Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 93 trang )





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***





Trần Thị Thu Hương



Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong tố tụng hình sự


Chuyên ngành : Luật
Mã số : 60 38 40



LUẬN VĂN THẠC SĨ







Người hướng dẫn: PGS.TS. Võ Khánh Vinh








HÀ NỘI - 2007


1

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu khoa học này là của mình,
không có sự sao chép bất kỳ một công trình khoa học nào đã công bố.

Học viên


Trần Thị Thu Hƣơng





























2
MC LC

Trang ph bỡa
Li cam oan
Mc lc
M U


Chng 1:Cơ sở lý luận và pháp lý của nguyên tắc bảo
đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự

1.1. C s lý lun chung ca nguyờn tc bo m phỏp ch xó hi ch
ngha trong t tng hỡnh s

1.1.1. Nguyờn tc c bn v v trớ ca nguyờn tc bo m phỏp ch xó hi
ch ngha trong t tng hỡnh s

1.1.2. Bo m phỏp ch l nhim v ca hot ng t tng hỡnh s

1.1.3. Bo m phỏp ch xó hi ch ngha trong t tng hỡnh s

1.2. C s phỏp lý ca nguyờn tc bo m phỏp ch xó hi ch ngha
trong t tng hỡnh s

1.2.1. Hin phỏp 1992 (c sa i 2002)

1.2.2. B lut t tng hỡnh s 2003

1.2.3. Cỏc vn bn phỏp lut khỏc

Chng 2: NI DUNG NGUYấN TC BO M PHP CH X HI
CH NGHA TRONG T TNG HèNH S

2.1. Cỏc c quan tin hnh t tng phi hot ng trờn c s ca B lut
t tng hỡnh s 2003

2.1.1. Xỏc nh rừ thm quyn phỏp lý ca tng c quan tin hnh t tng


2.1.1.1. ý ngha ca vic xỏc nh rừ thm quyn phỏp lý ca tng c
quan tin hnh t tng

2.1.1.2. Quy nh ca phỏp lut hin hnh v thm quyn phỏp lý ca cỏc
c quan tin hnh t tng

2.1.2. Cỏc quyt nh ca c quan tin hnh t tng hỡnh s phi da trờn
c s ca B lut t tng hỡnh s 2003



3
2.1.3. Vic ỏp dng cỏc bin phỏp cng ch, bin phỏp nghip v trong
u tranh phũng v chng ti phm theo quy nh ca phỏp lut

2.2. Ngi tin hnh t tng phi thc hin quyn, ngha v ca mỡnh
theo phỏp lut t tng hỡnh s v nhng iu cỏn b cụng chc khụng
c lm

2.2.1.Khỏi nim ngi tin hnh t tng

2.2.1.1. iu tra viờn

2.2.1.2. Kim sỏt viờn

2.2.1.3. Thm phỏn

2.2.1.4. Hi thm nhõn dõn


2.2.1.5. Th ký to ỏn

2.2.2. Ni dung quyn v ngha v ca ngi tin hnh t tng

2.2.3. ý ngha quy nh quyn v ngha v ca ngi tin hnh t tng

2.3. Hot ng t tng hỡnh s ca ngi tham gia t tng phi c bo
m theo quy nh ca phỏp lut

2.3.1. Quyn con ngi trong lut quc t

2.3.2. Nhng ngi tham gia t tng theo quy nh ca phỏp lut Vit Nam

2.3.3. Quy ch bo m quyn v ngha v ca ngi tham gia t tng

2.3.4. ý ngha ca vic bo m hot ng t tng ca ngi tham gia t
tng theo quy nh ca phỏp lut

Chng 3: Hoàn thiện nguuyên tắc bảo đảm pháp chế xã
hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự

3.1. ý ngha ca nguyờn tc bo m phỏp ch xó hi ch ngha trong t
tng hỡnh s

3.1.1. Bo m hot ng bỡnh thng ca cỏc c quan tin hnh t tng

3.1.2. C s quan trng bo v quyn, li ớch hp phỏp ca Nh nc v
cụng dõn

3.1.3. Bo m hot ng t tng hỡnh s c ỏp dng thng nht trờn

phm vi c nc



4
3.1.4. Định hướng cho việc xây dựng pháp luật tố tụng hình sự

3.1.5. Góp phần đấu tranh có hiệu quả với hành vi vi phạm pháp luật tố
tụng
hình sự

3.2. Thực tiễn chấp hành nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong tố tụng hình sự

3.2.1. Những mặt tích cực

3.2.1.1. Các vụ án được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục luật định

3.2.1.2. Các vụ án được giải quyết nhanh gọn, bảo đảm thời hạn tố tụng

3.2.1.3. Quyền lợi của người tham gia tố tụng được đảm bảo

3.2.2. Những mặt hạn chế

3.2.2.1. Yếu tố pháp lý

3.2.2.2. Yếu tố thực tiễn

3.3. Bảo đảm của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình
sự


3.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật tố tụng hình sự

3.3.1.1. Xác định rõ chức năng, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức của
các
cơ quan tiến hành tố tụng

3.3.1.2. Nâng cao quyền tự do, dân chủ của người tham gia tố tụng

3.3.1.3. Quy định chặt chẽ và chi tiết hơn các biện pháp cưỡng chế

3.3.1.4. Phân định trách nhiệm bồi thường thiệt hại giữa các cơ quan có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự.

