Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (992.42 KB, 101 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT








TRẦN THỊ MINH NGỌC



KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN
HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH
HÀ TĨNH,
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC











HÀ NỘI – 2011





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN THỊ MINH NGỌC



KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH,
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN



Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số: 60 38 40





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. GVC Trịnh Quốc Toản



Hà Nội - 2011


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu

Chương 1. Những vấn đề chung về kháng nghị phúc thẩm
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân


1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò kháng nghị phúc thẩm hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân

1.1.1 Khái niệm và đặc điểm kháng nghị phúc thẩm hình sự
của Viện kiểm sát nhân dân

1.1.2. Vai trò kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân

1.2. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về

kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân

1.2.1. Thẩm quyền và thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự

1.2.2. Căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự

1.2.3. Hậu quả của việc kháng nghị phúc thẩm hình sự

1.2.4. Thủ tục bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm
hình sự

Chương 2. Thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh

2.1. Tình hình giải quyết các vụ án hình sự có kháng nghị của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh

2.2. Những kết quả đạt được trong công tác kháng nghị phúc
thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh

2.3. Những tồn tại, hạn chế trong công tác kháng nghị phúc
thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và nguyên
nhân của những tồn tại, hạn chế

2.3.1. Những tồn tại, hạn chế trong công tác kháng nghị phúc
thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh

2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong công tác
kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Hà Tĩnh


Chương 3. Những giải pháp và kiến nghị nâng cao chất
lượng, hiệu quả kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm

sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
3.1. Sự cần thiết tiếp tục hoàn thiện các quy định về kháng
nghị phúc thẩm hình sự nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân

3.2. Những giải pháp hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm về kháng nghị phúc thẩm

3.2.1. Quy định cụ thể các căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình
sự trong Bộ luật tố tụng hình sự

3.2.2. Quy định cụ thể việc gửi bản sao bản án sơ thẩm của
Toà án cấp sơ thẩm cho Viện kiểm sát cấp trên trong Bộ luật tố
tụng hình sự

3.2.3. Quy định cụ thể việc bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị
trong Bộ luật tố tụng hình sự

3.3. Những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả kháng
nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong
thời gian tới

3.3.1. Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng
pháp luật

3.3.2. Tăng cường và đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều

hành, kiểm tra của Lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp về công tác
kháng nghị phúc thẩm hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà
Tĩnh

3.3.3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với ngành kiểm
sát

3.3.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong
việc giải quyết kháng nghị phúc thẩm hình sự

3.3.5. Tăng cường công tác tổ chức cán bộ, nâng cao ý thức
chính trị, đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ
cán bộ, kiểm sát viên

3.4. Một số kiến nghị cụ thể

Kết luận

Danh mục công trình khoa học của tác giả

Danh mục tài liệu tham khảo



1
MỞ ĐẦU

I. Tính cấp thiết của đề tài
Đấu tranh phòng và chống tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng
và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm,

không làm oan người vô tội là vấn đề hết sức quan trọng trong xã hội, đồng
thời cũng là mục đích của tố tụng hình sự.
Viện kiểm sát được Đảng và Nhà nước giao giữ một vị trí quan trọng
trong hoạt động tư pháp. Từ khi được thành lập cho đến nay, ngành Kiểm sát
nhân dân ngày càng lớn mạnh và có những tiến bộ rõ rệt trong hoạt động thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm mọi
hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra, xử lý kịp thời; việc truy tố,
xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội
phạm và làm oan người vô tội. Thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của mình, Viện kiểm sát bảo đảm cho pháp luật nói chung và pháp luật hình
sự nói riêng được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
Trong rất nhiều hoạt động của ngành kiểm sát, kháng nghị là một hoạt
động quan trọng nhằm thực hiện chức năng của ngành. Điều 19 Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: “Khi thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án
nhân dân theo quy định của pháp luật ” [23, 18].
Đặc biệt, kháng nghị phúc thẩm hình sự là một quyền năng riêng biệt
của Viện kiểm sát. Điều 232 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003
quy định: “Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có
quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án nhân
dân”. Đây là một quyền năng pháp lý quan trọng nhằm đảm bảo cho bản án,
quyết định của Toà án có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

2
Kháng nghị phúc thẩm hình sự chính là một biện pháp để kiểm tra lại
tính hợp pháp của bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án. Thông qua
việc xét xử phúc thẩm, Toà án cấp trên sửa chữa những sai lầm trong việc áp
dụng pháp luật của Toà án cấp sơ thẩm; hướng dẫn Toà án cấp sơ thẩm khắc
phục những thiếu sót trong việc áp dụng pháp luật.

