Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Vai trò của Viện kiểm sát trong việc khởi tố vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN KHẮC QUANG




VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ

Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số: 60 38 40




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: GS. TS Đỗ Ngọc Quang






HÀ NỘI – 2014

1


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 3
1. Tính cấp thiết của đề tài 3
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài 5
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 7
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 7
6. Các đóng góp mới của luận văn 7
7. Ý nghĩa của luận văn 8
8. Kết cấu của luận văn 8
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ VAI TRÒ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ 9
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ 9
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự . 9
1.1.2. Cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình sự 12
1.1.3. Thẩm quyền và trình tự, thủ tục khởi tố vụ án hình sự 16
1.1.4. Ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự 19
1.2. NHẬN THỨC CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ
VỤ ÁN HÌNH SỰ 20
1.2.1. Vai trò của Viện kiểm sát trong công tác phòng, chống tội phạm nói chung 20
1.2.2. Trách nhiệm của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự 23
1.2.3. Trách nhiệm của Viện Kiểm sát trong kiểm sát việc tuân theo pháp luật về khởi tố
vụ án hình sự 27

1.2.4. Khái quát lịch sử các quy định pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến vai trò của
Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự 30
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA
VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ 37

2

2.1. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ VAI
TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ 37
2.1.1. Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam 37
2.1.2. Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án
hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam 41
2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN
HÌNH SỰ 53
2.2.1. Những kết quả đạt đƣợc 53
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế về hoạt động của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
59
2.3. NGUYÊN NHÂN NHỮNG HẠN CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM
SÁT TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ 63
2.3.1. Những bất cập trong các quy định của pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát trong
khởi tố vụ án hình sự 63
2.3.2. Những vƣớng mắc trong tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Viện
kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự 67
2.3.3. Những khó khăn về công tác cán bộ và đảm bảo cơ sở vật chất của ngành Kiểm sát
68
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN
KIỂM SÁT TRONGKHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ 70
3.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN
KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ 71

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỤ THỂ 75
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự 75
3.2.2. Giải pháp để thực hiện tốt các biện pháp nghiệp vụ 80
3.2.3. Giải pháp về tăng cƣờng công tác tổ chức, quản lý và chỉ đạo điều hành 81
3.2.4. Giải pháp về công tác cán bộ của ngành Kiểm sát 82
3.2.5. Tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất cho ngành kiểm sát 83
KẾT LUẬN 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89

3

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), phấn đấu vì
sự nghiệp dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là những
nhiệm vụ quan trọng hiện nay của Đảng và Nhà nƣớc ta. Để đáp ứng yêu cầu
xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN thì việc cải cách tổ chức và nâng cao
chất lƣợng hoạt động của các cơ quan tƣ pháp, trong đó có VKS là một đòi hỏi
mang tính cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Là cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật, những quyết định áp dụng pháp luật khách quan,
nghiêm minh, thống nhất của Viện kiểm sát (VKS) đã đóng góp tích cực và
công cuộc đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo vệ pháp chế
XHCN, giữ vững an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội. Nghị quyết số
08/NQTW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị đã đặt ra yêu cầu:Viện kiểm sát các
cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố
vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và
người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp

sai phạm của những người tiến hành tố tụng làm nhiệm vụ
1

Trong những năm qua, thực hiện chỉ đạo của VKS nhân dân tối cao, các
VKS địa phƣơng trong cả nƣớc đã thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của ngành,
nâng cao tỉ lệ phát hiện tội phạm, hạn chế bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, bên cạnh
kết quả đạt đƣợc vẫn còn có những hạn chế nhƣ: Tình trạng hồ sơ vụ án phải trả
để điểu tra bổ sung nhiều, năm 2011 VKS đã trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.


4

(CQĐT) để điều tra bổ sung 1.257 vụ, Tòa án trả cho VKS là 1.398 vụ, năm
2012 VKS trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung 1.216 vụ, Tòa án trả cho
VKS 1.570 vụ. Vẫn còn nhiều ngƣời bị bắt, khởi tố, điều tra oan, sai. Theo số
liệu thống kê của VKS nhân dân tối cao trong trong năm 2011 CQĐT và VKS
đã phải đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 25 BLHS 1.055 bị can,
đình chỉ 94 bị can do không phạm tội; năm 2012 CQĐT và VKS đã phải đình
chỉ 561 vụ và 1.286 bị can. Trong số các bị cáo Tòa án đã xét xử năm 2011 có
13 bị cáo và năm 2012 có 16 bị cáo Toà án tuyên không phạm tội
2
. Những hạn
chế đó đã gây ra những hậu quả về danh dự, nhân phẩm cũng nhƣ vật chất đối
với những ngƣời bị bắt, khởi tố, điều tra oan, sai, làm ảnh hƣởng không nhỏ đến
uy tín của ngành Kiểm sát nói riêng và các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung
trƣớc quần chúng nhân dân và dƣ luận xã hội.

