Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng trong luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 100 trang )






ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN VĂN MINH




TỘI CỐ Ý LÀM TRÁI QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC
VỀ QUẢN LÝ KINH TẾ GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM
TRỌNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40



TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



HÀ NỘI - 2007
Công trình được hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội





Người hướng dẫn khoa học: TSKH.PGS Lê Cảm




Phản biện 1:


Phản biện 2:



Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2007.




Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm tư liệu - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội


MỤC LỤC




Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


mở đầu
1

Chương 1: sự hình thành và phát triển của các quy phạm về tội cố ý làm
trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế trong luật hình
sự việt nam
5
1.1.
Sự hình thành và phát triển của các quy phạm về tội cố ý làm
trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế trước pháp điển
hóa lần thứ nhất năm 1985
5
1.1.1.
Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1954
5
1.1.2.
Thời kỳ từ 1954 đến năm 1975
7
1.1.3.

Thời kỳ từ năm 1976 đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất
năm 1985
14
1.2.
Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế
trong Bộ luật hình sự đầu tiên của đất nước đã thống nhất năm
1985
16
1.3.
Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây
hậu quả nghiêm trọng trong Bộ luật hình sự năm 1999
22
1.3.1.
Phạm tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế
gây hậu quả nghiêm trọng không có các tình tiết định khung
hình phạt
23
1.3.2.
Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều
luật
24


1.3.3.
Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật
26
1.3.4.
Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội
27


Chương 2: nhận thức chung về tội cố ý làm trái quy định của nhà nước
về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng
29
2.1.
Khái niệm tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý
kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng
29
2.2.
Dấu hiệu pháp lý của tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước
về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng
31
2.2.1.
Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm
31
2.2.2.
Khách thể của tội phạm
37
2.2.3.
Dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm
54
2.2.4.
Mặt chủ quan của tội phạm
62
2.3.
Phân biệt tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý
kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng với một số tội phạm khác
63
2.3.1.
Phân biệt giữa tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về
quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165 Bộ luật

hình sự năm 1999) với tội tham ô tài sản (Điều 278 Bộ luật
hình sự năm 1999)
64
2.3.2.
Phân biệt giữa tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về
quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165 Bộ luật
hình sự năm 1999) với tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142
Bộ luật hình sự năm 1999)
69
2.3.3.
Phân biệt giữa tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về
quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165 Bộ luật
hình sự năm 1999) với tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại
71


nghiêm trọng đến tài sản Nhà nước (Điều 144 Bộ luật hình sự
năm 1999)

Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật
hình sự về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản
lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng
74
3.1.
Những yêu cầu khách quan trong hướng hoàn thiện tội cố ý
làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu
quả nghiêm trọng
74
3.2.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình

sự về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh
tế gây hậu quả nghiêm trọng
81
3.2.1.
Công tác xây dựng pháp luật
81
3.2.2.
Công tác thực thi và áp dụng pháp luật
85

kết luận
88

danh mục tài liệu tham khảo
89



1
MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta tổ chức và thực hiện, đã thu được
những thắng lợi rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội Khủng hoảng kinh tế từng bước được đẩy lùi thay vào đó là sự phát
triển ổn định về mọi mặt. Bộ máy nhà nước ngày càng được hoàn thiện theo
hướng nâng cao chất lượng, hiệu lực quản lý nhà nước đối với toàn xã hội. Đời
sống cán bộ công nhân, viên chức nhà nước và nhân dân lao động từng bước
được cải thiện.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, những thành tựu đạt được trong sự

nghiệp đổi mới, chúng ta còn không ít những khó khăn, tiêu cực trong xã hội.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, tình hình kinh tế xã hội nước ta có những bước phát triển mạnh
mẽ. Bên cạnh những mặt tích cực, năng động do nền kinh tế thị trường mang
lại, thì mặt trái của cơ chế thị trường cũng tác động đến đời sống xã hội, do
đó, tình hình vi phạm pháp luật cũng trở nên đa dạng và phức tạp hơn, đặc
biệt là những tội phạm kinh tế nói chung và tội cố ý làm trái quy định của nhà
nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng.
Theo thống kê của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa
án dân nhân tối cao tội phạm kinh tế mặc dù chỉ chiếm 12% - 15% trong tổng
số tội phạm xảy ra trên toàn quốc nhưng thiệt hại về kinh tế chiếm đa số trong
tổng số thiệt hại về tài chính do tội phạm gây ra [57, tr. 131]. Tội phạm kinh
tế, nhất là nhóm tội phạm tham nhũng, cố ý làm trái quy định của nhà nước về
quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng có chiều hướng gia tăng cả về số
lượng cũng như quy mô và tính chất.


2
Thực tiễn đấu tranh và phòng chống tội phạm đối các vụ án trong
quản lý kinh tế - xã hội trong những năm qua cho thấy các cơ quan tiến hành
tố tụng đã có nhiều tiến bộ tích cực nhưng do các loại tội phạm này thường có
quy mô, tính chất phức tạp, nó liên quan đến rất nhiều các ban ngành và đoàn
thể cho nên vấn đề đấu tranh, phòng chống tội phạm kinh tế luôn là vấn đề
nóng trong xã hội.
Nhiều vụ việc đã được phát hiện và xử lý kịp thời, góp phần quan
trọng vào công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm kinh tế nói chung và
tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế nói riêng. Nhưng
bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều trường hợp đã được chia nhỏ để chuyển sang
xử lý hành chính nhằm trốn tránh bị xử lý trách nhiệm hình sự
2. Tình hình nghiên cứu

Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu
quả nghiêm trọng cũng đã được một số tác giả nghiên cứu và làm rõ. Điển
hình như TS. Bùi Minh Thanh với đề tài "Đấu tranh phòng, chống vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam hiện nay" Nhà xuất bản Công an
nhân dân, 2004; Thạc sĩ Nguyễn Mai Bộ với công trình nghiên cứu "Pháp
luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế" Nhà xuất bản Tư
pháp, 2004. Ngoài ra, còn một số bài viết khác của các tác giả đăng trên các
tạp chí Kiểm sát, tạp chí Tòa án, tạp chí Luật học đề cập đến loại tội phạm
này. Nhưng cho đến nay, chưa có tác giả nào đề cập một cách toàn diện và
riêng rẽ. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về đề tài "Tội cố ý làm trái quy định
của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" có ý nghĩa
quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận
văn
* Mục đích


3
Làm rõ khái niệm, đặc điểm pháp lý, nội dung kết quả của việc đấu
tranh của tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu
quả nghiêm trọng hiện nay. Trên cơ sở đó để có thể đề xuất một số giải pháp
nhằm góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật về "Tội cố ý làm trái quy
định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng".
* Nhiệm vụ
- Làm rõ được nội dung phạm vi của khái niệm tội cố ý làm trái quy
định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.
- Nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về
tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả
nghiêm trọng và thực tiễn áp dụng các quy phạm của tội này trong những năm
gần đây, tìm ra những mặt làm được và hạn chế.

* Đối tượng, phạm vi nghiên cứu luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu sự hình thành và phát triển của các
quy phạm về tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây
hậu quả nghiêm trọng trong luật hình sự Việt Nam từ trước đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Nhà
nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung trong tình hình mới.
Phương pháp nghiên cứu của khóa luận dựa vào chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Phương pháp phân tích tổng hợp,
phương pháp thực tiễn thống kê để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của đề
tài.
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu khóa luận


4
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn của tội cố ý
làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.
Luận văn phản ánh rõ sự hình thành và phát triển các quy định pháp luật hình
sự về loại tội phạm này, khái niệm, đặc điểm pháp lý, phạm vi và lĩnh vực
phạm tội. Trên cơ sở đó có thể đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy
định của pháp luật hình sự về tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản
lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng trong tình hình mới.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Sự hình thành và phát triển của các quy phạm về tội cố ý
làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng
Chương 2: Nhận thức chung về tội cố ý làm trái quy định của nhà
nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng

Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật
hình sự về tội cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu
quả nghiêm trọng.


5
Chương 1
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUY PHẠM
VỀ TỘI CỐ Ý LÀM TRÁI QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC
VỀ QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUY PHẠM VỀ TỘI
CỐ Ý LÀM TRÁI QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ QUẢN LÝ KINH TẾ TRƯỚC
PHÁP ĐIỂN HÓA LẦN THỨ NHẤT NĂM 1985
Quá trình hình thành và phát triển của các quy phạm về tội cố ý làm
trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gắn liền với sự phát triển của
các chính sách pháp luật của đất nước. Sự hình thành và phát triển của các
quy phạm pháp luật về tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý
kinh tế có thể được tìm hiểu qua từng thời kỳ, giai đoạn cụ thể sau đây.
1.1.1. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1954
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã khai sinh ra nước Việt
nam dân chủ cộng hòa, nước ta đã phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thử
thách do giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm và đặc biệt nền kinh tế kiệt quệ
sau chiến tranh. Lợi dụng những khó khăn trước mắt về kinh tế, nhiều hành vi
tội phạm kinh tế trong thời kỳ này xuất hiện ngày càng nhiều như; nạn buôn
lậu, buôn bán hàng cấm, làm bạc giả xảy ra rất phức tạp. Trong đó có cả một
số cán bộ của các cơ quan nhà nước, nhà máy công, sở cũng lợi dụng biển thủ
công quỹ, nhận hối lộ…
Sau khi giành được độc lập, Đảng và Nhà nước ta, mà đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định chính sách pháp luật trong nhà nước dân

chủ nhân dân; "Trước chúng ta đã bị quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế
độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp.
Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một


6
Hiến pháp dân chủ" [24, tr. 6]. Nhất quán chủ trương đó, Nhà nước ta đã cho
ra đời bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và các
chính sách pháp luật phù hợp với tình hình thực tế của từng giai đoạn lịch sử
góp phần bảo vệ nền độc lập của dân tộc, bảo vệ lợi ích của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, xây dựng đất nước ổn định và phát triển.
Nhưng do thời kỳ này chúng ta vừa giành được độc lập, trước mắt chúng
ta đang còn rất nhiều việc cần phải thực hiện ngay như; phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội… Do vậy, việc ban hành các chính sách pháp luật vẫn còn nhiều
hạn chế, trong đó có các nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Xét về nguyên nhân chủ quan, vừa giành được chính quyền về tay nhân
dân. Bộ máy nhà nước ta thời kỳ này còn non trẻ. Mặt khác, đội ngũ cán bộ
nước ta thời kỳ này còn nhiều hạn chế về trình độ chuyên môn nhất là về kỹ
thuật lập pháp. Tuy nhiên, do tình hình hết sức khẩn trương không thể ban
hành kịp các văn bản quy phạm pháp luật nói chung, văn bản quy phạm pháp
luật hình sự cần thiết nói riêng nên ngày 10/10/1945, Nhà nước ta đã ban hành
Sắc lệnh số 47-SL cho tạm thời giữ các luật lệ cũ, trong đó có Bộ "Luật hình
An Nam", Bộ "Hoàng Việt hình luật" và Bộ "Hình luật pháp tu chính" với
điều kiện không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể
dân chủ cộng hòa [30, tr. 190].
Xét về nguyên nhân khách quan, sau khi giành được chính quyền, Đảng
và Nhà nước ta ra sức củng cố và giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội. Được thể hiện bằng hành động cụ thể, chống thù trong giặc ngoài. Do
vậy mà công tác ban hành các chính sách pháp luật chưa được chú trọng.
Trong giai đoạn này, Chính phủ đã ban hành một số sắc lệnh quan

trọng làm cơ sở pháp lý cho công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm
kinh tế như Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/2/1946 về trừng trị tội phá hoại cộng
sản; Sắc lệnh 223/SL ngày 17/11/1946 quy định truy tố các tội hối lộ, biển thủ
công quỹ. Trong một loạt các hành vi phạm tội trên, có chứa đựng một phần