Trong những năm qua, thực tiễn hoạt động kháng nghị phúc thẩm của
ngành Kiểm sát tỉnh Hà Tĩnh đã có những chuyển biến nhất định. Chất lượng
kháng nghị đã từng bước được nâng lên, nhìn chung đã đảm bảo về hình thức,
nội dung có căn cứ pháp lý, tỷ lệ kháng nghị được Viện kiểm sát cấp phúc
thẩm bảo vệ và Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận được tăng lên rõ rệt.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác kháng nghị
phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp ở tỉnh Hà tĩnh còn có
những bất cập, hạn chế, chưa phát huy hết chức năng, vai trò của mình, nhiều
vụ án Viện kiểm sát cấp trên phải rút kháng nghị, tỷ lệ kháng nghị được Toà
án cấp phúc thẩm chấp nhận còn thấp, số lượng kháng nghị phúc thẩm có
chiều hướng giảm trong khi số án sơ thẩm phải cải sửa, huỷ án thông qua
kháng cáo chiếm tỷ lệ không nhỏ, một số đơn vị Viện kiểm sát nhiều năm liền
không có kháng nghị phúc thẩm hình sự, v.v
Những tồn tại, thiếu sót nêu trên có nhiều nguyên nhân, từ nguyên nhân
chủ quan đến nguyên nhân khách quan. Một mặt năng lực và trách nhiệm của
cán bộ, Kiểm sát viên còn hạn chế, lãnh đạo một số đơn vị chưa thật sự quan
tâm tới công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, mối quan hệ phối hợp giữa
Viện kiểm sát các cấp về công tác kháng nghị phúc thẩm chưa cao. Mặt khác
BLTTHS hiện hành chưa có quy định cụ thể về căn cứ kháng nghị phúc thẩm,
thời hạn kháng nghị trên một cấp còn ngắn, việc sao gửi bản án sơ thẩm của
Toà án cấp sơ thẩm cho Viện kiểm sát cấp trên chưa được quy định, trang
thiết bị hỗ trợ cho công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử chưa

3
đáp ứng yêu cầu, v.v Những nguyên nhân trên làm cho chất lượng công tác
kháng nghị phúc thẩm bị ảnh hưởng không nhỏ. Trong khi đó, chưa có một
công trình nào nghiên cứu về vấn đề này thông qua thực tiễn công tác kháng
nghị phúc thẩm ở Viện kiểm sát tỉnh Hà Tĩnh.
Từ những lý do nêu trên tác giả chọn đề tài “Kháng nghị phúc thẩm các
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, một số vấn đề lý luận

và thực tiễn” làm luận văn thạc sĩ luật học. Thông qua việc nghiên cứu cơ sở
lý luận về kháng nghị phúc thẩm hình sự và thực tiễn của công tác kháng nghị
phúc thẩm hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Hà Tĩnh trong
những năm gần đây, tìm ra nguyên nhân của hạn chế và tồn tại, đưa ra một số
giải pháp và kiến nghị để nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự
theo tinh thần Chỉ thị 03 ngày 19-6-2008 về “Tăng cường công tác kháng
nghị phúc thẩm hình sự” của Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao
(VKSNDTC), qua đó thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử của ngành Kiểm sát, đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách tư
pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02-01-2002 và Nghị quyết số 49
ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020.
2. Tình hình nghiên cứu đến đề tài
Kháng nghị phúc thẩm là một quyền năng pháp lý quan trọng của Viện
kiểm sát trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp. Thông qua kháng nghị phúc thẩm hình sự, Viện kiểm sát đảm bảo cho
mọi hoạt động tư pháp được tiến hành đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
khắc phục được tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội. Yêu cầu cải cách tư pháp đặt ra với công tác đổi mới tổ chức bộ
máy của Viện kiểm sát theo quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp trên tinh
thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị thì việc nâng cao chất lượng

4
kháng nghị phúc thẩm hình sự là một vấn đề cần thiết. Vì vậy, công tác kháng
nghị phúc thẩm hình sự nói riêng, việc thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử đã được chú trọng hơn trong những năm gần đây
thông qua việc tổ chức hội thảo, hội nghị, tổng kết rút kinh nghiệm, v.v
Chính vì vậy, chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự đã được một số tác giả,
công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau:
- Bình luận khoa học BLTTHS, tác giả PGS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ

biên), Nxb. Công an nhân dân năm 2004.
- Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa luật đại học Quốc gia
Hà Nội năm 1994.
- Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Nxb. Công an nhân dân năm 2005.
- Tranh luận tại phiên toà phúc thẩm, tác giả Dương Thanh Biểu (chủ
biên), Nxb. Tư pháp, Hà Nội 2008.
- Thủ tục xét xử các vụ án hình sự, tác giả Đinh Văn Quế, Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh.
- Một số vấn đề liên quan đến trách nhiệm, quyền hạn của Viện kiểm sát
trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự, tác giả Nguyễn Huy Tiến, Tạp chí
Kiểm sát số 17 (tháng 9/2009).
- Một số đề xuất nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công tác kháng nghị
phúc thẩm án hình sự, tác giả Lê Doãn Tiết, Tạp chí Kiểm sát số 17 (tháng
9/2009).
- Nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, Chuyên
đề của Tạp chí Kiểm sát, số 16 (tháng 8/2010).
- Bàn thêm về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự, tác giả
Đinh Văn Quế, Tạp chí kiểm sát số 15 (tháng 8/2007), số 17 (tháng 9/2007).