3.3.2. Xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm tố tụng của người tiến
hành tố tụng

3.3.3. Chuẩn hoá công tác cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố tụng

3.3.4. Nâng cao công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và tuyên truyền
pháp luật đến nhân dân

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Bất cứ một ngành luật hay một ngành khoa học pháp lý nào khác đều
có những phương châm, định hướng làm nền tảng cho hoạt động nghiên cứu
và áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Những phương châm, định hướng đó
được gọi là nguyên tắc. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa là
nguyên tắc mang tính chất quyết định, quan trọng cho hoạt động của các chủ
thể bao gồm Nhà nước và công dân. Đặc biệt, trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước pháp quyền thì đòi hỏi tính tối thượng của pháp luật và chịu sự phục
tùng pháp luật một cách triệt để là không thể thiếu.
Trong những năm trước, chúng ta thường quan niệm rằng Nhà nước có
quyền còn công dân có nghĩa vụ cho nên mối quan hệ giữa Nhà nước và cá
nhân không mang tính bình đẳng và trở thành sự áp đặt chủ quan của Nhà
nước lên các quan hệ xã hội. Vì thế, cùng với sự phát triển của xã hội cũng
như sự nhận thức ngày càng cao của người dân mà đòi hỏi Nhà nước cũng
phải có trách nhiệm đối với hành vi của mình. Trong lĩnh vực Tư pháp, Nghị
quyết 49 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020,
Nghị quyết 388 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội về bồi thường thiệt hại đối
với các trường hợp oan sai do cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố
tụng có thẩm quyền gây nên đặt ra yêu cầu hoạt động tố tụng hình sự phải
được tiến hành một cách thận trọng và đúng đắn trên cơ sở thẩm quyền được
phân định rạch ròi giữa các cơ quan cũng như nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của
người tiến hành tố tụng. Hơn nữa, việc hoàn thiện Bộ Luật Tố tụng hình sự
năm 2003 là cần thiết vì trên thực tế đã phát sinh rất nhiều lỗ hổng làm lối
thoát cho các vi phạm pháp luật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc bảo đảm
tuân thủ tuyệt đối pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng và hoạt
động của Nhà nước nói chung.


6

Nguyên tắc bảo đảm pháp chế là nguyên tắc cơ bản nhất trong hệ thống
pháp luật nói chung và Luật tố tụng hình sự nói riêng, vì thế nó phải không
ngừng được hoàn thiện và phát triển sao cho tuyệt đối mọi chủ thể phải tôn
trọng và thi hành theo pháp luật. Đây không phải là một nguyên tắc mới
nhưng nó mang tính thời sự, là cái cần hướng tới cả hiện tại và tương lai trong
hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Về phương diện thực tiễn nghiên cứu nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã
hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự cũng xuất phát từ những mục đích nhất
định. Thứ nhất, yêu cầu của hoạt động tố tụng hình sự phải được tiến hành
đúng theo các quy định của pháp luật để bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, của
tổ chức và những người tham gia tố tụng khác. Hoạt động tố tụng hình sự ảnh
hưởng nghiêm trọng đến danh dự, lợi ích, nhân phẩm của các chủ thể cho nên
nếu tiến hành sơ sài, trái pháp luật sẽ dẫn đến hậu quả khó lường. Bảo vệ
quyền lợi của các chủ thể cũng chính là bảo vệ sự tôn nghiêm của pháp luật.
Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm pháp chế là chuẩn mực đánh giá tính đúng sai
trong hoạt động tố tụng hình sự. Kết quả hoạt động tố tụng hình sự của cơ
quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng thể hiện ở việc có thực hiện
đúng các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong
quá trình giải quyết vụ án hay không? Giá trị đích thực của tố tụng đạt được
khi đảm bảo tính pháp lý tối cao của hoạt động tố tụng, tức là hoạt động đó
trong khuôn khổ pháp luật. Thứ ba, nguyên tắc pháp chế còn cần nghiên cứu
ở chỗ: Hoạt động tố tụng hình sự hiện nay oan sai gia tăng, thủ tục tố tụng bị
vi phạm nghiêm trọng. Hơn nữa, xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế,
hợp tác chống tội phạm đặt ra yêu cầu cần sửa đổi hệ thống pháp luật tố tụng
hình sự phù hợp với tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, trong đó pháp
luật và nhân quyền cần được coi trọng.
Xuất phát từ những cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn cho thấy tính cấp
thiết của đề tài được chọn để nghiên cứu cũng như để làm sáng tỏ nội dung



7
của nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động tố tụng
hình sự trên cơ sở quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật.
2. Mục đích nghiên cứu.
- Tìm hiểu các qui định cụ thể của pháp luật tố tụng hình sự có liên
quan đến bảo đảm pháp chế trong tố tụng hình sự, từ đó thấy được bản chất
của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự.
- Tìm hiểu ý nghĩa và tầm quan trọng của việc bảo đảm pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong tố tụng hình sự đối với việc xây dựng và áp dụng pháp luật
trong thực tiễn.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ luật học, nguyên tắc bảo đảm pháp
chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự được nghiên cứu trong phạm vi
sau:
- Nghiên cứu vấn đề tuân theo pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự.
- Phân tích thực trạng tuân thủ pháp chế của các chủ thể, từ đó đưa ra
các biện pháp bảo đảm pháp chế được thực hiện một cách triệt để đối với mọi
giai đoạn và mọi chủ thể trong tố tụng hình sự.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác- Lênin.
- Quan điểm, lý luận của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp
luật trong nền kinh tế thị trường và trong thời kỳ xây dựng Nhà nước pháp
quyền.
- Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp, so sánh, dẫn chiếu để
luận giải, chứng minh cho các nhận xét, đánh giá và các phương pháp khác.
5. Điểm mới về mặt khoa học.



8
Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự
gắn liền với hoạt động tố tụng hình sự ngay từ khi nó được luật hoá, vì thế đã
có nhiều công trình nghiên cứu với nhiều hướng nghiên cứu khác nhau. Tuy
nhiên, nguyên tắc này chúng tôi nghiên cứu trong giai đoạn sắp sửa đổi Bộ
Luật Tố tụng hình sự năm 2003 và định hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền (mà Pháp chế được coi là cơ bản và quan trọng nhất đối với Nhà nước
pháp quyền). Theo lộ trình cải cách Tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết 49
của Bộ chính trị đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình theo phương châm tuân thủ và chịu trách nhiệm
trước pháp luật trên cơ sở thẩm quyền của từng cơ quan. Như vậy, điểm mới
của đề tài thể hiện ở chỗ: Trong giai đoạn tới pháp chế sẽ không ngừng được
bảo đảm và hoàn thiện bằng cơ chế ràng buộc do pháp luật quy định một cách
rõ ràng, làm cơ sở để nguyên tắc bảo đảm pháp chế được thực hiện trong thực
tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự.
6. Bố cục của luận văn.
Luận văn được chia thành 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của nguyên tắc bảo đảm pháp
chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự.
Chương 2: Nội dung nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong tố tụng hình sự.
Chương 3: Hoàn thiện nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong tố tụng hình sự.













