự ở
Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Toà án trong tố tụng
hình sự trước yêu cầu của cải cách tư pháp.

15
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TOÀ ÁN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. Vị trí, chức năng của Toà án
1.1.1. Vị trí của Toà án
a/ Ngày nay, ở tất cả các hệ thống pháp luật trên thế giới, Toà án nếu không

phải là chủ thể duy nhất thì cũng là chủ thể trung tâm của hoạt động xét xử, của
quyền lực tư pháp. Vai trò đặc biệt của Toà án bắt nguồn từ một quá trình phát
triển lâu đời, gắn liền với sự hình thành trong lịch sử.
Tư pháp là hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn và tính hợp pháp
của các hành vi [15]. Tư pháp còn “là pháp đình y theo pháp luật mà xét định các
việc ở trong vi phạm pháp luật” [1]. Ngay từ buổi ban đầu, tư pháp đã mang hai
nội dung chính, đó là: (1) Phán xét đối với những hành vi vi phạm pháp luật và (2)
Phân xử những tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội. Nói một cách chung
nhất, quyền lực tư pháp là quyền lực xét xử và thuật ngữ “tư pháp xét xử” lần đầu
tiên đã được sử dụng trong Bộ luật Hammurabi, một đạo luật được ban hành từ
1700 năm TCN. Sự ra đời của nhà nước và pháp luật đã chuyển hoá quyền phán
xét và phân xử của cộng đồng thành một bộ phận quan trọng của quyền lực nhà
nước và được bảo vệ bằng pháp luật.
Tuy nhiên, trong những nhà nước cổ xưa, quyền lực tư pháp không phải
ngay từ đầu đã là một nhánh quyền lực nhà nước độc lập. Tiếp nối những truyền
thống quản lý xã hội theo kiểu công xã, đồng thời chịu ảnh hưởng từ những tâm
thức tôn giáo về sự cai trị tuyệt đối của Đấng Tối Cao, nhà nước đã được xác lập
để thay thế công xã, người đứng đầu nhà nước thay thế cho những thủ lĩnh hay
những Hội đồng bộ lạc và có vai trò đại diện cho Đấng Tối Cao để cai trị xã hội.

16
Người đứng đầu nhà nước do đó tập trung trong tay tất cả mọi thứ quyền lực, có
quyền nói lên những ý muốn của Đấng Tối Cao và coi đó là Luật, có quyền điều
hành các hoạt động của xã hội, và có quyền phán xét đối với những kẻ dám xâm
phạm đến luật. Đó cũng chính là các quyền mà sau này người ta gọi là quyền lập
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Cách thức tổ chức quyền lực nhà nước
theo nguyên tắc tập quyền triệt để này đã tồn tại trong phần lớn lịch sử của nhà
nước và pháp luật.
Để thực hiện quyền lực nhà nước, các vị Vua và Hoàng đế thời Cổ đại và
Trung cổ đã biết tổ chức nên bộ máy nhà nước với tư cách thuần tuý là một bộ máy