7
nào hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế mà sau
này được quy định thành một tội riêng.
Hành vi cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế trong
giai đoạn này chưa được quy định cụ thể trong các văn bản chính sách, pháp
luật của Nhà nước một cách cụ thể, riêng biệt mà nó được đan xen cùng với
một số tội phạm khác. Các tội phạm nói chung, tội phạm kinh tế nói riêng
trong thời kỳ này được xử lý chủ yếu dựa vào quan điểm đường lối chính sách
của Đảng và Nhà nước lúc bấy giờ.
Tóm lại, trong thời kỳ này, sự phát triển của hệ thống pháp luật nói
chung vẫn còn thiếu và yếu, trong đó sự hình thành và phát triển của các quy
phạm của tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế chưa cụ
thể và thiếu rõ ràng. Các quy phạm này mới chỉ đề cập về loại hành vi của tội
cố ý làm trái, giai đoạn này vẫn chưa có tiêu chí cụ thể. Càng về các thời kỳ
sau này tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế ngày
càng được quy định rõ ràng và cụ thể hơn.
1.1.2. Thời kỳ từ 1954 đến năm 1975
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết.
Nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau.
Ở miền Bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, toàn thể nhân dân ta
bước vào thời kỳ mới khắc phục hậu quả sau chiến tranh, phục hồi kinh tế, ổn
định trật tự xã hội và đời sống nhân dân. Trong giai đoạn này, Đảng và Nhà
nước ta đã ban hành một loạt các chính sách pháp luật, trong đó có những quy
phạm để trừng trị và răn đe những hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà

nước về quản lý kinh tế.
1- Những nhiệm vụ mà Chính phủ đã đề ra: hàn gắn vết thương chiến
tranh, khôi phục lại nên kinh tế quốc dân, làm giảm bớt khó khăn về đời sống
của nhân dân phù hợp với tình hình đất nước ta, phù hợp với nguyện vọng của


8
mọi tầng lớp nhân dân, phù hợp cho công cuộc đấu tranh cho hòa bình thống
nhất, độc lập dân chủ của nhân dân ta.
Phương châm khôi phục kinh tế, khôi phục và phát triển nông nghiệp,
khôi phục công nghiệp và thương nghiệp đều hướng về dân sinh phục vụ cho
sản xuất của nhân dân, phục vụ cho công cuộc kiến thiết của nước nhà (Nghị
quyết kinh tế 1955 của Quốc hội)
Ngày 15/6/1956 của Chủ tịch nước đã ban hành Sắc lệnh số 267-SL
về trừng trị những âm mưu, hành động phá hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản
của Nhà nước, của Hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện
chính sách, kế hoạch xây dựng kinh tế và văn hóa
"Sự nghiệp xây dựng kinh tế và văn hóa của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa nhằm phục vụ lợi ích của toàn dân. Kẻ nào phá hoại sự nghiệp ấy là
làm hại nhân dân.
Để góp phần vào việc bảo vệ sự nghiệp xây dựng kinh tế và văn hóa,
nay ban hành sắc lệnh này nhằm trừng trị những âm mưu, hành động phá hoại
hoặc làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân,
làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây dựng kinh tế và văn hóa"
(Sắc lệnh số 267)
Điều 4 của Sắc lệnh 267 ngày 15/6/1956 còn quy định như sau:
Kẻ nào vì mục đích phá hoại mà làm cản trở việc thực hiện
chính sách, kế hoạch kinh tế và văn hóa của nhà nước bằng bất cứ
cách nào như: tuyên truyền chống phá chính sách, chống kế hoạch,
phao đồn tin bịa đặt gây sự nghi ngờ hoang mang trong quần

chúng, hành động chống chính sách, chống kế hoạch, không làm
hoặc làm sai công việc mình phụ trách, làm gián đoạn công việc
thường xuyên; kìm hãm sự phát triển của một bộ phận, một ngành
hoạt động, gây mâu thuẫn, chia rẽ nội bộ công nhân viên, cán bộ,