Trong tố tụng hình sự, khởi tố là giai đoạn đầu tiên có ý nghĩa rất quan
trọng đối với toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Giai đoạn này có nhiệm vụ xác
định có sự việc xảy ra hay không, nếu xảy ra thì có hay không dấu hiệu của tội
phạm để khởi tố hoặc không khởi tố vụ án, nhằm xử lý kịp thời nghiêm minh
các hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan sai ngƣời vô tội,
góp phần bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân đƣợc pháp luật bảo hộ.Kết
thúc giai đoạn này, khi đã khởi tố vụ án CQĐT đƣợc tiến hành các biện pháp
điều tra, kể cả các biện pháp cƣỡng chế tố tụng để nhanh chóng phát hiện tội
phạm và ngƣời phạm tội. Vì vậy, nếu các hoạt động tố tụng không thực hiện
đúng trình tự thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định ở giai đoạn
này, rất có thể tội phạm sẽ bị bỏ lọt hoặc lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm
phạm, làm oan sai ngƣời vô tội.
Trong các cơ quan tiến hành tố tụng, VKS là cơ quan tham gia vào tất cả
các giai đoạn tố tụng hình sự. Trong giai đoạn khởi tố, VKS thực hành quyền

2
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2011), Báo cáo tổng kết công tác năm 2011, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2012), Báo cáo tổng kết công tác năm 2012, Hà Nội.


5

công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật, bảo đảm mọi tội phạm đƣợc phát hiện
đều phải đƣợc khởi tố, việc khởi tố có căn cứ và hợp pháp đảm bảo sự nhanh
chóng và chính xác.Với những lý do nêu trên cho thấy, giai đoạn khởi tố vụ án
có ý nghĩa vô cùng quan trọng, mang tính tiên quyết và trong giai đoạn này VKS
có vị trí, vai trò rất quan trọng. Vì vậy tác giả quyết định chọn vấn đề: “Vai trò
của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự” làm đề tài cho luận văn Thạc sĩ
luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Trong những năm qua, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của VKS
trong khởi tố vụ án hình sự đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên
quan đến vấn đề này, qua nghiên cứu tìm hiểu cho thấy, các công trình khoa học
tập trung nghiên cứu theo những khía cạnh sau:
Nghiên cứu chung về việc đổi mới tổ chức, hoạt động của VKS nhân
dân. Điển hình nhƣ: tác giả Khuất Văn Nga với bài viết: Những chủ trương của
Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và tổ chức hoạt động của VKS nhân
dân trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Kiểm sát, số 7/2005, 2005; Tác giả Đỗ Văn
Đƣơng với bài viết: Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở
nước ta hiện nay, Tạp chí Kiểm sát số 4/2006; Tác giả Nguyễn Minh Đức với
bài viết: “Về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo tinh thần cải cách tư
pháp”, Tạp chí Kiểm sát số 9/2006; Tác giả Lê Hữu Thể với bài viết: “Tổ chức
bộ máy và chức năng nhiệm vụ của VKS trong tiến trình cải cách tư pháp”, Tạp
chí Kiểm sát, số 6/2008
Nghiên cứu về quyền công tố và thực hành quyền công tố trên một số
lĩnh vực cụ thể, nhƣ các tác phẩm nhóm tác giả do TS. Lê Hữu Thể (Chủ biên):
Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra (Sách tham khảo), Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội, 2005; Tác giả Lê Thị Tuyết
Hoa với Luận án tiến sỹ: Quyền công tố ở Việt Nam, Khoa Luật - Đại học Quốc

6

gia Hà Nội năm 2002; Tác giả Phạm Mạnh Hùng với bài viết: Hoàn thiện các
quy định của BLTTHS về quan hệ giữa VKS và CQĐT trong tố tụng hình sự,
Tạp chí Kiểm sát, số 2/2007
Những công trình khoa học, những bài viết trên đây đã tập trung nghiên
cứu về tổ chức và hoạt động của VKSND nói chung, có một số công trình, bài
viết nghiên cứu về chức năng hoạt động của VKS trên một số lĩnh vực cụ thể.
Về vấn đề “Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự”, cũng đã có
một số công trình đề cập đến vấn đề này nhƣng chƣa có công trình nào nghiên

cứu một cách có hệ thống, toàn diện hoặc chƣa nghiên cứu dƣới góc độ coi khởi
tố vụ án là một giai đoạn tố tụng độc lập mà vẫn gắn liền với giai đoạn điều tra,
đồng thời cũng chƣa có nghiên cứu nào tìm hiểu một cách sâu sắc về vai trò của
VKS trong khởi tố vụ án hình sự.
Mặc dù vậy, các công trình khoa học, các bài viết trên đây là những tài
liệu tham khảo rất có giá trị để nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật, thực trạng hoạt
động của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự (từ năm 2008 tới 2013),
mục đích của luận văn nhằm làm sáng tỏ vị trí, vai trò, nhiệm vụ quyền hạn, và
nêu ra một số giải pháp, kiến nghị góp phần nâng hiệu quả hoạt động của VKS
trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tƣ pháp ở Việt Nam
hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của VKS trong khởi tố vụ án hình sự;
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động của VKS trong khởi tố vụ
án hình sự những năm gần đây, rút ra đƣợc những ƣu điểm, hạn chế và nguyên