giúp việc chứ không phải là nơi để chia sẻ quyền lực. Bộ máy tư pháp cũng đã
được hình thành từ rất sớm. Ở Ai Cập cổ đại, một bộ máy tư pháp khá hoàn chỉnh
đã được các Pharaon hình thành ngay từ đầu để đáp ứng yêu cầu cai trị xã hội.
Pharaon – người truyền đạt ý nguyện của Chúa Trời cho con người chính là người
xét xử cao nhất. Giúp việc cho sự phán xét của thần thánh là một cơ quan chuyên
môn gồm 6 viện, đứng đầu là viện chưởng lý với rất nhiều nhân viên phục vụ [23].
Ở Babylonia cổ đại, cùng với việc ban hành bộ luật nổi tiếng, vua Hammurabi
cũng đã thành lập Toà án tối cao để giúp việc cho mình với một Hội đồng thẩm
phán gồm các bô lão có uy tín trong xã hội. Như vậy, mặc dù được hình thành từ
rất sớm và đóng vai trò là một bộ phận quan trọng của bộ máy cai trị nhưng bộ
máy tư pháp hoàn toàn không mang tính chất là một nhánh của quyền lực nhà nước
để chia sẻ với quyền lực tối cao của các hoàng đế. Vai trò của nó bị che lấp bởi các
hoàng đế. Nó có bổn phận là bộ máy giúp việc trung thành cho các hoàng đế để
thực hiện một cách triệt để quyền lực thiêng liêng là phán xét và phân xử. Trong
Kinh Cựu Ước, vị quan toà nổi tiếng nhất chính là vua Salomon mà với sự anh
minh của mình, ông đã phân xử việc tranh chấp con của hai người đàn bà bằng
cách vờ ra lệnh chặt đứa trẻ làm đôi để nhìn thấy tình thương của người mẹ đích

17
thực [49]. Trong suốt thời kỳ trung cổ, chỉ có một biệt lệ duy nhất về sự chia sẻ
quyền lực tư pháp của hoàng đế cho bộ máy tư pháp. Vào năm 1215, khi ký vào
bản Đại hiến chương Magna Carta, Hoàng đế của nước Anh đã nhường một số
quyền tư pháp cho các quan lại và nhân dân và lần đầu tiên trong lịch sử, một vị
hoàng đế đã chấp nhận rằng mình có thể phải tôn trọng các đạo luật [20].
Trong suốt thời kỳ cổ đại và trung cổ, quyền lực tư pháp cũng bị chi phối bởi
hai xu hướng chính trong cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, đó là: tập trung,
thống nhất và cát cứ, chia cắt. Những cuộc chiến tranh liên miên để tranh giành
quyền lực được thúc đẩy bởi những lợi ích từ đất đai, tài nguyên và nô lệ đã làm
hình thành những đế quốc to lớn nhưng cũng đồng thời là nguyên nhân chia rẽ một
đế quốc to lớn thành nhiều quốc gia nhỏ hơn. Điều đó đã diễn ra ở khắp các nhà

nước quốc gia từ Ai Cập, Lưỡng Hà, Trung Quốc, Ân Độ, Hy lạp và La Mã
Trong những giai đoạn chia cắt, cát cứ, khi quyền lực nhà nước trung ương suy yếu
và bị chia nhỏ thì quyền lực tư pháp cũng bị chia nhỏ bởi sự trỗi dậy của các thế
lực địa phương.
Sự phân chia quyền lực nhà nước thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp chỉ mới bắt đầu từ thời kỳ cách mạng tư sản cách đây không quá 300 năm. Về
mặt tồn tại xã hội, thời kỳ này là thời kỳ lớn mạnh của giai cấp tư sản ngay trong
lòng của xã hội phong kiến đến mức có thể công khai thách thức lại với các đặc
quyền phong kiến. Về mặt ý thức xã hội, nhận thức của con người cũng có những
biến đổi lớn lao, phản ánh đầy đủ và không kém gì cuộc đấu tranh đang diễn ra
trong thực tại xã hội. Nhận thức được chuyển dần từ chỗ coi Thượng Đế là trung
tâm sang một bước phát triển mới, coi Con Người là trung tâm; “Mắt của Con
Người đã hướng lên trời suốt bao nhiêu thế kỷ nay đã hướng vào bản thân mình”
[50] để tìm câu trả lời ngay trong thực tại xã hội. Khi người ta đã dám công khai
nghi ngờ tính chất thần thánh của quyền lực nhà nước, khi mà những luân lý tôn