5
- Kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự, tác giả Chu Thị Thanh Tú, Luận văn Thạc sỹ
luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007, v.v
Tuy nhiên các nghiên cứu, bài viết và chuyên đề nêu trên đề cập đến
những khía cạnh nhất định hoặc những vấn đề chung nhất. Mỗi bài viết, công
trình nghiên cứu chỉ tập trung giải quyết một hoặc vài nội dung cụ thể liên
quan đến chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự, chưa có bài viết hay công
trình nào nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết dưới góc độ lý luận, thực trạng
công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Hà

Tĩnh, lý giải các yếu tố ảnh hưởng, đưa ra giải pháp, kiến nghị nhằm khắc
phục và nâng cao hơn nữa chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự ở Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm của Viện kiểm sát;
- Phân tích, đánh giá toàn diện về thực tiễn pháp luật và thực tiễn thực
hiện công tác kháng nghị của VKSND tỉnh Hà Tĩnh từ khi có BLTTHS năm
2003, rút ra những hạn chế, tồn tại và những nguyên nhân của nó;
- Đề xuất những kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng của
công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành Kiểm sát nói chung và
Viện kiểm sát tỉnh Hà Tĩnh nói riêng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm
vụ sau:
Một là, làm rõ cơ sở lý luận của kháng nghị phúc thẩm hình sự: khái
niệm, đặc điểm, vai trò, trình tự, thủ tục kháng nghị phúc thẩm hình sự.

6
Hai là, phân tích sâu sắc các quy định của BLTTHS năm 2003 về
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát.
Ba là, đánh giá toàn diện thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm
hình sự ở Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian từ năm 2003 đến
2010, từ đó rút ra những mặt tích cực và hạn chế về công tác kháng nghị phúc
thẩm hình sự cũng như việc áp dụng quy định này trên thực tế xét xử ở Hà
Tĩnh hiện nay.
Bốn là, đề xuất các giải pháp, kiến nghị khả thi nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKSND trong
thời gian tới.

4. Đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu
* Về đối tượng nghiên cứu: Quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự của
Viện kiểm sát các cấp.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về lý
luận và thực tiễn trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm
sát hai cấp ở tỉnh Hà Tĩnh.
* Về thời gian nghiên cứu: Luận văn xác định nghiên cứu trong khoảng
thời gian từ 2003 đến 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên nền tảng cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, đường lối,
quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như phương
pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống, lịch sử, thống kê, so sánh, v.v
6. Những đóng góp mới
- Luận văn hệ thống, làm rõ cơ sở lý luận về kháng nghị phúc thẩm
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.

7
- Luận văn nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng công tác kháng
nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Hà Tĩnh, những mặt được và
chưa được, tìm ra những nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nghiên cứu, đề xuất một số giải
pháp, kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kháng
nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nói chung và Viện kiểm sát hai cấp
ở Hà Tĩnh nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm ba chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về kháng nghị phúc thẩm hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân
Chương 2: Thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
Chương 3: Những giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Hà Tĩnh.

8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM
HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò kháng nghị phúc thẩm hình sự
của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm kháng nghị phúc thẩm hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân
Tố tụng hình sự là một trình tự tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo
quy định của pháp luật. Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
cũng như các cơ quan, tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án theo
quy định của pháp luật.
Để đảm bảo cho việc phát hiện, xác định tội phạm và người phạm tội
được chính xác, xử lý nghiêm minh, không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
nhà nước, tổ chức, đòi hỏi quá trình giải quyết một vụ án hình sự phải diễn ra
qua nhiều giai đoạn khác nhau, từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi
hành án. Mỗi một giai đoạn tố tụng hình sự gắn liền với chức năng, nhiệm vụ
của một cơ quan tiến hành tố tụng, tuy độc lập nhưng lại có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau.