7

nhân của những hạn chế đó để từ đó đề xuất những giải pháp và kiến nghị góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động của VKS trong khởi tố vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về các quy định pháp luật và thực tiễn hoạt động
nhằm đánh giá về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là về vấn đề vị trí, vai trò của Viện
kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam năm 2003 đến nay. Đồng thời luận văn cũng nghiên cứu về thực tiễn
hoạt động của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự trong 6 năm (từ năm
2008 đến năm 2013).

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật VKS biện chứng và duy
vật lịch sử Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về nhà nƣớc và pháp luật nói chung và tổ chức, hoạt động của VKS
nhân dân nói riêng, đặc biệt là quan điểm của Đảng trong giai đoạn hiện nay về
cải cách tƣ pháp.
Trên cơ sở phƣơng pháp luận duy vật biện chứng, luận văn sử dụng các
phƣơng pháp nghiên cứu truyền thồng của khoa học xã hội nhƣ: Lý luận – thực
tiễn, Phân tích – tổng hợp, Lịch sử - cụ thể; kết hợp với các phƣơng pháp nghiên
cứu khác nhƣ: So sánh luật học, thống kê
6. Các đóng góp mới của luận văn
Luận văn là tài liệu chuyên khảo nghiên cứu tƣơng đối có hệ thống và
toàn diện về vài trò VKS trong khởi tố vụ án hình sự, cụ thể là:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của VKS trong
khởi tố vụ án hình sự, góp phần xây dựng một cách nhìn toàn diện về vị trí và

8

chức năng của VKS trong giai đoạn khởi tố. Qua đó thấy đƣợc vai trò quan
trọng của VKS trong công tác phòng, chống tội phạm.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động của VKS trong khởi tố vụ
án hình sự. Trên cơ sở đó chỉ ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của
những hạn chế và đề xuất các giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động của VKS trong khởi tố vụ án hình sự.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vai
trò của VKS trong khởi tố vụ án hình sự. Luận văn góp phần làm phong phú
thêm tri thức về pháp luật tố tụng hình sự, đấu tranh chống tội phạm và phòng
ngữa tội phạm trên thực tiễn, nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân đƣợc pháp luật bảo hộ.

Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học
tập cũng nhƣ làm tài liệu cho các cán bộ Kiểm sát trong hoạt động nghiệp vụ của
mình, bên cạnh đó luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
và giảng dạy về vấn đề liên quan đến vai trò của VKS trong khởi tố vụ án hình
sự trong các trƣờng đại học, cao đẳng, các trƣờng bồi dƣỡng nghiệp vụ tƣ pháp.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề chung về khởi tố vụ án hình sự và vai trò của
Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn hoạt động của Viện kiểm
sát trong khởi tố vụ án hình sự
Chương 3:Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát
trong khởi tố vụ án hình sự

9

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ VAI
TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự
Do tính chất phức tạp của tội phạm, việc giải quyết vụ án hình sự không
giống với trình tự giải quyết các vụ án dân sự, vụ án hành chính, kinh tế, lao
động. Quá trình tố tụng hình sự đƣợc chia thành các giai đoạn khác nhau, gắn
liền với những hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nhất định. Ở nƣớc
ta, quá trình giải quyết các vụ án hình sự đƣợc bắt đầu kể từ khi nhận đƣợc các
thông tin về tội phạm cho đến khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực

pháp luật đƣợc đƣa vào thi hành. Mỗi giai đoạn tố tụng thực hiện các nhiệm vụ
cụ thể của quá trình tố tụng. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về phân
chia các giai đoạn tố tụng hình sự, song hầu hết các quan điểm đều thừa nhận
“khởi tố vụ án là một giai đoạn tố tụng” có vị trí đặc biệt và có vai trò riêng
trong quá trình tố tụng hình sự. Nó đƣợc coi là một giai đoạn khởi động quá
trình tố tụng giải quyết vụ án hình sự.
Theo Từ điển luật học thì khởi tố vụ án hình sự là hoạt động của cơ quan
tiến hành tố tụng xác định có sự việc phạm tội để tiến hành điều tra phát hiện tội
phạm. Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng độc lập, mở đầu các hoạt
động điều tra. Trong giai đoạn này, cơ quan có thẩm quyền khởi tố tiến hành các
hoạt động để xác định dấu hiệu của tội phạm.
3