18
giáo về bổn phận và sự phục tùng vô điều kiện phải đối diện với những thách thức
to lớn từ việc nhận thức đầy đủ hơn về quyền, nghĩa vụ, khi mà địa vị thần dân bị
sói mòn bởi sức công phá ngày càng tăng của một trào lưu mới đòi thừa nhận địa
vị công dân , thì khi đó, việc tập trung quyền lực tuyệt đối trong tay một vị hoàng
đế ngày càng ít đi cơ sở để tồn tại. Sự phân chia quyền lực nhà nước giữa các thế
lực phong kiến đang suy tàn với tầng lớp tư sản đang lớn mạnh đã diễn ra, bắt đầu
ở quyền lực lập pháp và dần dần lan toả sang quyền lực hành pháp và quyền lực tư
pháp. Nơi diễn ra sự phân chia ấy chính là bộ máy nhà nước. Suốt bao nhiêu thế
kỷ, bộ máy nhà nước đã là nơi để phục vụ cho việc thực thi quyền lực của các
hoàng đế thì nay lại là nơi chia sẻ quyền lực với các hoàng đế. Bộ máy tư pháp
từng bước được tách khỏi bộ máy hành pháp, xác lập tính độc lập với bộ máy lập
pháp và đại diện cho một nhánh quan trọng của quyền lực nhà nước - đó là quyền
lực tư pháp.

Quyền lực tư pháp là quyền lực xét xử dựa trên cơ sở của pháp luật đối với
các hành vi vi phạm pháp luật cũng như đối với những tranh tụng phát sinh trong
đời sống xã hội. Như vậy, việc thực hiện quyền lực tư pháp có bản chất là hoạt
động áp dụng pháp luật của nhà nước thông qua bộ máy tư pháp.
b/ Nếu như quyền lực tư pháp chính là quyền lực xét xử thì Toà án chính là
chủ thể trung tâm của quyền lực xét xử và gần như nó được hình thành cùng với
việc các nhà nước đầu tiên tổ chức nên bộ máy nhà nước để cai trị xã hội. Ngay từ
khi còn bị coi là bộ máy giúp việc cho các hoàng đế cổ đại và trung cổ, Toà án đã
là biểu tượng thiêng liêng của công lý, là sự hiện diện sống động của pháp luật với
đầy đủ tính chất nghiêm khắc vốn có của nó, là hình ảnh rất thực tế về nhà nước
với sức mạnh của một thứ quyền lực không thể vượt qua.
Trong tiếng La tinh, Toà án được gọi là Forum hay Comitia – có nghĩa “Nơi
công cộng”, “Công đường” hay “Nơi họp các hội nghị nhân dân”. Điều này đã

19
được ghi trong Luật 12 Bảng đồng (Duedecim Tabulae) vào khoảng giữa thế kỷ
thứ 3 TCN [9]. Tuy nhiên, các thuật ngữ như “Toà án”, “Quan toà” hay “Xét xử”
đã được quy định trong pháp luật từ sớm hơn thế rất nhiều trong Bộ luật
Hammurabi vào khoảng 1700 năm TCN [9]. Bộ luật này lại được xây dựng trên cơ
sở những pháp điển đã có từ trước của người Sumer đã chứng tỏ rằng không phải
chỉ đến thời vua Hammurabi, cư dân ở vùng Lưỡng Hà ngay từ thời kỳ cổ đại đã
rất quen thuộc với “Toà án” các “Quan toà” và hoạt động “Xét xử”. Toà án là cơ
quan duy nhất thực hiện quyền lực xét xử hay quyền lực tư pháp. Ở Trung Quốc,
bộ máy tư pháp ở trung ương thời cổ đại và trung cổ không gọi là Toà án mà được
gọi Bộ Hình. Trong kết cấu “Lục Bộ” điển hình của các triều đại phong kiến Trung
Quốc, Bộ Hình là thiết chế duy nhất có chức năng trông coi việc điều tra, xét xử,
thi hành các hình phạt và cai quản các nhà ngục. Ở địa phương, bộ máy tư pháp
mặc dù không được tổ chức một cách độc lập mà được đồng nhất với bộ máy hành
pháp nhưng chỉ do một cơ quan thực hiện. Các quan lại địa phương vừa thực hiện
chức năng của hành pháp là cai quản xã hội, vừa thực hiện quyền lực xét xử đối