9






CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.
1.1.1. Nguyên tắc cơ bản và vị trí của nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong tố tụng hình sự.
Trong tố tụng hình sự nói riêng và các ngành luật khác nói chung đều
được điều chỉnh bởi các nguyên tắc cơ bản, đặc thù. Tuy nhiên, cho đến hiện
nay, vẫn chưa có một khái niệm chung về nguyên tắc cơ bản. Vì vậy, tuỳ
thuộc cách hiểu của các nhà nghiên cứu, các luật gia, các nhà áp dụng pháp
luật chứ nguyên tắc cơ bản không hề được pháp điển hoá trong văn bản pháp
luật.
Nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự là những phương châm, định
hướng chi phối tất cả hoặc một số hoạt động tố tụng hình sự được các văn bản
pháp luật quy định. Như vậy, xét về chi tiết vấn đề thì nguyên tắc cơ bản của

tố tụng hình sự bao gồm các yếu tố: Thứ nhất, các nguyên tắc gọi là cơ bản
khi có tính chất điều chỉnh vĩ mô thể hiện ở phương châm, định hướng, tư
tưởng chung của ngành luật tố tụng hình sự; Thứ hai, các nguyên tắc cơ bản
chi phối tất cả hoặc chỉ điều chỉnh một giai đoạn hoặc một số hoạt động nhất
định của tố tụng hình sự mà không phải toàn bộ quá trình tố tụng hình sự;
Thứ ba, một yếu tố pháp lý không thể thiếu cho sự tồn tại của các nguyên tắc
cơ bản là nó phải được ghi nhận trong các văn bản pháp luật mà cụ thể là Bộ
luật tố tụng hình sự 2003.
Thông qua một khái niệm ngắn gọn đã chỉ ra được bản chất pháp lý của
nguyên tắc. Đứng về góc độ luật thực định khái niệm này tương đối phù hợp


10
so với các quan điểm pháp lý khác. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, cách hiểu
này không hợp lý về mặt lý luận cho dù nó đúng ở thực tiễn nên vẫn không
được chấp nhận hoàn toàn. Đã gọi là nguyên tắc cơ bản thì không thể nào có
giá trị điều chỉnh chi phối “một số” hoạt động tố tụng hình sự mà phải là toàn
bộ quá trình tố tụng. Điều này mới bảo đảm tính khái quát, tính điều chỉnh
cao nhất của nguyên tắc cơ bản. Tuy nhiên, các khái niệm đưa ra chỉ mang
tính chất tham khảo vì nó phải được rút ra từ thực tiễn quy định của pháp luật.
Rõ ràng trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003, các nguyên tắc cơ bản được điều
chỉnh tại chương 2 đã bao gồm cả nguyên tắc điều chỉnh chung và cả những
nguyên tắc chỉ điều chỉnh một số giai đoạn tố tụng hình sự cụ thể như nguyên
tắc xét xử có Hội thẩm Nhân dân, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật… Hơn nữa, trong Bộ luật tố tụng hình sự
2003 quy định tới 30 nguyên tắc cơ bản. Quy định này là không cần thiết vì
nó không thể hiện được tính khái quát, cô đúc và ngắn gọn trong các văn bản
pháp luật. Nhiều nguyên tắc đã được quy định trong Hiến pháp và văn bản
pháp luật khác, nhiều nguyên tắc trùng lặp nhau dẫn đến sự dài dòng của văn
bản. Ví dụ như nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước

pháp luật. Nguyên tắc này đã được thể chế hoá trong Hiến pháp, Bộ luật tố
tụng hình sự 2003 quy định như vậy làm giảm tính hiệu lực và tầm thường
hoá các quy phạm Hiến pháp.
Những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là tư tưởng chủ đạo
xuyên suốt mọi hoạt động tố tụng hình sự. Vì thế, các nguyên tắc cơ bản
không những định hướng cho hoạt động tố tụng hình sự mà định hướng cho
cả việc xây dựng pháp luật. Trên phương diện những giá trị hiện thực đạt
được, các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự đảm bảo quá trình tố
tụng được tiến hành thống nhất với phương châm bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của công dân tham gia tố tụng cũng như nâng cao vai trò, trách nhiệm của các
cơ quan Nhà nước trong đấu tranh phòng và chống tội phạm. Việc tác động
đến thực tiễn có ảnh hưởng lớn đến sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản


11
pháp luật nên các nguyên tắc cơ bản mang cả ý nghĩa pháp lý khi mọi hoạt
động xây dựng pháp luật đều phải dựa trên các nguyên tắc này.
Tố tụng hình sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt
Nam nên chịu sự điều chỉnh bởi các nguyên tắc chung của pháp luật như
nguyên tắc: bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật…Đồng thời, vì là một ngành luật đặc thù nên nó còn bị chi
phối bởi các nguyên tắc riêng như nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (Điều 11- Bộ luật tố tụng hình sự). Cũng có
nhiều cách phân chia nguyên tắc cơ bản theo các nhóm khác nhau để thuận
tiện cho nghiên cứu và áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Nguyên tắc bảo
đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự được nghiên cứu dưới
góc độ vừa cơ bản, vừa đặc thù so với các ngành luật khác.
Nguyên tắc bảo đảm pháp chế trong tố tụng hình sự được quy định tại
Điều 3- Bộ luật tố tụng hình sự 2003- Điều đầu tiên của Chương 3 cũng là
hợp lý. Đây là nguyên tắc bao trùm nhất thể hiện trong tất cả các giai đoạn tố

tụng hình sự, là cơ sở của các nguyên tắc khác vì suy cho cùng việc tôn trọng
và bảo vệ pháp luật là mục đích cao nhất của hiệu quả điều chỉnh pháp luật và
cũng là điều chúng ta đang hướng tới trong việc xây dựng Nhà nước Pháp
quyền và xã hội công dân.
1.1.2. Bảo đảm pháp chế là nhiệm vụ của hoạt động tố tụng hình sự.
Tố tụng hình sự là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án nhằm xác định rõ
hành vi phạm tội và người phạm tội bằng trình tự, thủ tục luật định.
Mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau thì tố tụng hình sự cũng khác nhau từ cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đến các bước tiến hành tố
tụng. Đối với tố tụng hình sự phong kiến, không có sự phân chia các giai
đoạn tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng mà trình tự, thủ tục giải quyết vụ
án do một người có thẩm quyền hành chính xét xử, quyền xét xử tối cao nhất
thuộc về nhà vua. Vì thế, trong các triều đại phong kiến oan ức xảy ra nhiều