Ngoài việc quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự, BLTTHS còn quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng. Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành
tố tụng và người tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ các
quy định của BLTTHS, bởi lẽ mọi hành vi vi phạm pháp luật hoặc việc áp

9
dụng pháp luật không đầy đủ có thể dẫn đến việc xử lý oan, sai, xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, gây tổn hại đến uy tín của các cơ
quan bảo vệ pháp luật và làm giảm lòng tin của nhân dân vào hiệu lực và sự
công minh của pháp luật. VKSND là một trong những cơ quan tư pháp tiến
hành các hoạt động tố tụng xuyên suốt ngay từ khi khởi tố vụ án đến khi bản
án, quyết định được thi hành. Thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
VKSND bảo đảm cho mọi hoạt động của các cơ quan tố tụng, người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng được thực hiện một cách nghiêm chỉnh,
thống nhất theo quy định của pháp luật.
Nghiên cứu lịch sử các cơ quan tư pháp ở nước ta cho thấy, cùng với
Tòa án các cấp, cơ quan công tố cũng dần dần được hình thành
trong bộ máy nhà nước để cùng với các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khác đấu tranh chống các hành vi tội phạm, nhằm
bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ chính quyền nhân
dân cũng như lợi ích của nhân dân. Theo các Sắc lệnh số 13/SL
ngày 24-01-1946, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17-4-1946 và Sắc lệnh
số 131/SL ngày 20-7-1946, hệ thống cơ quan công tố nằm trong
cơ cấu tổ chức của Toà án, do Bộ Tư pháp quản lý. Hệ thống Toà
án được tổ chức ở cả ba cấp: Toà án sơ cấp (ở các quận, huyện),
Toà án đệ nhị cấp (ở các tỉnh, thành phố) và Toà thượng thẩm (ở
Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ). Ở Toà án sơ cấp, Thẩm phán làm
cả việc xét xử và công tố. Ở Toà án đệ nhị cấp, Thẩm phán được

chia ra làm hai chức vị: Thẩm phán xử án và Thẩm phán buộc tội
(Công tố Viện). Ở Toà thượng thẩm có Công tố viện do ông
Chưởng lý đứng đầu, gồm các công chức làm công tác công tố
chuyên trách Công tố viện hoạt động dưới sự quản lý, chỉ đạo,
điều hành của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Nhưng Bộ trưởng Bộ Tư

10
pháp không có quyền trực tiếp làm nhiệm vụ công tố. Các công
tố viện có thẩm quyền tư pháp cảnh sát (điều tra hình sự), thực
hành quyền công tố, điều khiển công việc và giám sát công tác
điều tra của tư pháp cảnh sát [14, 15].
Về sau, trên cơ sở Nghị quyết ngày 29-4-1958 của Quốc hội
khoá I (kỳ họp thứ 8) và các Nghị định số 256/TTg ngày 01-7-
1959, Nghị định số 321/TTg ngày 02-7-1959 của Chính phủ,
Viện Công tố với tư cách là một hệ thống cơ quan nhà nước độc
lập được thành lập tách khỏi Toà án [14, 16].
Đến năm 1960, trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, và Luật Tổ chức
VKSND năm 1960, hệ thống VKSND được thành lập, đặt dưới
sự giám sát trực tiếp của cơ quan quyền lực cao nhất của nhà
nước là Quốc hội, VKSND ngoài chức năng công tố còn thực
hiện chức năng thứ hai là kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Kể
từ khi Viện công tố được thành lập tách khỏi Chính phủ và sau
này VKSND được thành lập cho đến nay, trên thực tế hệ thống
cơ quan VKSND luôn luôn tồn tại như một bộ phận hợp thành
của nhánh quyền lực tư pháp [14, 16].
Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 tuy có sửa đổi một số quy
định về tổ chức và hoạt động của VKSND nhưng chức năng công tố tiếp tục
giao cho VKSND đảm nhiệm. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi năm 2001) và Luật tổ chức VKSND năm 2002 thì VKSND có hai chức
năng: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Nghị

quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định: “Trước mắt, VKSND giữ nguyên
chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp” [2, 5]. Trên cơ sở chỉ đạo của Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược

11
cải cách tư pháp đến năm 2020, ngày 28-7-2010 Ban chấp hành Trung ương
đã ban hành Kết luận số 79-KL/TW về đề án đổi mới tổ chức và hoạt động
của Toà án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra. Theo đó, Ban chấp hành
Trung ương đã khẳng định: “VKSND có chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay” [5, 3]. Như vậy, chức năng và
nhiệm vụ của Viện kiểm sát không thay đổi và vẫn giữ nguyên như quy định
tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung và Điều 1 Luật Tổ chức
VKSND.
Kết luận số 79-KL/TW cũng định hướng: Tổ chức hệ thống
VKSND thành 4 cấp, phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án
nhân dân. Giữ cụm từ “nhân dân” trong tên gọi của Viện kiểm
sát. Cụ thể là: VKSND khu vực (số lượng và địa hạt tư pháp
tương ứng với số lượng và địa hạt tư pháp của Toà án nhân dân
sơ thẩm khu vực), được thành lập trên cơ sở một hoặc một số
Viện kiểm sát cấp huyện trong phạm vi địa hạt tư pháp của Tòa
án sơ thẩm khu vực [5, 3]
Về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát khu vực, trước mắt, cần xác
định như Viện kiểm sát cấp huyện hiện nay. Căn cứ vào tình hình cụ thể trong
quá trình xây dựng, phát triển các cơ quan tư pháp cũng như tình hình phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước, dần dần có thể tăng thẩm quyền cho Viện
kiểm sát khu vực theo một lộ trình cụ thể, hợp lý.
VKSND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được tổ chức tương
đương với Tòa án phúc thẩm (cấp tỉnh), thành lập chủ yếu trên cơ sở VKSND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi địa hạt tư pháp của Tòa