với những vi phạm pháp luật và những tranh tụng phát sinh trong đời sống xã hội.
Cách thức tổ chức bộ máy theo kiểu này có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều nước trên
thế giới, trong đó có Việt Nam. Mặc dù ở Trung Hoa, thuật ngữ “Toà án” không
được sử dụng trong thời kỳ cổ đại và trung cổ nhưng “Công đường” như cách hiểu
của người La Mã là nơi xét xử lại rất quen thuộc. Hình tượng về việc xét xử nơi
“Công đường” đối với những người dân sinh sống trên dải hoàng phổ phì nhiêu
của sông Hoàng Hà quen thuộc đến mức đã đi vào những truyền thuyết dân gian
như một ước mơ về sự công bằng, giữa một xã hội còn nhiều bất công.
Như vậy, trong lịch sử, quyền lực tư pháp là thống nhất và chỉ do một cơ
quan thực hiện. Cơ quan đó vừa thực hiện chức năng điều tra, chức năng công tố,

20
chức năng xét xử và kể cả việc thi hành các hình phạt mà chính nó phán quyết. Cơ
quan đó sau này được gọi chung là Toà án.
Bước vào thời kỳ cận đại, cùng với sự phân chia quyền lực nhà nước, quyền
lực tư pháp từng bước trở nên độc lập và tách khỏi sự ràng buộc với quyền lực
hành pháp ở trung ương và địa phương. Bộ máy tư pháp mà trung tâm là các Toà
án theo đó cũng từng bước được hình thành và xác lập địa vị độc lập trong bộ máy
nhà nước. Từ những tư tưởng về nhà nước pháp quyền có ảnh hưởng mạnh mẽ
trong thời kỳ khai sáng, người ta dần dần ý thức được rằng bộ máy tư pháp có vai
trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật không những chỉ đối với xã hội
mà quan trọng hơn là đối với chính quyền lực nhà nước. Khi pháp luật được hiểu
như là một “Khế ước xã hội” để ràng buộc mọi người, đánh đổi cái quyền được tự
do làm hại người khác để đổi lấy quyền được xã hội bảo vệ khi bị người khác làm
hại thì khi đó, người ta mới nhận ra rằng chính quyền lực và bộ máy nhà nước lại
là nơi dễ vi phạm “Khế ước xã hội” nhất. Nắm trong tay quyền lực nhà nước, các
cơ quan nhà nước dường như có khuynh hướng không thể kiểm soát nếu không sử
dụng chính quyền lực nhà nước được trao cho nhưng cơ quan độc lập với nhau. Tư
tưởng dùng quyền lực để chế ngự quyền lực đã đặt nền móng cho việc hình thành
một bộ máy tư pháp độc lập, đóng vai trò là những cơ quan bảo vệ pháp luật.

Trong các thể chế tư pháp, Toà án luôn được xem là chủ thể trung tâm. Sự tham
gia của các cơ quan khác nếu có vào bộ máy tư pháp cũng chỉ nhằm để giúp cho
toà án thực hiện quyền lực xét xử.
Ở Việt Nam, hệ thống cơ quan tư pháp đầu tiên được thành lập sau cách
mạng tháng 8 cũng có tính chất như vậy. Điều 63 Hiến pháp năm 1946 đã khẳng
đinh: “Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà gồm có: Toà án tối
cao, các Toà án phúc thẩm, các Toà án đệ nhị cấp và các Toà án sơ cấp”. Như
vậy, trên phương diện luật thực định, khái niệm “Tư pháp” thực chất được đồng