Theo tác giả Lê Cảm thì giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố
tụng hình sự đầu tiên mà trong đó cơ quan tƣ pháp hình sự có thẩm quyền căn

3
Bộ Tƣ pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr 429

10

cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, tiến hành việc xác định có
(hau không) các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội đã
đƣợc thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố vụ án (hoặc
không khởi tố) vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó.
4
Do vậy, khởi tố vụ án
hình sự là giai đoạn đầu tiên của trình tự giải quyết vụ án, có nhiệm vụ xác định
một sự việc xảy ra trong thực tế có hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra
quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Giai đoạn khởi

tố vụ án hình sự là giai đoạn đƣợc tiến hành trƣớc các giai đoạn tố tụng tiếp theo
nhƣ: điều tra, truy tố, xét xử . Do đó giai đoạn này có ý nghĩa quan trọng trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự, xác lập cơ sở pháp lý cho hoạt động điều tra,
thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, ngƣời phạm tội, lập hồ sơ vụ án, đề
nghị truy tố ngƣời phạm tội ra trƣớc Tòa án để xét xử.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Chí, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu
của quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm quyền có nhiệm vụ
sử dụng các biện pháp của tố tụng hình sự để xác định có hay không có đấu hiệu
tội phạm, trên cơ sở đó các cơ quan này sẽ ra một trong hai quyết định đó là:
quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
5

Tƣơng tự nhƣ thế, trong giáo trình Luật tố tụng hình sự của Trƣờng Đại học
Luật Hà Nội có viết: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình
sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm
để ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
6

Các quan điểm nêu trên tuy đƣợc diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau
nhƣng đều thể hiện sự thống nhất đó là coi khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu
của tố tụng hình sự, là giai đoạn khởi động quá trình tố tụng hình sự, có vai trò
làm căn cứ pháp lý cho các giai đoạn tiếp theo.

4
Lê Cảm (2004), Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát, (2). tr 26
5
Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên) (2001) Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, tr 64
6
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội., tr 231


11

Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự đƣợc tiến hành trong một khoảng thời
gian cụ thể, có nhiệm vụ riêng, có chủ thể và các hoạt động tố tụng độc lập với
các giai đoạn tố tụng khác. Khởi tố vụ án hình sự đƣợc coi là một giai đoạn độc
lập của tố tụng hình sự. Do đó, theo chúng tôi, khái niệm khởi tố vụ án hình sự
có thể đƣợc hiểu nhƣ sau: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn độc lập của quá
trình tố tụng hình sự, mở đầu cho quá trình giải quyết vụ án hình sự, trong đó
các cơ quan có thẩm quyền sử dụng các biện pháp mà pháp luật tố tụng hình sự
quy định nhằm xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có các nhiệm vụ cơ bản nhƣ sau.
Thứ nhất, phát hiện và tiếp nhận các thông tin về tội phạm kịp thời,
chính xác.Phát hiện và tiếp nhận các thông tin về tội phạm là trách nhiệm của
các cơ quan có thẩm quyền và các cơ quan, tổ chức khác đƣợc pháp luật về tố
tụng hình sự quy đinh. Thông tin về tội phạm có thể đƣợc thu thập từ các nguồn
khác nhau nhƣ tố giác của công dân; tin báo về tội phạm của các cơ quan, tổ
chức; ngƣời phạm tội tự thú và đƣợc coi là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền
tiến hành kiểm tra, xác minh nhằm xác định dấu hiệu tội phạm để ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Pháp luật tố
tụng hình sự quy định trong phạm vi trách nhiệm của mình các cơ quan có thẩm
quyền và các cơ quan, tổ chức khác phải kịp thời phát hiện và tiếp nhận mọi
nguồn tin về tội phạm với các hình thức phù hợp, bảo đảm chính xác
Thứ hai, sử dụng mọi biện pháp luật định tiến hành các hoạt động kiểm
tra, xác minh nhằm nhanh chóng xác định các dấu hiệu của tội phạm. Sau khi
tiếp nhận thông tin về tội phạm, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt
động kiểm tra, xác minh để xác định xem có sự việc phạm tội xảy ra hay không,
nếu có thì sự việc đó có hay không có dấu hiệu tội phạm? Hoạt động kiểm tra,
xác minh thông tin về tội phạm đƣợc tiến hành bằng nhiều biện pháp khác nhau