12
do lối hành xử chủ quan, duy ý chí của một người. Hơn thế, trong quá trình
giải quyết vụ án không có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ nên vi phạm tố tụng
phổ biến mà ngay bản thân các quan toà cũng không thể nhận thức được. Một
vị quan nắm giữ trong tay cả quyền hành pháp và tư pháp thì không thể vô tư
và khách quan khi xét xử. Tuy nhiên, luật tố tụng cũng được pháp điển hóa,
thành văn trong thời nhà Lê, Nguyễn nhằm nâng cao và quy kết trách nhiệm
của các quan tòa cũng như cơ sở để nhà vua xem các quan có hoàn thành
chức trách, nhiệm vụ của mình không (Quốc triều khám tụng điều lệ).
Trong luật tố tụng hình sự hiện đại, vụ án được giải quyết trên cơ sở
luật định về thẩm quyền, chức năng của từng cơ quan. Vì vậy, tố tụng hình sự
có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, tố tụng hình sự là trình tự giải quyết vụ án từ khi khởi tố cho
đến khi kết thúc thi hành án bằng việc chứng minh hành vi phạm tội của bị

can, bị cáo qua các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Như vậy,
tố tụng hình sự là hoạt động mang tính chất Nhà nước nhằm kết luận một
người có tội hay không có tội trên cơ sở thu thập, đánh giá các chứng cứ một
cách hợp pháp của cơ quan tiến hành tố tụng qua các giai đoạn tố tụng cụ thể
theo quy định của pháp luật và giai đoạn trước là tiền đề cho giai đoạn sau.
Chỉ cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền với chức năng riêng biệt mới
được tiến hành hoạt động tố tụng hình sự, mỗi hoạt động tố tụng hình sự đều
được kiểm tra, giám sát để đảm bảo tính chính xác và đúng đắn. Qua đây,
chúng ta cũng thấy được điểm khác của tố tụng hình sự so với tố tụng dân sự
và tố tụng hành chính. Mặc dù tố tụng dân sự và tố tụng hành chính cũng
được tiến hành theo những trình tự, thủ tục nhất định nhưng vai trò của các cơ
quan tiến hành tố tụng rất khác nhau. Trong hai lĩnh vực này không có sự
tham gia của Cơ quan điều tra mà vai trò chủ yếu là Tòa án. Viện kiểm sát
cũng đóng vai trò giám sát việc tuân theo pháp luật trong toàn bộ hoạt động tố
tụng nhưng không trực tiếp kiểm sát điều tra như trong tố tụng hình sự mà chỉ


13
trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ và tham gia phiên toà khi đương sự khiếu nại về
việc Toà án điều tra không khách quan.
Thứ hai, hoạt động tố tụng hình sự tuân theo những nguyên tắc chung
và những quy phạm pháp luật cụ thể theo Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự
2003 và một số văn bản pháp luật có liên quan khác. Đặc điểm pháp lý này
cho phép khẳng định rằng tố tụng hình sự là hoạt động tuân thủ pháp luật về
việc tìm ra các tình tiết, chứng cứ, sự kiện của vụ án phù hợp với yêu cầu, đòi
hỏi của các văn bản pháp luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban
hành. Các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án phải
chứng minh bằng những chứng cứ khách quan, toàn diện và hợp pháp. Mọi
sự nghi ngờ hay suy đoán đều không được chấp nhận nếu nó không có cơ sở
thực tế và pháp lý rõ ràng. Điều này cũng không cho phép các cơ quan có thể

chủ quan với ý chí của mình khi khẳng định mọi lời khai của bị can, bị cáo
đều sai còn nhận định của mình mới là đúng. Có nghĩa là nếu tố tụng hình sự
trái với quy định của pháp luật thì vô giá trị và bất hợp pháp, không thể hiện
được vai trò của nó.
Thứ ba, mục đích của hoạt động tố tụng hình sự là nhằm bảo đảm tính
công minh của pháp luật, xử lý nghiêm kẻ phạm tội, không làm oan người vô
tội, góp phần đấu tranh phòng và chống tội phạm hiệu quả, trên cơ sở đó giáo
dục công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Trong xã hội còn tồn tại tội
phạm thì việc xây dựng Nhà nước luôn gặp phải những khó khăn và thách
thức. Chúng ta vẫn thừa nhận không thể loại bỏ hẳn tội phạm trong cuộc sống
vì tội phạm vẫn còn điều kiện để phát sinh. Hơn nữa, sự nhận thức của con
người là có hạn nên mặc dù tội phạm đã xảy ra nhưng không thể truy tìm
được hung thủ nên chúng ta chỉ giải quyết được khoảng 50% số lượng tội
phạm thực tế. Vì thế, sự cẩn trọng trong tố tụng hình sự luôn phải đặt lên
hàng đầu vừa bảo đảm lợi ích của Nhà nước nhưng cũng không để người dân
chịu oan ức. Cái khó của hoạt động tố tụng hình sự chính là ở chỗ bảo đảm
hài hoà mọi lợi ích xã hội, kích thích quần chúng nhân dân cùng Nhà nước