9
xã viên hoặc chia rẽ nhân dân và cán bộ …sẽ bị phạt từ 5 năm đến
20 năm tù.
Quy phạm này một lần nữa phản ánh quan điểm của Nhà nước ta
trong việc trừng trị những hành vi gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, Hợp
tác xã và của nhân dân.
Sau khi chúng ta thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960- 1965)
và nhất là từ khi đế quốc Mỹ gây ra chiến tranh phá hoại ở miền Bắc nước ta,
công tác tổ chức và quản lý kinh tế, việc xây dựng và thi hành các chế độ, thể
lệ về quản lý kinh tế có phần bị buông lỏng; công tác giáo dục và phát động
quần chúng đông đảo tham gia bảo vệ của công làm chưa tốt. Việc trừng trị
những hành động nhằm xâm hại tài sản xã hội chủ nghĩa cũng thiếu nghiêm
minh và kịp thời. Những hiện tượng tiêu cực như tham ô, trộm cắp, lãng phí
tài sản của Nhà nước và của Hợp tác xã chưa được ngăn chặn một cách có
hiệu quả, được thể hiện qua một số vụ án cụ thể trong thời kỳ đó.
Ví dụ 1: Vụ Nguyễn Hữu Cờ và đồng bọn tham ô, cố ý làm trái.
Ngày 17/7/1960 Nguyễn Hữu Cờ và đồng bọn tham ô ở nhà máy in
Tiến Bộ, Hà Nội, lợi dụng những sở hở về quản lý kinh tế của giám đốc nhà
máy, Nguyễn Huy Cờ (nhân viên kế toán) đã cấu kết với Trương Công Nhận
và Trần Văn Pha (nhân viên cung ứng) hoạt động tham ô, cố ý làm trái.
Những hoạt động phạm tội của Cờ và đồng bọn lại được Trần Cao Tưởng
(Phó phòng tài vụ) bao che, nên hiện tượng vi phạm kéo dài, gây thiệt hại cho
Nhà nước số tiền 92.517 đồng. Tổng kết trong 2 năm 1961 - 1962 đã phát
hiện 55 vụ gây thiệt hại về kinh tế bắt 503 tên tội phạm [37, tr. 237-239].

Ví dụ 2:
Vụ Trần Công Khanh cố ý làm sai chế độ quản lý kinh tế tài chính của
Nhà nước.
Thông qua công tác nghiệp vụ, lực lượng bảo vệ kinh tế đã phát hiện
Trần Công Khanh cùng đồng bọn cố ý làm sai chế độ quản lý kinh tế tài chính


10
của Nhà nước, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, tài sản
nhân dân. Trần Công Khanh, nguyên là đại tá, nguyên Cục trưởng Cục Thủy
văn - Bộ Thủy lợi. Từ tháng 10/1964, Khanh đã cùng đồng bọn can tội lừa
đảo, cố ý làm sai trái chính sách, chế độ quản lý kinh tế, tài chính của Nhà
nước và còn dùng tiền và hàng hóa để hối lộ một số cán bộ ở các Bộ, Ngành
trong vụ án có 12 bị can [37, tr. 244].
Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật trừng trị những âm
mưu và hành động phá hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của
Hợp tác xã và của nhân dân. Cũng trong thời kỳ này, với sự điều chỉnh văn
bản pháp luật cho phù hợp với tình hình mới, ngày 21/10/1970, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài
sản xã hội chủ nghĩa. Tại Điều 12 Pháp lệnh quy định tội cố ý làm trái nguyên
tắc, chính sách, chế độ, thể lệ về kinh tế, tài chính gây thiệt hại đến tài sản xã
hội chủ nghĩa như sau: "Kẻ nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái
nguyên tắc, chính sách, chế độ và thể lệ về kinh tế tài chính, gây thiệt hại đến
tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt…". Theo các khung hình phạt của điều
luật, thì tội này có hình phạt tù từ 6 đến 20 năm.
Đặc biệt hành vi cố ý làm trái trong giai đoạn này chủ yếu là hành vi
làm trái những nguyên tắc, chính sách, chế độ quản lý kinh tế. Những nguyên
tắc, chính sách, chế độ quản lý kinh tế được Nhà nước đặt ra nhằm đảm bảo
cho mọi hoạt động kinh tế của Nhà nước đi đúng đường lối kinh tế, kinh
doanh xã hội chủ nghĩa, mà nhà nước đã hoạch định, bảo đảm cho mọi hoạt

động kinh tế được cân đối, có kế hoạch. Hai mặt đó có mối quan hệ với nhau
và tác động qua lại.
Người làm kinh tế tùy theo từng thẩm quyền, cương vị ở lĩnh vực nào
nhất thiết phải tôn trọng và thi hành đúng những quy định về quản lý kinh tế
trên lĩnh vực đó. Hiện tại chúng ta đang đứng trước một thực tế là; cơ chế
quản lý kinh tế đang từng bước được hoàn thiện và củng cố theo yêu cầu của


11
từng giai đoạn cách mạng. Sự biến động tích cực đó ứng với sự trưởng thành
của nền kinh tế và hoạt động kinh tế xã hội chủ nghĩa. Củng cố, hoàn thiện là
những chu kỳ phát triển liên tục trên cơ sở những tư tưởng, quan điểm của
Đảng. Nhà nước ta luôn luôn nhằm tác động, thúc đẩy làm cho mọi lĩnh vực
hoạt động kinh tế đáp ứng những yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong từng
giai đoạn.
Vậy hành vi cố ý làm trái những nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ
về kinh tế, tài chính gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa là như thế nào?
Để hiểu rõ hành vi này cần phải nghiên cứu, tìm hiểu làm rõ những vấn đề.
"Nguyên tắc" theo cách hiểu thông thường thì đó là những tư tưởng,
phương châm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước và cụ thể trong trường hợp này
là những nguyên tắc trong quản lý kinh tế. Trong bất cứ lĩnh vực nào cũng có
nguyên tắc của nó, kể cả trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cũng
phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản. Qua đó chúng ta thấy rằng "nguyên
tắc" là một trong những vấn đề hết sức quan trọng trong bất kể công việc,
cũng như lĩnh vực cụ thể, không thể xa rời các nguyên tắc. Bởi như trên chúng ta
đã biết "nguyên tắc" chính là những tư tưởng, phương châm định hướng chỉ đạo.
Các nguyên tắc của Nhà nước về quản lý kinh tế giữ vai trò chủ đạo,
định hướng cho toàn bộ cơ chế kinh tế, cho hoạt động ổn định và phát triển
kinh tế, là những tiêu chuẩn cơ bản để quản lý kinh tế và đánh giá hành vi của
cá nhân trong quá trình thực hiện những tư tưởng, phương châm chỉ đạo của