trong một khoảng thời gian theo luật định, tùy thuộc vào tính chất đơn giản, hay

12

phức tạp của vụ án để xác định dấu hiệu tội phạm một cách nhanh chóng và
chính xác. Dấu hiệu tội phạm chính là căn cứ cần và đủ đƣợc pháp luật quy định
để cơ quan có thẩm quyền có thể dựa vào đó để ra quyết định khởi tố vụ án hình
sự. Đây là nhiệm vụ chính của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự.
Thứ ba, ra quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án
hình sự có căn cứ và hợp pháp. Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ
án hình sự sau khi xác định đƣợc dấu hiệu tội phạm. Quyết định khởi tố vụ án là
văn bản pháp lý làm cơ sở để CQĐT tiến hành các hoạt động điều tra. Trong
trƣờng hợp, nếu xác định không có dấu hiệu tội phạm thì ra quyết định không
khởi tố vụ án hình sự. Việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự là quyền hạn và
trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và một số cơ quan khác đƣợc pháp
luật quy định. Quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án
hình sự phải do ngƣời có thẩm quyền ra mới hợp pháp.
Trong một số trƣờng hợp, khi xác định hành vi tuy có dấu hiệu phạm tội
nhƣng tính chất nguy hiểm cho xác hội không đáng kể theo quy định tại khoản 4
Điều 8 Bộ luật hình sự (BLHS) thì không khởi tố vụ án hình sự mà có thể áp
dụng các biện pháp xử lý khác để đảm bảo tính hài hòa.
1.1.2. Cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Theo quy định tại điều 100 BLTTHS 2003 về căn cứ khởi tố vụ án thì
“chỉ đƣợc khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định đƣợc dấu hiệu tội phạm”. Từ đó,
có thể hiểu dấu hiệu tội phạm đã xác định chính là căn cứ để khởi tố vụ án hình
sự. Dấu hiệu tội phạm thƣờng đƣợc phản ánh qua tài liệu ban đầu về sự kiện
phạm tội, có thể chƣa phải là tài liệu để chứng minh, xác định ngƣời phạm tội
nào cụ thể. Các dấu hiệu của tội phạm thƣờng đƣợc thể hiện qua các tình tiết đã
đƣợc xác định nhƣ: Có hành vi nguy hiểm cho xã hội thực tế xảy ra; hành vi đó
bị pháp luật cấm và đƣợc BLHS quy định là tội phạm, hành vi đó đã gây ra hậu


13

quả nguy hiểm cho xã hội, các tình tiết khách quan chứng tỏ ngƣời thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội có lỗi
Trƣớc khi quyết định việc khởi tố vụ án hình sự, CQĐT phải xác định
đƣợc hành vi bị khởi tố không thuộc một trong những căn cứ không đƣợc khởi
tố vụ án hình sự quy định tại Điều 107 BLTTHS, đó là các căn cứ: Không có sự
việc phạm tội; hành vi không cấu thành tội phạm; ngƣời thực hiện hành vi chƣa
đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; ngƣời mà hành vi phạm tội của họ đã có bản
án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm đã đƣợc đại xá; ngƣời thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội đã chết trừ trƣờng hợp cần tái thẩm đối với ngƣời khác.
Sau khi đã xác định dấu hiệu tội phạm đƣợc quy định trong BLHS và
hành vi thực hiện không thuộc một trong các trƣờng hợp không đƣợc khởi tố vụ
án hình sự, cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án cần xem xét đến khả năng hành
vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện có thuộc trƣờng hợp khởi tố theo yêu cầu
của ngƣời bị hại theo quy định tại Điều 105 BLTTHS hay không? Nếu hành vi
đƣợc phát hiện thuộc một trong các trƣờng hợp khởi tố theo yêu cầu của ngƣời
bị hại hoặc ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị hại là ngƣời chƣa thành niên,
ngƣời có nhƣợc điểm về thể chất hoặc tâm thần thì phải có yêu cầu khởi tố của
ngƣời bị hại bằng đơn hoặc có biên bản đƣợc thiết lập trong trƣờng hợp ngƣời bị
hại không thể viết đơn vì các lý do khác nhau.
Dấu hiệu tội phạm đƣợc xác định dựa trên kết quả, xác minh thông tin về
tội phạm. Những hành vi có dấu hiệu tội phạm nhƣng tính chất nguy hiểm cho
xã hội không đáng kể theo khoản 4 Điều 8 BLHS thì không phải là tội phạm nên
không khởi tố vụ án hình sự mà có thể áp dụng các biện pháp khác.
Cơ sở để xác định căn cứ khởi tố vụ án là những nguồn tin và những sự
việc đƣợc phát hiện mà dựa vào đó cơ quan có thẩm quyền khởi tố xác định dấu