14
nâng cao ý thức đấu tranh phòng và chống tội phạm. Đạt được mục đích trên
có nghĩa là tố tụng hình sự đã hoàn thành được nhiệm vụ bảo vệ Nhà nước,
bảo vệ chế độ và quyền làm chủ của nhân dân mà pháp luật không ngừng
hướng tới.
Qua các phân tích trên đây cho thấy ngành luật tố tụng hình sự và các
ngành luật khác đều bảo vệ chế độ nhà nước xã hội chủ nghĩa đã sinh ra nó.
Xã hội chỉ có thể phát triển lành mạnh khi tội phạm được loại trừ và cuộc
sống người dân được bảo đảm. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước Việt
Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân. Quyền lực nhà nước được thi hành trong thực tế nhờ sức mạnh

của pháp luật. Một mặt, pháp luật giúp Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý
mọi mặt của đời sống xã hội, mặt khác nó loại bỏ các yếu tố mâu thuẫn, cản
trở bằng sức mạnh cưỡng chế của pháp luật. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa
vẫn tồn tại tội phạm. Thậm chí, có loại tội phạm xâm hại đến chế độ chính trị,
đe doạ sự tồn tại của chính quyền nhân dân. Vì thế, trên cơ sở pháp luật do
Nhà nước ban hành, các cơ quan tiến hành tố tụng có nhiệm vụ tìm ra gốc rễ
của tội phạm, loại bỏ chúng triệt để trong cuộc sống để bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Đồng thời, hoạt động tố tụng hình sự còn góp phần tích cực và
quan trọng nhất cho công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm, giáo dục
công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của Nhà nước.
Những đặc điểm và nhiệm vụ của hoạt động tố tụng hình sự đã cho
thấy bản chất thực sự của vấn đề là nâng cao và khẳng định giá trị và sức
mạnh của pháp luật. Pháp luật là thước đo chuẩn mực đánh giá việc bảo đảm
pháp chế của cơ quan tiến hành tố tụng đúng và nghiêm chỉnh. Vì vậy, bảo
đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự còn xuất phát từ ngay
chính nhiệm vụ bảo vệ chế độ nhà nước, bảo vệ công dân của hoạt động tố
tụng hình sự.
1.1.3. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự


15
Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, pháp chế đóng vai trò rất quan trọng
để bảo vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp
luật đối với các quan hệ xã hội phát triển ngày càng đa dạng, phức tạp. Vì
vậy, mục đích cao nhất của pháp chế một mặt phản ánh bản chất xã hội của
pháp luật, mặt khác làm cho các quan hệ xã hội đi vào khuôn khổ với sự quản
lý chặt chẽ của nhà nước nhưng cũng không ngừng nâng cao quyền tự do, dân
chủ của công dân.
Pháp chế được hiểu là sự đòi hỏi các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà

nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân phải thực hiện đúng và nghiêm
chỉnh pháp luật trong hoạt động của mình.
Nội hàm của khái niệm pháp chế đã rõ ràng. Pháp chế là nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước và các tổ
chức xã hội. Có nghĩa là hoạt động của các cơ quan này phải trên cơ sở của
pháp luật, không lạm dụng và vi phạm pháp luật. Trái với điều này thì chính
chủ thể thực thi pháp luật lại xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật
bảo vệ. Pháp chế cũng đòi hỏi xử sự của công dân phải theo yêu cầu của pháp
luật nếu không họ sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Làm được điều này
cũng là khẳng định quyền tự do trong khuôn khổ pháp luật của mọi công dân.
Trong giai đoạn hợp tác và hội nhập, pháp luật càng có vai trò quan trọng hơn
bao giờ hết. Nó là cơ sở pháp lý để bảo vệ tổ chức và con người trong quan
hệ với cộng đồng quốc tế. Cho nên, để thực hiện thắng lợi chủ trương xây
dựng Nhà nước pháp quyền trong thời kỳ quan hệ quốc tế có nhiều biến động
thì yêu cầu tăng cường pháp chế càng được quan tâm hơn vì chính nó thể hiện
sức mạnh điều chỉnh của pháp luật và để nhà nước giữ vững lập trường, quan
điểm trên trường quốc tế.
Hoạt động tố tụng hình sự là hoạt động mang tính chất nhà nước, được
tiến hành bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên bảo đảm pháp chế là
tôn chỉ, mục đích cao nhất của tố tụng hình sự. Tố tụng hình sự là hoạt động
hình thức nhằm đưa ra các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền


16
trên cơ sở luật hình sự (luật nội dung) để chứng minh tội phạm và người thực
hiện hành vi phạm tội. Đây là hoạt động vô cùng quan trọng vì nó là cơ sở để
Nhà nước áp dụng hay không áp dụng biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm
khắc nhất là hình phạt.
Vì sao cần phải đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình
sự?. Điều này có thể được lý giải như sau:

Thứ nhất, cơ quan tiến hành tố tụng hình sự là các cơ quan nhà nước
nên hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan này phải tuân thủ các quy định của
pháp luật chung và pháp luật tố tụng hình sự riêng. Theo quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Toà án với lần lượt giữ các chức năng điều tra, truy tố và xét xử. Vì
thế, hoạt động của các cơ quan này theo quy định của tố tụng để thực hiện tốt
chức năng đó.
Thứ hai, đối tượng tác động của hoạt động tố tụng hình sự chính là con
người bị nghi đã thực hiện một tội phạm. Bảo đảm pháp chế chính là nhằm
bảo về quyền lợi cho Nhà nước, cá nhân bị tội phạm xâm hại đến và ngay
chính cả người bị nghi đã thực hiện tôi phạm. Khi chưa có bản án kết tội có
hiệu lực pháp luật của Toà án thì không ai bị coi là có tội cho nên người bị
nghi đã thực hiện tội phạm vẫn được đảm bảo các quyền lợi của mình theo
các quy chế pháp lý chung của thế giới về quyền con người. Bảo đảm pháp
chế trong quá trình tố tụng không những bảo đảm việc chứng minh tội phạm
khách quan, toàn diện mà còn góp phần nhanh chóng tìm ra sự thật của vụ án.
Sẽ là công bằng khi có đủ cơ sở chứng minh một người có tội và áp dụng các
biên pháp cưỡng chế tương xứng với hành vi mà họ đã gây ra cho xã hội. Đó
là hậu quả pháp lý khó tránh khỏi khi đã xâm hại đến các quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ. Đồng thời với việc chứng minh tội phạm, quyền lợi của
cá nhân người bị hại, của các cơ quan tổ chức bị hành vi phạm tội xâm hại
đến mới được bảo vệ. Như vậy, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố
tụng hình sự bảo đảm cho hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng đúng