Đảng và Nhà nước về kinh tế.
Còn "chính sách" theo cách hiểu thông thường đó là: "Những chuẩn
tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ; chính sách được thực hiện trong
một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó" [48, tr. 145].
Do đó "chính sách" có thể hiểu là một đường lối, nhiệm vụ nhất định
cần phải thực hiện trong một giai đoạn hoặc một thời kỳ nào đó. Ví dụ như;


12
đường lối phát triển kinh tế trong thời gian này đến thời gian này hoặc nhiệm
vụ phát triển kinh tế trong thời gian này bao gồm các nhiệm vụ sau…
Như vậy, "chính sách" có nền tảng là một đường lối nhất định do đó
có nội dung, phạm vi và tính chất của chính sách phụ thuộc vào tính chất của
đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa. xã hội…ở từng thời kỳ. Để
thực hiện các nhiệm vụ cách mạng trong thời gian này, Đảng và Nhà nước ta
đã hoạch định nhiều chính sách như: chính sách kinh tế, chính sách khoa học,
chính sách đối ngoại…Chính sách sử dụng pháp luật là một trong hệ thống
các chính sách của Đảng và Nhà nước ta, là công cụ để bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, là công cụ để xây
dựng xã hội phát triển.
Xuất phát từ đường lối của Đảng và Nhà nước ta, chính sách là những
nguyên tắc, đường lối cơ bản trong việc sử dụng pháp luật của Đảng và Nhà
nước, nhằm quản lý xã hội ở một thời kỳ cách mạng nhất định. Như vậy chính
sách bao gồm những định hướng chủ trương sử dụng vào việc quản lý xã hội
và phát triển kinh tế.
Nói đến cơ chế quản lý kinh tế, trong đó bao gồm những nguyên tắc,
thể lệ quản lý kinh tế. Một khi có vi phạm đến những nguyên tắc, thể lệ đó
cũng có nghĩa là xâm phạm đến cơ chế quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa,
đường lối phát triển và quản lý kinh tế.
Pháp lệnh đã đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tài sản xã hội

chủ nghĩa, trong đó nêu ra hai bộ phận cấu thành của tài sản xã hội chủ nghĩa;
tài sản của Nhà nước- tức là của toàn dân, và tài sản của Hợp tác xã, các tổ
chức hợp pháp khác của nhân dân - tức là tài sản tập thể. Việc trừng trị các tội
xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa đã được quy định căn cứ vào tính chất
nghiêm trọng khác nhau giữa các tội cụ thể: các tội như cố ý hủy hoại tài sản
xã hội chủ nghĩa, tội vô ý gây hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa…


13
Theo quy định trong Sắc lệnh kể trên, thì hành vi làm trái với ý thức
biết là trái nhưng cứ làm, mặc dầu biết khả năng có thể dẫn đến hậu quả xấu.
Hậu quả đã xảy ra là dấu hiệu bắt buộc của loại tội này, và hậu quả xảy ra
phải là tất yếu do hành vi cố ý làm trái nguyên tắc, chính sách, chế độ về thể
lệ kinh tế tài chính gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa gây nên, hiểu
theo điều luật là xâm hại đến sở hữu xã hội chủ nghĩa.
Ví dụ 3:
Vụ Phạm Trí Tuyển làm trái chính sách phân phối thực phẩm.
Phạm Trí Tuyển, Cục phó Cục Thực phẩm - Bộ Nội thương và đồng
bọn cố ý làm trái chính sách phân phối thực phẩm gây hậu quả nghiêm trọng.
Sau Hội nghị tem phiếu toàn quốc năm 1966, Tuyển đã giao cho Nguyễn Hữu
Dị in tem phiếu (thịt, đường, sữa) cho các địa phương nhưng theo kế hoạch
thì in thiếu (thịt, đường 2.286 phiếu); giao thiếu cho các địa phương (tem sữa,
thịt) 782.660 kg,… Thực tế là Cục Thực phẩm không nắm được số tem phiếu
có bao nhiêu, mất bao nhiêu, chi chênh lệch như nhà in báo mất gần 10.000
đồng gây dối loạn thị trường trong việc sử dụng tem, phiếu thực phẩm. Bản
thân Dị đã dùng giấy giới thiệu của Cục Thực phẩm (do Tuyển) từ ngày
15/8/1966 đến ngày 25/3/1967 chiếm đoạt của Nhà nước 2,8 tấn thịt, 1,8 tấn
đường, 4.212 hộp sữa. Bọn chúng còn móc ngoặc với Nhà ăn Diễm Hằng, bếp
Ngân hàng Trung ương, Cửa hàng may đo số 4 Tràng Tiền, xuất hàng ngoài
kế hoạch, gây thất thoát nhiều tấn hàng thực phẩm và vải của Nhà nước…

Ngày 3 - 7/11/1970 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã xử sơ thẩm
các bị cáo.
+ Phạm Trí Tuyển nguyên cục phó Cục thực phẩm - Bộ Nội Thương,
Lê Vũ Dũng nguyên chủ nhiệm công ty công nghệ thực phẩm cấp I, Nguyễn
Hữu Dị cán bộ phòng kế hoạch cục thực phẩm- Bộ Nội Thương.
Căn cứ vào bản cáo trạng số 82 - V2 ngày 25/06/1970, TANDTPHN
tuyên án ba bị cáo Phạm Trí Tuyển 8 năm tù giam, Lê Vũ Dũng 3 năm tù