án phúc thẩm. Viện kiểm sát tỉnh có chức năng thực hành quyền công tố,
kiểm sát các hoạt động tư pháp trong việc giải quyết các vụ án hình sự, vụ án

12
hành chính, các vụ việc dân sự và các việc khác theo quy định của pháp luật
do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Tòa án phúc thẩm thụ lý, giải quyết.
VKSND cấp cao (số lượng và địa hạt tư pháp tương ứng với số lượng
và địa hạt tư pháp của Toà án nhân dân cấp cao), được tổ chức theo khu vực
tương đương với các Tòa thượng thẩm. Viện kiểm sát cấp cao chỉ có chức
năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm.
VKSNDTC được tổ chức tương đương với Toà án nhân dân tối cao
(TANDTC). Về cơ bản, VKSNDTC có chức năng, nhiệm vụ như hiện nay,
trừ thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm.
Các Nghị quyết của Đảng nhấn mạnh phải tăng cường trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động
điều tra. Như vậy, hệ thống tổ chức của Viện kiểm sát không chỉ phải phù hợp
với hệ thống tổ chức 4 cấp của Tòa án mà còn phải phù hợp với hệ thống tổ
chức của Cơ quan điều tra. Số lượng Viện kiểm sát khu vực không những
phải tương đương với số lượng Tòa án sơ thẩm khu vực trên địa hạt tư pháp
mà còn phải cân nhắc cho phù hợp với hệ thống tổ chức của Cơ quan điều tra,
bảo đảm khả năng tăng cường công tố trong hoạt động điều tra, gắn kết chặt
chẽ, liên tục hoạt động công tố với hoạt động điều tra.
Như vậy, chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát chính
là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy
tố, xét xử. Phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi có quyết định khởi
tố vụ án hình sự và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật. Kiểm sát các
hoạt động tư pháp là chức năng hiến định của Viện kiểm sát, thực hiện nhiệm
vụ giám sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao
nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động tư pháp trong quá trình điều tra, truy tố,

xét xử, thi hành án hình sự nhằm đảm bảo cho pháp luật tố tụng hình sự được

13
thực hiện một cách nghiêm chỉnh và thống nhất. Phạm vi chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp hình sự cũng bắt đầu từ
khi vụ án hình sự được khởi tố và kết thúc khi người phạm tội đã thi hành
xong bản án. Với chức năng trên, vai trò của VKSND trong suốt quá trình tố
tụng rất quan trọng, sự xuất hiện của VKSND trong quá trình tố tụng nhằm
đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra, xử lý kịp thời,
đảm bảo cho việc truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, không làm oan người vô tội đồng thời không để lọt tội phạm và người
phạm tội.
Trong giai đoạn xét xử, VKSND thực hành quyền công tố, bảo vệ quan
điểm truy tố theo cáo trạng, bảo đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật và mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo phải phù hợp với tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo. Ngoài ra, VKSND
còn thực hiện chức năng giám sát hoạt động xét xử của Tòa án. Nếu việc xét
xử của Tòa án vi phạm nghiêm trọng các quy định luật hình sự hoặc tố tụng
hình sự, hoặc sau phiên tòa xét xử sơ thẩm mà phát hiện thấy quá trình tố tụng
từ khi khởi tố vụ án hình sự đến truy tố, xét xử vì lý do chủ quan hay khách
quan có vi phạm pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự thì Viện kiểm sát
cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp sử dụng quyền năng pháp lý
đặc biệt để yêu cầu Tòa án cấp trên tiến hành xét xử lại vụ án theo trình tự
phúc thẩm, đó chính là quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự. Đây là quyền
năng pháp lý đặc biệt mà Nhà nước chỉ giao cho ngành Kiểm sát thực hiện.
Quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự được thực hiện ở cả hai cấp là cùng cấp
và cấp trên trực tiếp. Sở dĩ quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự được thực
hiện ở cả hai cấp là để Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử vụ án hình sự và bảo đảm
cho mọi vi phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm đều được