17
hướng, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội trên cơ sở bảo vệ các
quyền lợi theo luật định đối với bị can, bị cáo, người bị hại và những người
tham gia tố tụng khác.
Thứ ba, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự chính

là bảo đảm hiệu quả thực tế của các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành.
Một văn bản pháp luật của Nhà nước được ban hành có giá trị trên thực tế khi
được tuân thủ tuyệt đối trong quá trình áp dụng pháp luật và phù hợp với điều
kiện kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa của quốc gia. Nếu văn bản pháp luật
được áp dụng không đúng làm mất đi giá trị điều chỉnh của nó, đồng thời các
cơ quan tiến hành tố tụng không hoàn thành công việc và đã trực tiếp vi phạm
pháp luật. Trong thực tiễn, không ít các trường hợp quy phạm pháp luật bị áp
dụng sai một cách cố ý hoặc vô ý gây hậu quả nặng nề đối với các hoạt động
tư pháp của Nhà nước.
Từ những phân tích trên đây cho thấy tầm quan trọng của việc bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự. Trong xã hội càng đề cao vai
trò của pháp luật và quyền tự do, dân chủ của con người thì mọi hoạt động
của Nhà nước đều lấy con người làm lợi ích hàng đầu. Sự trừng phạt không
phải vi phạm quyền con người mà nhằm làm cho những giá trị của con người
được đề cao. Mỗi hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan tiến
hành tố tụng nói riêng đều góp phần xây dựng một xã hội phồn thịnh, con
người được sống trong môi trường thuận lợi để phát huy sáng tạo phục vụ cho
công cuộc đổi mới đất nước. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố
tụng hình sự nhằm loại bỏ những hành vi sai lệch của con người để hướng họ
tới cái tốt đẹp với những hành động đóng góp tích cực vì sự phát triển chung
của nhân loại.
Về nguyên tắc, pháp luật chỉ có hiệu quả khi nó phù hợp với đời sống
xã hội và được xã hội tôn trọng, chấp nhận. Với bản chất dân chủ và tiến bộ,
pháp luật của các nước tư sản và các nước xã hội chủ nghĩa cơ bản có nhiều
nét tương đồng cho nên vấn đề bảo đảm pháp chế cũng được đặt ra. Trong


18
một thời gian dài với những thăng trầm, biến động, chủ nghĩa tư bản vẫn đang
thắng thế trên trường quốc tế bởi chính sách thích nghi khôn khéo của nó.

Tuy nhiên, đâu đó vẫn thấp thoáng dấu hiệu pháp luật của kẻ mạnh, kẻ có tiền
nên không tránh khỏi sự bảo đảm pháp chế mang tính chất hình thức. Cho
nên, mặc dù sống tại các nước phát triển trên thế giới nhưng không phải tất cả
người dân được đối xử bình đẳng mới dẫn đến tệ phân biệt chủng tộc, phát
xít, côn đồ…Điều này tất yếu dẫn đến quá trình tố tụng hình sự và xử lý tội
phạm không triệt để, nghiêm minh, bất bình đẳng giữa các thành phần xã hội.
Thực tế, đã có những cuộc đấu tranh pháp lý dai dẳng đòi bình đẳng của
người da màu trước sự vi phạm pháp luật trắng trợn của người da trắng không
bị xử lý. Điều đó cũng nói lên một bản chất vốn có không hề thay đổi cho dù
được che đậy kỹ của chủ nghĩa tự bản là một nền pháp chế không dành cho
tất cả mọi người.
Trái lại, trong chế độ các nước xã hội chủ nghĩa, sự phân biệt đối xử
không tồn tại mà chỉ có một tôn chỉ duy nhất “Sống và làm việc theo Hiến
pháp và Pháp luật”. Khi đã có hành vi trái pháp luật thì bất kể anh là ai cũng
phải chịu sự trừng phạt bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Trong lĩnh
vực tố tụng hình sự lại càng quan trọng và cần thiết. Sự bảo đảm pháp chế
không những được thể hiện ở hoạt động chấp hành pháp luật tố tụng một cách
triệt để của các cơ quan tiến hành tố tụng mà còn bảo vệ giá trị quyền tự do,
dân chủ của con người dù là tội phạm hay bị tội phạm xâm hại đến. Đặc trưng
bản chất của bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự cho
phép khẳng định một lần nữa tính ổn định và bền vững trong quá trình xây
dựng, phát triển nhà nước xã hội và công dân.

1.2. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hoạt động tố tụng hình sự được tiến hành bởi các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tố tụng nên hoạt động của các cơ quan này cũng phải tuân thủ


19

nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Hơn
nữa, nhịêm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng là bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa nên việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự
là điều cần thiết. Đặc biệt, trong xu hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền
hiện nay, sự đòi hỏi tuân thủ pháp luật một cách tuyệt đối đối với mọi chủ thể
là yêu cầu không thể thiếu để đảm bảo các nguyên tắc tốt đẹp của nhân loại
được thực thi trong cuộc sống. Pháp luật tố tụng hình sự điều chỉnh quá trình
tố tụng nhằm tìm ra các chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội của bị can,
bị cáo. Tuy nhiên, các biện pháp tiến hành điều tra, xét hỏi phải trên cơ sở của
pháp luật mới bảo đảm tính tối thượng của pháp luật và bảo vệ nhân quyền.
Nguyên tắn bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự
được ghi nhận trên cơ sở tổ chức, hoạt động của cơ quan nhà nước cũng như
các nguyên tắc của pháp luật. Sự tồn tại của nguyên tắc này trên thực tế là
nhờ có sự ghi nhận của các văn bản pháp luật, đại diện cho quyền lực nhà
nước, cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Là một trong những nguyên
tắc cơ bản và quan trọng nhất, nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong tố tụng hình sự cũng được thừa nhận có cơ sở pháp lý rõ ràng- một yếu
tố không thể thiếu bảo đảm tính hiệu lực và cưỡng chế trong áp dụng luật tố
tụng đối với các vụ án cụ thể.
1.2.1. Hiến pháp 1992 (được sửa đổi bổ sung năm 2002)
Đối với đại đa số các nước trên thế giới cho dù có chế độ chính trị, hình
thức nhà nước khác nhau nhưng đều thừa nhận Hiến pháp là đạo luật gốc, cơ
bản của nhà nước và có giá trị điều chính cao nhất và rộng nhất đối với mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội và nhà nước. Vì thế, Hiến pháp là văn bản mẫu
mực do cơ quan quyền lực nhà nước ban hành để điều chỉnh mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội mà mỗi lĩnh vực đó lại được cụ thể hoá trong những đạo luật
chuyên ngành như luật hình sự, luật dân sự, luật tố tụng hình sự…Không có
lý do gì mà các văn bản dưới luật lại không phù hợp và thể hiên tinh thần của
Hiến pháp. Hiến pháp là nguồn và cơ sở pháp lý của tất cả các đạo luật khác.