14
giam, Nguyễn Hữu Dị 30 tháng tù giam. Với tội danh cố ý làm trái nguyên
tắc, chính sách, chế độ, thể lệ về kinh tế tài chính gây thiệt hại đến tài sản xã
hội chủ nghĩa, có tư lợi, có móc ngoặc, gây thiệt hại lớn và hậu quả nghiêm
trọng về mặt chính trị, vi phạm Điều 12- đoạn 1, 2, khoản b, đ Pháp lệnh
21/10/1970 [38, tr. 17-18].
Ví dụ 4:
Cũng trong giai đoạn này tỉnh Hà Nam đã khởi tố vụ án, bắt Đỗ Văn
Bi, Phó văn phòng Huyện ủy, Nguyễn Văm Đam cán bộ Phòng Giao thông.
Sau khi điều tra kết luận vụ án có liên quan đến 25 đối tượng trong đó có Bí
thư Huyện ủy Hoàng Diễm, Nguyễn Văn Thụ Phó Chủ tịch, Đoàn Lương Phó
Bí thư, Đỗ Trung Trác trưởng Phòng giao thông, Nguyễn Văn Thắng -
Trưởng Phòng thủy lợi và một số cán bộ chủ chốt khác đã cố ý làm trái và
tham ô với tổng số tiền 559.910 đồng [37, tr. 253].
Tóm lại, trong thời kỳ này đất nước ta vẫn tạm thời bị chia cắt làm hai
miền, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, miền Nam vẫn bị đế quốc Mỹ và
bọn tay sai chiếm đóng. Trước tình hình đó Nhà nước ta quyết tâm thực hiện
song song hai nhiệm vụ, đó là đấu tranh thống nhất nước nhà và đưa miền Bắc
tiến lên chủ nghĩa xã hội góp phần là hậu phương vững chắc cho công cuộc giải
phóng miền Nam thống nhất đất nước. Do vậy, trong giai đoạn 1954 đến năm
1975 Đảng và Nhà nước ta đã ồ ạt tích cực đẩy mạnh phát triển kinh tế ở miền

Bắc nhằm đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh nhất. Chính vì
vậy, mà trong thời kỳ này đã xuất hiện các vụ án về kinh tế trong đó có tội cố ý
làm trái nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ quản lý kinh tế, tài chính của Nhà
nước điều này đã được thể hiện rõ qua các số liệu cũng như các vụ án nêu trên.
1.1.3. Thời kỳ từ năm 1976 đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất
năm 1985
Từ sau khi đất nước ta được hoàn toàn giải phóng và thống nhất vào
một mối, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà nước ta đã bắt


15
tay vào công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh, đẩy mạnh phát triển kinh
tế đưa cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Nhìn chung, trong giai đoạn này nền kinh tế của nước ta vẫn còn khó
khăn và lạc hậu, cơ chế quản lý thời kỳ bao cấp mang nặng tính bảo thủ, trì trệ
gây cản trở cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Chế độ giá, lương,
tiền đã có những thiếu sót, thậm chí phạm khuyết điểm, sai lầm nghiêm trọng
dẫn đến lạm phát tăng cao. Tệ hành chính quan liêu kéo dài trong nhiều năm,
lại chậm được đổi mới dẫn đến đới sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, kinh tế
kém phát triển, người lao động thiếu việc làm…
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế trong thời
kỳ này. Tại Đại hội V của Đảng đã xác định rõ một trong những chính sách
lớn về kinh tế - xã hội là:
Thiết lập trật tự mới xã hội chủ nghĩa, trên mặt trận phân
phối, lưu thông để góp phần ổn định đời sống, đẩy mạnh sản xuất,
biến chuyển tốt tình hình kinh tế - xã hội. Phân phối lưu thông phải
tham gia đắc lực vào cuộc đấu tranh giữa hai con đường, mở rộng
trận địa của chủ nghĩa xã hội, đẩy lùi trận địa tự phát tư bản chủ
nghĩa, điều tiết bằng được thu nhập của các tầng lớp dân cư cho
công bằng, hợp lý. Phải kết hợp chặt chẽ cả ba biện pháp kinh tế,

hành chính và giáo dục, trong đó biện pháp kinh tế là gốc [1, tr. 76].
Đứng trước những hạn chế khó khăn và bất cập của nền kinh tế trong
thời kỳ này trong đó phải kể đến các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Đặc
biệt là những hành vi cố ý làm trái nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ về
kinh tế, tài chính gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa xảy ra ngày một
nhiều với các hành vi, thủ đoạn ngày càng công khai và trắng trợn được thể
hiện qua một số vụ án cụ thể.
Ví dụ 5:
Vụ Phạm Ngọc Bàng và đồng bọn tham ô tài sản và cố ý làm trái.


16
Vụ án tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa, cố ý làm sai nguyên tắc quản lý
kinh tế, gây thiệt hại nghiêm trọng, xảy ra tại Phòng quản lý nhà đất thuộc Ủy
ban nhân dân tỉnh Cửu Long, do Phạm Ngọc Bàng, Trưởng phòng chủ mưu.
Bàng và đồng bọn đã hối lộ các cơ quan liên quan để được phê duyệt công
trình sớm, rót vật tư nhanh theo kế hoạch, rồi lại bán vật tư ra ngoài theo giá
chợ đen, lập quỹ riêng của đơn vị. Nghiêm trọng hơn, trong quá trình xây
dựng chúng đã đánh tráo vật tư, nguyên liệu, làm giảm tuổi thọ nhiều công
trình, gây thiệt hại lâu dài [37, tr. 253].
Đến giai đoạn này trước sự phát triển của nền kinh tế, các văn bản
chính sách pháp luật đã có nhiều hạn chế, bất cập. Đòi hỏi nhiệm vụ đặt ra
hiện nay là phải có những văn bản pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất. Trước
tình hình đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các cơ quan hữu
quan và các nhà làm luật đã bắt tay vào công việc xây dựng Bộ luật hình sự
nhằm đáp ứng với tình hình thực tế.
1.2. TỘI CỐ Ý LÀM TRÁI QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ QUẢN LÝ
KINH TẾ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẤT NƯỚC ĐÃ THỐNG
NHẤT NĂM 1985
Từ khi Cách mạng tháng Tám thành công đến nay, qua các thời kỳ