21
nghĩa với hoạt động xét xử và hệ thống các cơ quan tư pháp chính là hệ thống các
Toà án. Mặc nhiên, bên cạnh hoạt động xét xử, hoạt động tư pháp còn bao gồm
một số hoạt động khác như công tố, điều tra tư pháp, giám sát tư pháp nhưng các
cơ quan thực hiện các hoạt động này đều là những bộ phận thuộc Toà án [41].
Tùy theo nguyên tắc tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước được xác định
trong Hiến pháp mà cách thức tổ chức các cơ quan tư pháp ở mỗi quốc gia cũng có
sự khác biệt. Ở những nơi nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền thì
quyền tư pháp chỉ là hoạt động xét xử và cơ quan tư pháp chỉ là Tòa án, cơ quan
công tố và cơ quan điều tra là những cơ quan thuộc nhánh quyền hành pháp [15].
Ngược lại ở Việt Nam hoặc những nước tổ chức và hoạt động của nhà nước theo
nguyên tắc tập quyền thì hoạt động tư pháp có phạm vi rộng hơn, không chỉ có
hoạt động xét xử mà còn có cả hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố và thi hành án.
Do đó, cơ quan tư pháp bao gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan
thi hành án. Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 khi quy định các tội xâm phạm hoạt
động tư pháp có đưa ra định nghĩa sau: “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là
những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát,
xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, công dân.” (Điều 292 BLHS 1999). Theo định nghĩa này thì
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án là hoạt động tư pháp và tương ứng
với nó là các cơ quan tư pháp, bao gồm: Cơ quan điều tra, Cơ quan công tố (Viện

kiểm sát), Tòa án và Cơ quan thi hành án. Quy định này xuất phát từ quan điểm
cho rằng hoạt động tư pháp không chỉ là hoạt động xét xử của Tòa án mà còn là
hoạt động của các cơ quan, tổ chức của nhà nước trực tiếp liên quan hoặc phục vụ
cho hoạt động xét xử của Tòa án. Theo đó, Tòa án sử dụng các kết quả của quá
trình điều tra, truy tố, bào chữa, giám định tư pháp…một cách công khai và áp
dụng các thủ tục tố tụng để nhân danh Nhà nước đưa ra phán quyết cuối cùng.

22
Theo TS. Trần Văn Nam “hoạt động tư pháp là những hoạt động chủ yếu do các
cơ quan tư pháp thực hiện trong quá trình tố tụng nhằm mục đích là giải quyết các
vụ việc một cách đúng đắn, khách quan”. Hoặc theo PGS.TS. Phạm Hồng Hải thì:
“Hoạt động tư pháp là tập hợp những việc làm cụ thể do cơ quan tư pháp thực
hiện trong tố tụng trực tiếp liên quan và hướng tới mục đích giải quyết các vụ án
một cách khách quan”. Trên cơ sở này, ở Việt Nam, hoạt động tư pháp cần được
hiểu là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của các Cơ quan tư pháp gồm các
cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án), Cơ quan thi
hành án và các cơ quan, tổ chức liên quan hoặc bổ trợ cho hoạt động xét xử của
Tòa án, được quy định trong tố tụng và trực tiếp liên quan đến quá trình giải quyết
vụ án. Hoạt động tư pháp trong TTHS là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng thực hiện, mang tính quyền lực nhà nước, được quy định trong pháp luật tố
tụng hình sự và trực tiếp liên quan đến quá trình giải quyết các vụ án hình sự.
Cho dù các cơ quan này, với những nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước
khác nhau và nằm trong nhánh quyền lực nào thì hoạt động của nó cũng mang tính
độc lập không bị chi phối bởi bất kỳ cơ quan, tổ chức cá nhân nào.
Trong các nhà nước dù được tổ chức theo nguyên tắc nào thì Tòa án cũng là
một trong số các cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện chức năng xét xử và là đại
diện hoặc là trung tâm của quyền lực tư pháp. Nhưng hoạt động truy tố, ở một số
quốc gia không chỉ là quyền của cơ quan nhà nước mà bên cạnh công tố còn có tư
tố (tư tố quyền) thuộc về quyền của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào nên hoạt động truy
tố không phải bao giờ, ở đâu cũng là đại diện để thực hiện quyền lực nhà nước. Vì