14

hiệu tội phạm. Điều 100 BLTTHS quy định các nguồn tin và sự việc đƣợc phát
hiện làm cơ sở xác định có dấu hiệu tội phạm bao gồm:
- Tố giác của công dân. Tố giác của công dân là việc công dân tố cáo
hành vi vi phạm pháp luật của một ngƣời nào đó mà họ cho rằng hành vi đó là
tội phạm. Chủ thể của hành vi tố giác tội phạm là công dân. Tố giác của công
dân là cơ sở khởi tố vụ án hình sự phổ biến nhất, bởi lẽ, công dân có quyền và
nghĩa vụ tố giác những hành vi vi phạm pháp luật hình sự với cơ quan, tổ chức
trong những trƣờng hợp do pháp luật quy định và công dân cũng thƣờng là đối
tƣợng đầu tiên phát hiện ra hành vi có dấu hiệu tội phạm.
- Tin báo về tội phạm của cơ quan, tổ chức. Tin báo của các cơ quan, tổ
chức là những thông tin về tội phạm do các cơ quan, tổ chức trực tiếp phát hiện
hoặc nhận đƣợc tố giác của công dân và báo cáo bằng văn bản với CQĐT. Cũng
giống nhƣ đối với tố giác của công dân, cơ quan, tổ chức là những đơn vị có
quyền và nghĩa vụ báo tin cho CQĐT có thẩm quyền khi phát hiện ra các tin tức
về tội phạm nhằm nhanh chóng phát hiện tội phạm. BLTTHS 2003 quy định chủ
thể của tin báo về tội phạm có thể là bất kỳ cơ quan, tổ chức nào. Khái niệm này
đƣợc hiểu rộng hơn so với quy định chủ thể của tin báo về tội phạm trong
BLTTHS 1988 đó là “cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội”. Khác với tố giác của
công dân, sau khi phát hiện tội phạm hoặc tiếp nhận tố giác của công dân, các cơ
quan, tổ chức phải báo tin đến CQĐT dƣới hình thức văn bản.
Tin báo về tội phạm của cơ quan, tổ chức là một trong những hình thức
tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm nhằm nâng cao tinh thần, trách nhiệm
phát hiện, tố giác tội phạm của các cơ quan, tổ chức trong việc góp phần bảo vệ
lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Tin báo trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng. Ngày nay, phƣơng
tiện thông tin đại chúng hết sức đa dạng và phổ biến, đóng vai trò to lớn trong
việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tin báo trên các phƣơng tiện thông tin


15

đại chúng nhƣ các sự việc đƣợc phản ánh qua báo, tạp chí, phát thanh, truyền
hình là một trong những cơ sở khởi tố vụ án hình sự đƣợc pháp luật quy định
giúp cho các cơ quan có thẩm quyền xác định đƣợc dấu hiệu của tội phạm. Vì
vậy, khi có tin báo về tội phạm trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng, các cơ
quan có thẩm quyền trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tiến hành xem
xét, xác minh tin báo đó, nếu thấy có dấu hiệu tội phạm phải ra quyết định khởi
tố vụ án hình sự để điều tra, xử lý tội phạm.
- Cơ quan có thẩm quyền khởi tố trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội
phạm. Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án là những cơ quan có chức năng chính
trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Vì vậy, trong phạm vi quyền hạn,
trách nhiệm của mình, các cơ quan này có nhiều điều kiện để có thể trực tiếp
phát hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Các cơ quan khác nhƣ Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực
lƣợng Cảnh sát biển và các cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội
nhân dân mặc dù chức năng chính là quản lý nhà nƣớc trong những lĩnh vực
nhất định nhƣng do đặc thù công tác nên đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra, vì bằng các hoạt động theo chức năng của mình các cơ quan
này cũng có điều kiện phát hiện sự việc phạm tội. Chính vì vậy, các cơ quan này
khi thực hiện nhiệm vụ của mình mà phát hiện sự việc có dấu hiệu phạm tội thì
việc phát hiện đó đƣợc coi là cơ sở khởi tố vụ án hình sự.
- Ngƣời phạm tội tự thú. Tự thú là việc ngƣời đã thực hiện hành vi phạm
tội tự nguyện trình diện và khai nhận đầy đủ về hành vi phạm tội của mình, mặc
dù tội phạm này chƣa bị phát hiện. Theo quy định tại Điều 102 BLTTHS 2003
thì: “Khi ngƣời phạm tội đến tự thú, cơ quan tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản
ghi rõ họ tên, tuổi, nghề nghiệp, chỗ ở và những lời khai của ngƣời tự thú. Cơ
quan, tổ chức tiếp nhận ngƣời phạm tội tự thú có trách nhiệm báo ngay cho
CQĐT, VKS”. Các cơ quan này phải kiểm tra, xác minh nhân thân của ngƣời tự