cách mạng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật hình sự. Những
văn bản này đã phát huy tác dụng, góp phần chống thù trong giặc ngoài, góp
phần vào công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Tuy nhiên, nhìn chung, tất cả các văn bản pháp luật hình sự hiện có
không đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Vấn đề đặt
ra là phải rà soát lại tất cả các văn bản pháp luật hình sự đó, hệ thống hóa nó
lại và soạn thảo Bộ luật hình sự. Bộ luật này quy định tập trung và đồng bộ
trong cùng một văn bản mọi vấn đề thuộc lĩnh vực tội phạm, đảm bảo tính
thống nhất của pháp luật hình sự xã hội chủ nghĩa.


17
Nhằm bảo vệ cơ chế quản lý kinh tế và sở hữu xã hội chủ nghĩa, Bộ
luật hình sự vừa ban hành đã quy định hành vi cố ý làm trái những nguyên
tắc, chính sách, chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước gây hậu quả nghiệm
trọng là một tội nguy hại cần phải được ngăn chặn, xử lý. Hành vi này đã
được quy định tại Điều 174 chương VII các tội phạm về kinh tế Bộ luật hình
sự năm 1985 như sau:
1. Người nào vì vụ lợi mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý
làm trái những nguyên tắc, chính sách, chế độ quản lý kinh tế do
Nhà nước quy định gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý
hành chính mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến
một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt
tù từ hai năm đến bảy năm.
Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì tội cố ý làm trái quy định của nhà
nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng có các dấu hiệu đặc trưng
sau đây.
Chủ thể của tội này là chủ thể đặc biệt. Bởi vì, chủ thể tội này phải là

những người có chức vụ quyền hạn, hay cụ thể hơn những chức vụ, quyền
hạn này được Nhà nước giao cho. Còn chủ thể bình thường, nghĩ là những
người không có chức vụ quyền hạn chỉ có thể là đồng phạm.
Có hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn cố ý làm trái, những nguyên
tắc, chính sách, chế độ quản lý kinh tế do Nhà nước quy định. "Nguyên tắc,
chính sách, chế độ quản lý kinh tế" đã được đề cập ở phần trên. Chủ thể của
tội này đều biết rõ hành vi của mình là trái pháp luật, trái với quy định của
Nhà nước về quản lý kinh tế mà vẫn dùng chức vụ, quyền hạn của mình để
thực hiện.


18
Đã gây hậu quả nghiêm trọng, thể hiện bằng thiệt hại về vật chất có
thể tính toán được, hậu quả về chính trị làm hư hỏng cán bộ, lũng đoạn tổ
chức, gây ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện kế hoạch quản lý kinh tế của Nhà
nước, đến việc bảo đảm đời sống của nhân dân (hậu quả này khó có thể tính
toán cụ thể một cách chính xác). Nếu trong trường hợp chưa có hậu quả
nghiêm trọng thì phải có dấu hiệu "đã bị xử lý về hành chính mà còn vi phạm"
là dấu hiệu bắt buộc. Đối với tội phạm này việc xử lý hành chính, phải có
quyết định bằng văn bản của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, xử lý
người có hành vi cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây
hậu quả nghiêm trọng như; phê bình, khiển trách hạ tầng công tác…hoặc kết
luận bằng văn bản về hành vi cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý
kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, yêu cầu đình chỉ khắc phục hậu quả…
Có mục đích "vụ lợi" tức là thu vén cho lợi ích có tính chất cục bộ địa
phương, hoặc lợi ích của cá nhân trái phép. Gây thiệt hại cho lợi ích chung
rộng lớn theo quy định của Nhà nước (vụ lợi khác với tư lợi ở chỗ tư lợi
thường chỉ thu hẹp trong lợi ích cá nhân).
Với quy định như trên thì số hành vi bị coi là tội phạm quy định tại
Điều174 Bộ luật hình sự 1985 là rất lớn trong khi đó nhiều chế độ, chính sách

về quản lý kinh tế ban hành trước đây không còn phù hợp nữa, nhưng chưa
được sửa đổi hoặc tuy đã được sửa đổi nhưng còn đang thử nghiệm mà vẫn
phải sửa đổi bổ sung. Hay nói chính xác hơn là phi hình sự hóa một số hành
vi, chỉ cần xử lý về dân sự, hành chính, kỷ luật cũng có tác dụng trừng phạt
và răn đe. Bên cạnh đó, nhiều chính sách mới chưa được thể chế hóa bằng
pháp luật, pháp luật về quản lý kinh tế vẫn chưa hoàn chỉnh và đồng bộ…Vì
vậy, những việc làm năng động, sáng tạo, mang tính chất thử nghiệm, tìm tòi
cái mới vì lợi ích chung, nhằm phát triển sản xuất cải thiện đời sống nhân
dân. Đối với các hiện tượng có tính chất "phá rào" thì cũng cần phải xem xét
thận trọng để xem xét xem trường hợp nào là năng động, sáng tạo, trường hợp