vậy, khác với hoạt động xét xử hình sự bao giờ cũng là thẩm quyền của Tòa án –
cơ quan quyền lực nhà nước, hoạt động truy tố chỉ là thẩm quyền của cơ quan nhà
nước khi thực hiện công tố, khi mà họ đại diện cho quyền lực công để truy cứu
trách nhiệm hình sự một người ra trước tòa án. Trong trường hợp tư tố thì việc truy

23
cứu trách nhiệm hình sự một người ra trước Tòa án không đại diện cho quyền lực
công mà mang tính chất tư, xuất phát từ lợi ích của cá nhân hoặc tổ chức. Vì vậy,
cá nhân, tổ chức khi tiến hành tư tố không phải là thực hiện quyền lực nhà nước
nên không được coi là cơ quan tiến hành tố tụng.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định, trong nhà nước pháp quyền Tòa
án đại điện cho quyền lực tư pháp có vị trí độc lập, kiểm soát với nhánh quyền lực
lập pháp và hành pháp. Vì vậy, Tòa án là một thiết chế độc lập trong bộ máy nhà
nước cũng như độc lập trong hoạt động xét xử của mình để bảo đảm tính khách
quan, công bằng, công lý trong các bản án và quyết định của mình.
1.1.2. Chức năng của Tòa án
Chức năng của nhà nước là những hoạt động nhà nước cơ bản nhất, mang
tính thường xuyên, liên tục, tương đối ổn định, xuất phát từ bản chất, cơ sở kinh tế
- xã hội, nhiệm vụ chiến lược, mục tiêu cơ bản của nhà nước, có ý nghĩa quyết định
tới sự tồn tại, phát triển của nhà nước và được thông qua hoạt động của bộ máy nhà
nước. Tất cả các cơ quan nhà nước đều tham gia thực hiện chức năng của nhà nước
ở mức độ, phạm vi nhất định xuất phát từ vị trí, vai trò, thẩm quyền của mình. Khi
thực hiện chức năng của nhà nước, bản thân mỗi cơ quan nhà nước lại có chức
năng của mình tùy theo vị trí và khuynh hướng hoạt động. Do đó, chức năng của
cơ quan nhà nước là hoạt động chủ yếu, thường xuyên, có tính ổn định tương đối
của riêng cơ quan đó nhằm thực hiện chức năng chung của cả bộ máy nhà nước.
Cơ quan tiến hành TTHS là những cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện
chức năng tư pháp của nhà nước, trên cơ sở đó mỗi cơ quan lại có chức năng của
riêng mình trong hoạt động TTHS. Theo quan niệm chung được thừa nhận tương
đối rộng rãi thì TTHS có ba chức năng: Chức năng buộc tội; Chức năng gỡ tội;

Chức năng xét xử. Trong đó chức năng xét xử, chức năng buộc tội (trong trường
hợp công tố) hoàn toàn thuộc thẩm quyền của các các cơ quan tiến hành tố tụng,