20
Việt Nam là Nhà nước xã hội chủ nghĩa với thể chế cộng hoà, văn bản
pháp quy là nguồn duy nhất của các ngành luật (không thừa nhận án lệ và tập
quán pháp). Đặc trưng cơ bản của pháp luật Việt Nam là tính chất hợp hiến
của các đạo luật và các văn bản dưới luật khác. Sự vi hiến là không thể chấp
nhận được và phải bị loại trừ ngay vì nó đi ngược lại tinh thần và tôn chỉ của
Hiến pháp. Hiến pháp có một vị trí đặc biệt trong hệ thống pháp luật Việt
Nam. Các chế định, các quy phạm pháp luật Hiến pháp là cơ sở pháp lý cho
việc xây dựng mới, sửa đổi hoặc huỷ bỏ các chế định, quy phạm của các
ngành luật khác. Vì thế, Hiến pháp là văn bản pháp lý có giá trị cao nhất. Các
quy định của Hiến pháp là nguồn, căn cứ cho tất cả các ngành luật khác. Các
luật không được mâu thuẫn với Hiến pháp mà phải hoàn toàn phù hợp, nếu
mâu thuẫn thì chỉ quy phạm Hiến pháp mới có hiệu lực.
Tố tụng hình sự là hoạt động được điều chỉnh bởi ngành luật tố tụng
hình sự. Những nguyên tắc của Hiến pháp và quy phạm của Hiến pháp về
lĩnh vực có liên quan làm cơ sở ban hành luật tố tụng hình sự. Theo điều 12
Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2002) quy định “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Như vậy, không
riêng gì trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà trong tất cả các ngành các cấp đều
đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước phải được tiến
hành đúng pháp luật; mọi cán bộ, nhân viên nhà nước phải nghiêm chỉnh
tuyệt đối chấp hành pháp luật khi thay mặt nhà nước thực hiện quyền lực
nhân dân. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa chính là bảo đảm hoạt động
bình thường, đúng đắn của các chủ thể. Cho nên, việc kiểm tra, giám sát
thường xuyên hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như xử lý triệt để
các vi phạm pháp luật cũng chính là cơ sở để tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Đây là công việc thường xuyên, liên tục và lâu dài, là phương hướng
hành động của tất cả các cơ quan nhà nước. Pháp chế không bảo đảm thì
không thể tồn tại pháp quyền.



21
Trên tinh thần quy định chung của Hiến pháp, nguyên tắc bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự một mặt kế thừa sự phù hợp,
mặt khác mang cả những tính chất đặc trưng của ngành. Tố tụng hình sự là
một lĩnh vực hoạt động của Nhà nước trong rất nhiều các hoạt động quyền
lực nhà nước. Các cơ quan tiến hành tố tụng là các cơ quan nhà nước, người
tiến hành tố tụng là các nhân viên nhà nước cho nên việc bảo đảm hoạt động
tố tụng hình sự đi đúng hướng, phù hợp với lợi ích chính đáng của Nhà nước,
nguyện vọng của nhân dân thì trước hết các cơ quan áp dụng pháp luật này
phải thực thi đúng pháp luật. Hơn nữa, tố tụng hình sự là hoạt động tư pháp
đặc thù chứ không như các quan hệ dân sự, hành chính hay kinh tế nên một
sai sót dù nhỏ cũng làm lệch lạc những giá trị mà Nhà nước đang hướng tới.
Tố tụng hình sự liên quan đến nhân quyền, đến sự tồn tại vững mạnh của Nhà
nước nên bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự lại càng
quan trọng.
Tóm lại, nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng
hình sự bắt nguồn từ quy định của Hiến pháp. Các quy định của Hiến pháp
luôn là cơ sở để các ngành luật khác thể hiện tính đặc thù song luôn phù hợp
với bản chất và tinh thần của Hiến pháp, tố tụng hình sự là lĩnh vực không
ngoại lệ. Việc thể chế hoá các quy định của Hiến pháp trong tố tụng hình sự
đảm bảo tính toàn diện và phù hợp với các văn bản dưới Hiến pháp.
1.2.2. Bộ luật tố tụng hình sự 2003
Pháp luật có mối liên hệ mật thiết với kinh tế, điều kiện chính trị, lịch
sử của Nhà nước trong những giai đoạn nhất định. Trước khi giành được độc
lập từ tay thực dân Pháp năm 1945, nước ta trải qua hơn một nghìn năm dưới
chế độ phong kiến. Tuy rằng chưa có văn bản pháp luật thành văn thật hoàn
chỉnh nhưng luật tố tụng hình sự đã xuất hiện làm phương tiện để các thế lực
phong kiến thực hiện sự đàn áp dã man đối với nông dân và các tầng lớp khác

trong xã hội, bảo vệ quyền lợi và thế lực cho giai cấp mình. Trong thời kỳ
này, Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long được coi là mẫu mực trong hệ