14
phát hiện và giải quyết tại cấp xét xử thứ hai, đồng thời đây là một trong
những cơ sở đảm bảo đúng nguyên tắc “thực hiện chế độ hai cấp xét xử” theo
quy định tại Điều 20 BLTTHS.
Hiện nay, BLTTHS hiện hành cũng như các văn bản pháp lý chưa có
một khái niệm thống nhất về kháng nghị phúc thẩm hình sự.
Theo tác giả Đinh Văn Quế thì "Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
hình sự là một văn bản do Viện kiểm sát ban hành yêu cầu Toà án cấp phúc
thẩm xét xử lại vụ án mà Toà án cấp sơ thẩm cùng cấp hoặc cấp dưới trực
tiếp đã xét xử, nhưng xét thấy không đúng pháp luật" [16, 235]. Nếu hiểu
kháng nghị phúc thẩm hình sự như trên thì chưa phản ánh đúng bản chất của
kháng nghị phúc thẩm là một quyền năng pháp lý riêng biệt mà Nhà nước chỉ
giao cho ngành Kiểm sát, thứ hai việc cho rằng Viện kiểm sát ban hành văn
bản kháng nghị phúc thẩm yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án Toà
án cấp sơ thẩm đã xét xử nhưng xét thấy không đúng pháp luật là một quan
niệm rất chung chung, ở đây phải đánh giá là để khắc phục các vi phạm
nghiêm trọng đối với bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
Theo tác giả Nguyễn Thị Thanh Tú thì "Kháng nghị phúc thẩm hình sự
là một quyền năng pháp lý đặc thù của Viện kiểm sát nhân dân, do người có
thẩm quyền thực hiện thông qua một văn bản pháp lý nêu rõ lý do của việc
kháng nghị và yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án; hoặc xét lại
bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án sơ thẩm,
nhưng xét thấy không đúng pháp luật nhằm khắc phục các vi phạm hoặc sai
lầm trong bản án và quyết định đó". [12, 13]. Quan điểm trên khá rõ, tuy
nhiên tác giả cho rằng Viện kiểm sát yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại
vụ án; hoặc xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu hiệu lực pháp luật
khì khá rườm rà, vì thực chất đây là việc xét xử lại vụ án ở cấp xét xử thứ hai,
ngoài ra việc dùng từ xét lại bản án, quyết định gây hiểu nhầm như việc xét
lại bản án ở thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.


15
Do vậy, để có quan niệm thống nhất về khái niệm kháng nghị phúc
thẩm hình sự, cần phải làm sáng tỏ khái niệm “Kháng nghị” và “Phúc thẩm”.
Theo Từ điển Tiếng Việt thuật ngữ “Kháng nghị” được hiểu là
sự bày tỏ bằng văn bản chính thức ý kiến chống đối [18, 474];
còn “Phúc thẩm” là việc Tòa án cấp trên xét xử lại một vụ án do
cấp dưới đã xét xử sơ thẩm mà có chống án [18, 763].
“Kháng nghị” là quyền mà pháp luật quy định cho Viện kiểm sát
và những người có thẩm quyền ra văn bản kháng nghị, làm
ngưng hiệu lực phán quyết của Toà án trong bản án hoặc quyết
định đã tuyên để xét xử lại theo trình tự phúc thẩm, giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm nhằm cho vụ án được xét xử chính xác,
khách quan, đúng pháp luật [34, 404]. “Phúc thẩm” là việc Toà
án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án hoặc quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, bị kháng cáo hoặc kháng nghị
nhằm kiểm tra lại tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết
định sơ thẩm, sửa những sai lầm và vi phạm của Toà án sơ thẩm,
bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật (Điều 204 BLTTHS).
Bản án và quyết định của Toà án cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp
luật ngay sau khi tuyên [34, 378].
Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm được thực hiện ở Viện kiểm sát
cùng cấp, cùng lãnh thổ với Tòa án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm và Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp của Viện kiểm sát này. Trong pháp luật Tố tụng
hình sự Việt Nam, ngay từ những văn bản pháp lý đầu tiên khi Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, quyền kháng nghị của VKSND được quy định
tại Điều thứ 34 Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng giêng năm 1946 của Chủ tịch
nước “Tòa đại hình sơ thẩm, ông Biện lý có quyền chống án lên Tòa thượng
thẩm” [9]. Tại điểm c Điều 1 mục II Thông tư số 141-HCTP ngày 5- 12-1957