16

thú; giải thích cho ngƣời tự thú biết rằng tự thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối
cải hoặc tích cực giúp đỡ cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm là
những tình tiết có thể đƣợc sử dụng làm căn cứ miễn trách nhiệm hình sự đƣợc
quy định tại Điều 25 BLHS hoặc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đƣợc
quy định tại Điều 46 BLHS. Lời khai của ngƣời tự thú phải đƣợc kiểm tra, đánh
giá để phòng ngừa họ cố ý đƣa ra lời khai giả mạo, ngụy tạo để che giấu tội
phạm khác nghiêm trọng hơn hoặc vì mục đích che giấu đồng phạm hay mục
đích khác.
1.1.3. Thẩm quyền và trình tự, thủ tục khởi tố vụ án hình sự
Các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ ángồm có CQĐT, các cơ quan
khác đƣợc giao tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS và Tòa án. CQĐT
khởi tố vụ án là chủ yếu hầu hết các vụ án hình sự. Các cơ quan khác đƣợc giao
tiến hành một số hoạt động điều tra chỉ khởi tố đối với những hành vi trong lĩnh
vực quản lý của mình. VKS chỉ ra quyết định khởi tố vụ án trong trƣờng hợp
hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của CQĐT và trong trƣờng hợp
khi có yêu cầu của Hội đồng xét xử (Điều 104). Hội đồng xét xử chỉ khởi tố vụ
án nếu qua việc xét xử tại phiên tòa phát hiện đƣợc tội phạm hoặc ngƣời phạm
tội mới cần đƣợc điều tra.
Trình tự khởi tố vụ án hình sự. căn cứ khởi tố vụ án hình sự là dấu hiệu
của tội phạm đƣợc xác định, khi đã xác định đƣợc dấu hiệu của tội phạm cơ
quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khi đã khởi tố vụ án
hình sự CQĐT đƣợc tiến hành các biện pháp điều tra, kể cả các biện pháp cƣỡng
chế tố tụng để nhanh chóng phát hiện tội phạm và ngƣời phạm tội. Nhƣng khi
chƣa xác định đƣợc rõ dấu hiệu của tội phạm, mọi hoạt động điều tra, áp dụng
các biện pháp cƣỡng chế đối với ngƣời bị nghi là thực hiện tội phạm đều có thể
dẫn đến oan sai, vi phạm quyền dân chủ của công dân đƣợc pháp luật bảo vệ. Vì

17


vậy trình tự thủ tục tiến hành các hoạt động trong giai đoạn khởi tố vụ án hình
sự phải đƣợc tiến hành một cách thống nhất và tuân thủ theo đúng những quy
định của pháp luật tố tụng hình sự. Trình tự thủ tục khởi tố vụ án hình sự đƣợc
tiến hành nhƣ sau:
- Tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.Một trong
những nguồn thông tin về tội phạm đó là tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị
khởi tố của các tổ chức xã hội, cơ quan nhà nƣớc và của mọi công dân. Thông
tin về tội phạm là yếu tố không thể thiếu cho việc phát hiện, xử lý tội phạm, vì
vậy nguồn thông tin về tội phạm đóng góp một phần rất quan trọng trong công
tác đấu tranh chống tội phạm. Đấu tranh chống tội phạm là cuộc đấu tranh mang
tính chất xã hội, đòi hỏi sự tham gia tích cực của toàn xã hội, công tác này đạt
đƣợc kết quả cao hay không phụ thuộc vào ý thức, trách nhiệm tham gia cung
cấp các thông tin về tội phạm cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Pháp luật tố
tụng hình sự nƣớc ta quy định trách nhiệm phát hiện và tố giác tội phạm là của
mọi cơ quan nhà nƣớc, mọi tổ chức và công dân (Điều 25 BLTTHS 2003).
Nhiệm vụ giải quyết tin báo tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố đƣợc
quy định cụ thể tại Điều 103 BLTTHS 2003: “CQĐT, VKS có trách nhiệm tiếp
nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và
kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nƣớc chuyển đến. VKS có trách nhiệm chuyển
ngay các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu
liên quan đã tiếp nhận cho CQĐT có thẩm quyền.” CQĐT và VKS là những cơ
quan chính có nhiệm vụ tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố do cá nhân, cơ quan, tổ chức chuyển đến.
Viện kiểm sát khi tiếp nhận các tin báo, tố giác và kiến nghị khởi tố phải
chuyển ngay hồ sơ kèm theo các tài liệu liên quan đến CQĐT có thẩm quyền để
tiến hành xác minh. CQĐT là đầu mối quản lý toàn bộ các tố giác, tin báo về tội
phạm (nguồn để khởi tố).Sau khi tiếp nhận tin báo, tố giác và kiến nghị khởi tố,
CQĐT tiến hành kiểm tra, xác minh.