24
chức năng gỡ tội là quyền của người bị buộc tội và người bào chữa. Việc phân định
hợp lý thẩm quyền của các chủ thể tố tụng hình sự theo các chức năng cơ bản nêu
trên sẽ giúp cho hoạt động TTHS có tính chuyên nghiệp cao, tăng cường trách
nhiệm của các chủ thể trong việc thực hiện chức năng tố tụng được giao, là điều
kiện quan trọng để bảo đảm mục tiêu, hiệu quả của TTHS. Ngoài ra, ba chức năng
cơ bản của tố tụng hình sự được phân định rõ ràng còn là điều kiện quan trọng cho
việc phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự. Đồng thời, nó cũng góp phần làm minh bạch,
dân chủ trong TTHS, góp phần tôn trọng và bảo đảm quyền con người. Những
chức năng của TTHS do nhiều chủ thể thực hiện, đó là những cơ quan, người đại
diện cho công quyền; người có quyền, lợi ích liên quan đến vụ án; các cơ quan, cá
nhân khác liên quan hoặc tham gia vào quá trình giải quyết vụ án.
Trong số các cơ quan này thì Tòa án đảm nhiệm chức năng xét xử trong
TTHS. Khi tội phạm xảy ra những xung đột về lợi ích cần phải giải quyết bởi một
cơ quan đại diện cho công quyền, đại diện công lý là Tòa án. Vì vậy, hoạt động xét
xử vụ án hình sự của Tòa án không những là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà
nước mà còn nhân danh công lý xem xét, đánh giá xác định sự thật vụ án một cách
khách quan, toàn diện, đầy đủ để ra bản án, quyết định trong đó ấn định trách
nhiệm hình sự cho người đã thực hiện hiện tội phạm xâm phạm đến những lợi ích
được Nhà nước bảo vệ. Hoạt động xét xử của Toà án, mặc dù được tiến hành trên
cơ sở những kết quả đã được ghi nhận trong quá trình điều tra, truy tố - là những
giai đoạn tố tụng được tiến hành trước đó nhưng lại mang tính chất chính thức về
mặt pháp lý đối với sự việc phạm tội và trách nhiệm của người thực hiện tội phạm.
Vì vậy, việc điều tra, xem xét một cách khách quan, đầy đủ, toàn diện mọi tình tiết,
mọi chứng cứ của vụ án hình sự ở cả những quan hệ xã hội cơ bản và những quan
hệ xã hội có liên quan luôn được đặt ra khi tiến hành xét xử. Đặc biệt đối với việc


25
xét xử một vụ án hình sự, tính chất này càng có ý nghĩa quan trọng vì mỗi một
quyết định hay bản án hình sự được ban hành đều có ảnh hưởng đến những lợi ích
thiết thân của các chủ thể pháp luật. Mỗi một bản án hay quyết định của Toà án chỉ
được phép dựa vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà - tức là được
xem xét trong quá trình xét xử.
Như vậy, hoạt động xét xử thực chất là một quá trình Toà án giải quyết
những vụ án cụ thể mà ở đó tồn tại những xung đột về lợi ích không thể tự điều
hoà của các bên liên quan cũng như đã vượt ra khỏi giới hạn cho phép của những
biện pháp giải quyết khác. Xét xử được xem là chức năng quan trọng nhất trong
quá trình giải quyết vụ án và gắn liền với Tòa án trong nhà nước pháp quyền.
1.2. Nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Toà án trong tố tụng hình sự
Tòa án là bộ phận cấu thành của Bộ máy nhà nước nên tổ chức và hoạt động
của Tòa án trong TTHS cũng phải tuân theo những nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Bộ máy nhà nước. Trên cở sở những tiêu chí của nhà nước pháp quyền,
những nguyên tắc căn bản sau đây được quán triệt trong tổ chức và hoạt động của
Tòa án, đó là:
1.2.1. Nguyên tắc độc lập
Sư độc lập của các cơ quan tiến hành TTHS trong quá trình giải quyết vụ án
là đòi hỏi tất yếu của nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, mức độ độc lập của Tòa án
ở mức độ cao hơn, bao gồm cả độc lập về tổ chức và hoạt động. “Việc xuất hiện
nhà nước pháp quyền với đặc trưng căn bản là quyền lực nhà nước phải được
phân chia rành mạch thành quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp thì
Tòa án mới có vị trí độc lập một cách đầy đủ cả trên hai phương diện: Độc lập về
tổ chức và độc lập trong hoạt động xét xử” [15]. Các cơ quan tiến hành tố tụng
khác mức độ độc lập ở mức độ kém hơn phụ thuộc vào vị trí, chức năng, nhiệm vụ,

×