16
của Bộ Tư pháp quy định “Ông Công tố ủy viên, dưới sự lãnh đạo của Bộ tư
pháp có nhiệm vụ kháng nghị đối với bản án hoặc nghị quyết của Tòa án xét
không đúng pháp luật” [6].
Kháng nghị phúc thẩm hình sự được ghi nhận một cách chính thức tại
Điều 17 Luật tổ chức VKSND năm 1960 “VKSND tối cao và các VKSND địa
phương có quyền: kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của
TAND cùng cấp và dưới một cấp”. Điều 13 luật Tổ chức VKSND năm 1981
quy định: “Khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử, các VKSND có
quyền:…Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án và quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân (TAND) cùng cấp và
dưới một cấp, khi thấy có vi phạm pháp luật” [22].
Qua từng giai đoạn lịch sử, các quy định về kháng nghị phúc thẩm hình
sự được thay đổi, bổ sung và hoàn thiện hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn trong
hoạt động thực hiện chức năng của ngành Kiểm sát. Chế định kháng nghị
phúc thẩm hình sự được sửa đổi, bổ sung nhiều lần cho phù hợp với tình hình
thực tế của mỗi thời kỳ cách mạng Việt Nam. Khi chưa có BLTTHS năm
1988, chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự được thực hiện theo “Bản
hướng dẫn về trình tự tố tụng phúc thẩm về hình sự kèm theo Thông tư số
19/TATC ngày 2- 10-1974 của TANDTC”. Tiếp đến, chế định kháng nghị
phúc thẩm hình sự được quy định tại Phần thứ tư, chương XXII, tại các Điều
206, 207, 208, 210, 211, 212, 213 của BLTTHS năm 1988. Đến khi có
BLTTHS năm 2003, chế định này được quy định tại Phần thứ tư, chương
XXIII ở các Điều 230, 232, 233, 234, 236, 237 238, 239.
Có thể khẳng định, kể từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa cho đến nay, pháp luật tố tụng hình sự quy định chỉ có Viện kiểm
sát mới có quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự. Đây là quyền năng pháp lý
mà Nhà nước chỉ trao cho Viện kiểm sát và chỉ có Viện kiểm sát mới có
quyền này.


17
BLTTHS quy định về các giai đoạn tố tụng hình sự đó là điều tra, truy
tố, xét xử, trong đó xét xử tại phiên tòa là giai đoạn quan trọng nhất. Việc Tòa
án ra một bản án khẳng định bị cáo có tội hoặc không có tội, nếu phạm tội thì
phạm tội gì, theo quy định tại điều, khoản nào của Bộ luật hình sự (BLHS), áp
dụng hình phạt hay không và hình phạt gì, mặc khác phán quyết của Tòa án
quyết định sinh mạng chính trị của một con người cụ thể nên nó có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng. Đồng thời, Tòa án quyết định các biện pháp tư pháp đối
với bị cáo cũng như yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra
hoặc kiến nghị với cơ quan, tổ chức xã hội sửa chữa những thiếu sót trong
quản lý kinh tế, quản lý con người nếu có căn cứ.v.v
BLTTHS năm 2003 quy định nguyên tắc đối với hoạt động xét xử của
Tòa án, đó là nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử: cấp sơ thẩm và cấp
phúc thẩm. Theo Điều 230 BLTTHS năm 2003 thì “xét xử phúc thẩm là việc
Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà
bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị
kháng cáo hoặc kháng nghị” [8, 170]. Xét xử phúc thẩm là việc xét xử ở cấp
thứ hai. Tính chất của xét xử phúc thẩm là xét xử lại vụ án, có như vậy mới
đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử.
Xét xử phúc thẩm có hai nhiệm vụ: xét xử lại vụ án về mặt nội dung;
kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật cả về nội dung và hình thức. Theo quy định trên, ngoài
kháng nghị phúc thẩm thì kháng cáo cũng là một căn cứ để mở ra trình tự xét
xử phúc thẩm hình sự. Chỉ có thể kháng cáo hoặc kháng nghị phúc thẩm đối
với bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm khi bản án hoặc quyết
định đó chưa có hiệu lực pháp luật, không đảm bảo tính hợp pháp và tính có
căn cứ. Mặc dù giữa kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát và kháng cáo
có nhiều điểm giống nhau nhưng lại có sự khác nhau cơ bản là: kháng cáo chỉ

18

là sự nhân danh cá nhân, tổ chức, cơ quan (tổ chức, cơ quan với tư cách là
nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự) để bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
Do vậy, khác với kháng nghị, những người có quyền kháng cáo có thể thực
hiện quyền này khi không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm, còn đối
với kháng nghị thì chỉ có thể thực hiện khi bản án, quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng về tố tụng, về nội dung và về áp dụng pháp
luật thì VKSND mới được thực hiện quyền kháng nghị. Viện kiểm sát thực
hiện quyền kháng nghị phúc thẩm nhằm bảo vệ các lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, bị hại cũng như quyền
lợi của các đương sự trong vụ án hình sự. Viện kiểm sát thực hiện kháng nghị
phúc thẩm bằng một văn bản pháp lý trong đó nêu rõ lý do của việc kháng
nghị (khoản 2 Điều 233 BLTTHS năm 2003), đồng thời yêu cầu Toà án cấp
phúc thẩm xét xử lại vụ án hoặc xét lại các quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật, nhằm sửa chữa khắc phục các sai lầm của Toà án cấp sơ thẩm
khi ra các bản án hoặc quyết định đó. Khi thực hiện quyền kháng nghị phúc
thẩm, Viện kiểm sát phải tuân theo những quy định của pháp luật về chế định
này, không được kháng nghị tùy tiện, tràn lan theo ý chí của Kiểm sát viên.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức VKSND năm
2002 thì VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp. VKSND là cơ quan duy nhất có quyền truy tố người phạm tội
ra trước Tòa án để xét xử. Đồng thời VKSND cũng thực hiện chức năng kiểm
sát các hoạt động điều tra, xét xử nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét
xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khi phát hiện bản án, quyết định sơ
thẩm có vi phạm pháp luật, Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp có quyền kháng nghị phúc thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại
vụ án. Viện kiểm sát vừa bảo vệ quan điểm truy tố của mình vừa bảo đảm cho
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của cấp sơ thẩm đúng người, đúng tội, đúng