19
nào là làm bừa, làm ẩu để việc truy cứu trách nhiệm hình sự được đúng đắn,
chính xác…
Thực tiễn xét xử cũng cho thấy trong việc xét xử loại tội này, việc
đánh giá chứng cứ vận dụng đường lối xét xử gặp rất nhiều khó khăn, phức
tạp. Trong tình hình hiện nay quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh được
mở rộng. Cần phải xem xét lại tính khả thi của Điều 174 Bộ luật hình sự năm
1985, để tăng tính khả thi của điều luật này cách hữu hiệu nhất là phi tội phạm
hóa một số hành vi quy định về tội này. Chỉ nên kết án tội cố ý làm trái quy định
của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, các trường hợp cố ý
làm không đúng nguyên tắc, chính sách, chế độ quản lý kinh tế đã được thể chế
bằng pháp luật. Theo tinh thần Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao, đã gây ra hậu quả nghiêm trọng là thiệt hại trực tiếp về tài
sản xã hội chủ nghĩa, tính được thành tiền với giá trị từ 5 tấn gạo trở lên.
Đó chính là lý do dẫn tới ngày 28/12/1989 Quốc hội sửa đổi một số
điều của Bộ luật hình sự năm 1985 (trong đó có Điều 174), cho phù hợp với
tình hình thực tế của loại tội này. Và như vậy Điều 174 Bộ luật hình sự năm
1985 được sửa lại là "Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý

kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" với nội dung: "Người nào vì vụ lợi hoặc
động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái nguyên
tắc, chính sách chế độ quản lý kinh tế do Nhà nước quy định gây hậu quả
nghiêm trọng thì bị…" [26].
Sau lần sửa đổi này các dấu hiệu của tội phạm chỉ bớt đi dấu hiệu "đã
bị xử lý về hành chính mà còn vi phạm" còn tính chất của hành vi cố ý làm
trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, về
cơ bản vẫn giữ nguyên so với quy định từ khi mới ban hành và bao gồm các
hành vi làm trái nguyên tắc quản lý kinh tế, chính sách quản lý kinh tế, chế độ
quản lý kinh tế. Qua một thời gian áp dụng tính khả thi của điều luật vẫn còn
nhiều hạn chế, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu sửa đổi nội dung của điều luật.


20
Cương lĩnh xây dựng đất nước được thông qua năm 1991, theo đó đường lối
xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, đặt ra yêu cầu một mặt phải xây dựng khung pháp luật hoàn
chỉnh nhằm khuyến khích, phát triển mạnh mẽ các yếu tố tích cực phát huy
quyền tự do kinh doanh, không hạn chế quy mô mức độ.
Với lý do đó ngày 22/12/1992 Nhà nước ta tiếp tục sửa đổi một số điều
của Bộ luật hình sự năm 1985, trong đó có Điều 174 tội cố ý làm trái quy định của
Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng được sửa đổi lại như sau:
1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái quy
định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, thì
bị phạt tù từ một năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị
phạt tù từ năm năm đến mười hai năm:
a) Phạm tội vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác;
b) Phạm tội có tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù
từ mười năm đến hai mươi năm.
Sau khi đã được sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế của loại tội
phạm này, về bản chất thì không có gì thay đổi. Nhưng về dấu hiệu của tội
phạm đã bớt đi dấu hiệu "vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác", theo quy định
tại khoản 1 điều luật quy định "Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý
làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng
thì bị phạt…" trong trường hợp này người phạm tội có hành vi lợi dụng chức
vụ, quyền hạn cố ý làm trái những quy định của nhà nước về quản lý kinh tế
gây hậu quả nghiêm trọng. Nội dung của điều luật đã cho biết người phạm tội
đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình mà Nhà nước giao cho mà lại cố ý


21
làm trái những quy định của Nhà nước ban hành, phần lớn là vụ lợi hoặc động
cơ cá nhân vì trong tội này hoàn toàn chỉ có lỗi cố ý, tức người thực hiện hành
vi đã biết trước, và nhìn thấy trước được hậu quả của hành vi phạm tội của
mình sẽ gây thiệt hại cho Nhà nước nhưng vẫn cứ làm. Có nhiều trường hợp
người phạm tội còn lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình yêu cầu cấp dưới
phải thực hiện những quyết định của mình đưa ra, mặc dù đã biết như vậy sẽ
trái với quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế nhằm trốn tránh hoặc giảm
nhẹ bớt trách nhiệm khi bị cơ quan chức năng phát hiện.
Quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế bao gồm có cả những
nguyên tắc, chính sách chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước trong tất
cả các lĩnh vực đều có văn bản quy định cụ thể. Do vậy chỉ cần người nào có
hành vi cố ý làm trái những quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế là đủ
yếu tố cấu thành khoản 1 tội này. Bởi trong điều luật này chỉ có yếu tố định
tính chưa có yếu tố định lượng.
Hơn mười năm qua, công cuộc đổi mới đã đem lại những thay đổi
đáng kể, căn bản và toàn diện trên mọi mặt đời sống đất nước, đặc biệt là đời

sống kinh tế và sinh hoạt dân chủ. Chính trong tình hình đó, Bộ luật hình sự
năm 1985 mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung một số lần nhưng vẫn còn nhiều
điểm bất cập, cần phải được sửa đổi, bổ sung. Trong đó "Tội cố ý làm trái quy
định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" nhằm đáp
ứng đầy đủ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm một cách có hiệu quả.
Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặt ra yêu cầu một mặt phải xây dựng
một khung pháp luật hoàn chỉnh nhằm khuyến khích, phát huy mạnh mẽ các
yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, mặt khác, phải định rõ những điều
nghiêm cấm với những chế tài nghiêm khắc không chỉ về hành chính, dân sự
mà cả về hình sự nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh những
mặt trái, tiêu cực của cơ chế.

×