22
thống pháp luật phong kiến khi có những quy định khá cụ thể và chi tiết về
trình tự, thủ tục tố tụng hình sự. Mặc dù hai bộ luật trên không tránh khỏi bản
chất giai cấp bóc lột sâu sắc nhưng phần nào đó cũng bảo vệ quyền lợi chính
đáng của người dân.
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công đánh dấu sự hình thành và
phát triển của Luật tố tụng hình sự hiện đại. Với trình độ lập pháp còn hạn
chế cũng như việc tiếp tục phải chống thù trong giặc ngoài nên pháp điển hóa
khó khăn và chúng ta chưa có một Bộ luật tố tụng hình sự độc lập. Các quy
định về cách thức, thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng rời rạc tại nhiều văn
bản pháp lý khác nhau dưới dạng chỉ thị, sắc lệnh, các luật của ngành đơn
thuần như Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Luật tổ chức Tòa án nhân
dân năm 1960… Thắng lợi của chiến dịch mùa xuân 1975 đã đưa đất nước ra
khỏi chiến tranh, thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Việc xóa bỏ cơ chế kinh tế
tập trung, quan liêu bao cấp, từng bước xây dựng nền kinh tế thị trường là
tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển của nhiều ngành luật, trong đó
có Luật Tố tụng hình sự.
Ngày 28 tháng 06 năm 1988, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật tố tụng hình sự. Đây là Bộ luật tố tụng
hình sự đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, quy định trình tự, thủ
tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự nhằm đảm bảo quá
trình tố tụng hình sự được áp dụng thống nhất trong phạm vi cả nước. Bộ luật
tố tụng hình sự 1988 đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân và củng cố nền kinh tế thị trường non trẻ. Bộ luật tố
tụng hình sự 1988 gồm 286 điều và những nguyên tắc cơ bản được quy định
tại chương I. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng

hình sự quy định: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được tiến hành theo
quy định của Bộ luật này”. Như vậy, nguyên tắc này đã được ghi nhận chính
thức, tạo ra cơ sở pháp lý để hoạt động tố tụng đúng quy trình của pháp luật.


23
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự xuất hiện những quan hệ xã
hội mới, trong quá trình thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự 1988 còn tồn tại
nhiều hạn chế bất cập nên đã được sửa đổi, bổ sung 3 lần tạo ra cơ chế hợp lý
để các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết các vụ án hình sự một cách
nghiêm minh, đúng pháp luật. Xu hướng hội nhập và những bất cập trong
hoạt động tư pháp dẫn đến sự không phù hợp của Bộ luật tố tụng hình sự
1988 với thực tiễn. Với việc ban hành Nghị quyết 08 Bộ chính trị ngày 02
tháng 01 năm 2002, nhiệm vụ trọng tâm của công tác cải cách tư pháp đã thay
đổi trong các cơ quan tiến hành tố tụng làm tiền đề cho sự ra đời Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định thêm mới
nhiều quy phạm, kỹ thuật lập pháp có bước thay đổi rõ rệt gồm 436 điều luật
theo hướng đề cao trách nhiệm, xác định chức năng, nhiệm vụ của cơ quan
tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng rõ ràng đồng thời nâng cao quyền
dân chủ của nhân dân. Các nguyên tắc cơ bản được điều chỉnh tại một chương
riêng và được bổ sung nhiều nguyên tắc mới như nguyên tắc giải quyết vấn
đề dân sự trong vụ án hình sự; nguyên tắc giám sát của cơ quan, tổ chức, đại
biểu dân cử đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng
Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa được quy định cụ thể
và rõ ràng hơn so với Bộ luật tố tụng hình sự 1989. Điều 3-Bộ luật tố tụng
hình sự 2003 quy định: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải được tiến
hành theo quy định của Bộ luật này”. Sự ghi nhận nguyên tắc này trong Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 là cơ sở pháp lý trực tiếp để áp dụng trong thực

tiễn. Theo đó, yêu cầu hoạt động của mọi chủ thể phải tuân theo quy định của
Bộ luật, lấy đó là kim chỉ nam cho các quyết định, hành vi tố tụng, phương
hướng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Nguyên tắc này được quy
định chi tiết nhằm đảm bảo được mục đích của nguyên tắc, tạo ra cơ sở pháp
lý để ban hành các quyết định cũng như xã hội thực hiện cơ chế giám sát đối


24
với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, toàn bộ quá trình tố
tụng được điều chỉnh ở các chương còn lại của Bộ luật nhưng luôn lấy yếu tố
bảo đảm pháp chế là phương hướng hành động của mình.
Tóm lại, kể từ khi ra đời, pháp chế luôn được bảo đảm với những mức
độ khác nhau (kể cả trong thời kỳ phong kiến) để duy trì trật tự và sự ổn định
của các quan hệ xã hội. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
tố tụng hình sự được ghi nhận lần đầu tiên tại Bộ luật tố tụng hình sự 1988
tuy còn sơ sài và khá chung chung nhưng cơ bản thể hiện được tinh thần của
pháp luật. Với trình độ lập pháp ngày càng nâng cao mà nguyên tắc này được
luật hóa chi tiết. Quy định này cũng nhằm quy kết trách nhiệm cho các chủ
thể thực hiện không đúng quy định của pháp luật từ đó có cơ chế xử lý một
cách thích đáng. Bộ luật tố tụng hình sự 2003 ghi nhận triệt để và sâu sắc,
làm nền tảng tồn tại của nguyên tắc giữ vai trò là phương hướng của mọi hoạt
động tố tụng hình sự. Với bản chất pháp luật luôn lấy văn bản pháp luật là
nguồn trực tiếp và duy nhất, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về
nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự đã làm
cho các giá trị của nó được phát huy trong thực tiễn, góp phần thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ đề ra: “Bộ luật tố tụng hình sự góp phần bảo chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa đồng thời giáo dục mọi
người ý thức tuân thủ pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”.
(1)


1.2.3. Các văn bản pháp luật khác
Như chúng ta đã biết, Điều 12 Hiến pháp 1992 là cơ sở để ban hành
quy định về nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình
sự còn Bộ luật tố tụng hình sự 2003 là căn cứ trực tiếp nhất ghi nhận sự tồn
tại của nguyên tắc, làm phương châm, định hướng cho toàn bộ hoạt động tố
tụng. Trong một số văn bản pháp lý khác cũng ghi nhận sự hiện diện của
nguyên tắc này.

×