19
pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô

tội. Như vậy kháng nghị phúc thẩm là một trong những quyền năng pháp lý
quan trọng, thông qua đó Viện kiểm sát đồng thời thực hiện hai chức năng là
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đây vừa là
quyền, vừa là trách nhiệm của VKSND. Hiện nay, BLTTHS năm 2003 cũng
như các văn bản pháp lý khác chưa có một khái niệm thống nhất về khái niệm
kháng nghị phúc thẩm hình sự.
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2 tháng 1 năm 2002 của Bộ Chính
trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới” xác định: Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách
quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;
việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các
chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo,
nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi
ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có
sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định [1, 3].
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị về
“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã xác định mục
tiêu: Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân
dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư
pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu
quả và hiệu lực cao [2, 2].
Như vậy, TAND là cơ qụan xét xử có tính độc lập, nhưng để cho hoạt
động xét xử đạt hiệu quả cao, bảo đảm việc ra một bản án đúng người, đúng

20
tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, thì
hoạt động xét xử phải được đặt dưới sự giám sát của một cơ quan Nhà nước

có thẩm quyền, đó chính là Viện kiểm sát. Khi kiểm sát xét xử mà phát hiện
bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm thì Viện kiểm sát có quyền kháng nghị
phúc thẩm hình sự để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án.
VKSND là cơ qụan duy nhất có quyền truy tố người phạm tội ra trước
Tòa án để xét xử. Đồng thời Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát điều
tra, kiểm sát xét xử nhằm đảm bảo cho việc truy tố, điều tra, xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, khi phát hiện bản án, quyết định sơ
thẩm có vi phạm nghiêm trọng về tố tụng, về nội dung, về áp dụng pháp luật
thì Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự để yêu cầu
Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
Từ những phân tích trên đây có thể rút ra một số đặc điểm của kháng
nghị phúc thẩm hình sự của VKSND, đó là:
* Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý đặc biệt mà
Nhà nước chỉ giao cho ngành kiểm sát.
Chủ thể của quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự: đó là Viện kiểm sát
cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp với Tòa án đã tuyên bản án,
quyết định sơ thẩm. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án
hình sự, VKSND có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án
và quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân chưa có hiệu lực pháp luật.
Kháng nghị phúc thẩm là một hoạt động quan trọng của VKSND và chỉ
Viện kiểm sát mới có quyền kháng nghị phúc thẩm, trong tất cả các văn bản
pháp lý sơ khai nhất cho đến BLTTHS đều quy định: Quyền kháng nghị phúc
thẩm hình sự là quyền năng pháp lý đặc biệt duy nhất chỉ có ở Viện kiểm sát.
Viện kiểm sát là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp, thực hiện chức năng kiểm sát đối với việc áp dụng pháp luật của tất

21
cả các chủ thể trong hoạt động tư pháp, trong đó có TAND. TAND là cơ quan
xét xử có tính độc lập, nhưng hoạt động xét xử của Tòa án chỉ có thể đạt hiệu
quả cao và không có những vi phạm nghiêm trọng khi đặt dưới sự giám sát

của VKSND. Để đảm bảo cho việc quyết định truy tố của mình, cũng như
đảm bảo cho việc xét xử đúng pháp luật, khi phát hiện bản án, quyết định sơ
thẩm có vi phạm nghiêm trọng, Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm để yêu
cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án.
BLTTHS quy định nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử cùng với
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020” xác định mục tiêu hoạt động tư pháp mà trọng
tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao, công tác
xét xử, kiểm sát hoạt động xét xử trong đó có công tác kháng nghị phúc thẩm
hình sự được đặc biệt quan tâm.
* Kháng nghị phúc thẩm hình sự là công cụ đặc biệt và là một trong
những biểu hiện rõ nhất về quyền năng của Viện kiểm sát trong việc thực hiện
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà
án nhân dân.
VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong quá trình thực hiện chức năng
kiểm sát xét xử, nếu phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm pháp
luật, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm để yêu cầu Tòa án cấp
trên xét xử lại vụ án. Thông qua kháng nghị phúc thẩm, Viện kiểm sát bảo vệ
quyền truy tố của mình đồng thời bảo đảm cho Tòa án ra một bản án chính
xác, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đây là một trong
những quyền năng pháp lý mà thông qua đó Viện kiểm sát đồng thời thực
hiện hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp. Đây vừa là quyền, vừa là trách nhiệm của VKSND.

×