18

- Kiểm tra, xác minh các tin tức về tội phạm.Thời hạn và nhiệm vụ xác
minh thông tin về tội phạm đƣợc quy định tại Điều 103 BLTTHS 2003. Theo
quy định của bộ luật thì chỉ có CQĐT mới đƣợc xác minh, xử lý tố giác, tin báo
về tội phạm. Trong thời hạn hai mƣơi ngày, kể từ ngày nhận đƣợc tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhƣng không quá hai tháng,CQĐT có nhiệm
vụ khẩn trƣơng chủ động áp dụng các biện pháp do luật định để xác minh, kiểm
tra nguồn tin, xem xét có hay không dấu hiệu của tội phạm để quyết định khởi tố
hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
Tất cả các thông tin về tội phạm đều phải đƣợc xem xét một cách kĩ càng
để xác định căn cứ khởi tố, tùy từng sự việc mà áp dụng những biện pháp thích
hợp để kiểm tra xác minh, nhƣng trong mọi trƣờng hợp phải chấp hành triệt để
những quy định của pháp luật.
- Quyết định khởi tố vụ án hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Quyết định
khởi tố vụ án hoặc không khởi tố vụ án hình sự là kết quả của quá trình tiếp
nhận, kiểm tra xác minh các tin tức về tội phạm, là những văn bản pháp lý do cơ
quan có thẩm quyền ban hành để xác định có hay không sự việc phạm tội. Các
quyết định này là cơ sở để bắt đầu một giai đoạn tố tụng mới hoặc kết thúc quá
trình tố tụng.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự là cơ sở để CQĐT tiến hành những
biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật. Quyết định khởi tố vụ án hình sự
đƣợc quy định cụ thể tại Điều 104 BLTTHS năm 2003.
Quyết định không khởi tố vụ án hình sự là văn bản pháp lý xác định
nguồn thông tin về tội phạm hoặc sự việc nào đó không có căn cứ khởi tố vụ án
hình sự. Quyết định không khởi tố vụ án hình sự đƣợc thực hiện khi có một
trong những căn cứ không đƣợc khởi tố vụ án hình sự quy định tại Điều 107
BLTTHS năm 2003. Những căn cứ không đƣợc khởi tố vụ án hình sự bao gồm:
Không có sự việc phạm tội; Hành vi không cấu thành tội phạm; Ngƣời thực hiện


19

hành vi nguy hiểm cho xã hội chƣa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Ngƣời mà
hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực
pháp luật; Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Tội phạm đã đƣợc đại
xá; Ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trƣờng hợp cần
tái thẩm đối với ngƣời khác.
Nhƣ vậy, để tránh bỏ lọt tội phạm, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
quy định rất cụ thể những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự. Các cơ quan có
thẩm quyền chỉ đƣợc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự khi có một trong
các căn cứ luật định.
1.1.4. Ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự đảm bảo cho việc phát hiện nhanh chóng mọi hành
vi phạm tội. Nếu các hoạt động tố tụng trong giai đoạn khởi tố vụ án không
đƣợc tiến hành một cách nhanh chóng, kịp thời đúng quy định của pháp luật sẽ
không phát hiện đƣợc đầy đủ dấu vết của tội phạm dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội
phạm hoặc oan sai, hơn nữa việc thu thập thông tin ban đầu trong giai đoạn khởi
tố không đầy đủ sẽ gây ra khó khăn cho các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử.
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu, là một giai đoạn tố tụng độc
lập, chƣa khởi tố vụ án thì chƣa đƣợc tiến hành các hoạt động điều tra. Giai đoạn
khởi tố nếu xác định không đúng tội danh, hành vi phạm tội, điều khoản BLHS
quy định sẽ ảnh hƣởng rất nhiều đến quá trình tố tụng tiếp theo cũng nhƣ việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo.
Khởi tố vụ án hình sự góp phần đảm bảo quyền tự do dân chủ của công
dân đƣợc pháp luật bảo hộ. Nếu không thực hiện đầy đủ các hoạt động tiếp
nhận, kiểm tra xác minh các nguồn thông tin về tội phạm một cách đầy đủ đúng
quy định của pháp luật mà tiến hành ngay các hoạt động điều tra, áp dụng các
biện pháp cƣỡng chế tố tụng sẽ dẫn đến tình trạng quyền tự do dân chủ của công
dân bị xâm phạm.


20

1.2. NHẬN THỨC CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN
HÌNH SỰ
1.2.1. Vai trò của Viện kiểm sát trong công tác phòng, chống tội
phạm nói chung
Tội phạm là một hiện tƣợng tiêu cực trong xã hội, mang thuộc tính xã
hội pháp lý, xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nƣớc và pháp luật, tội phạm
luôn chứa đựng trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nƣớc, chống đối lại xã hội,
đi ngƣợc lại với lợi ích chung của cộng đồng, xâm phạm đến trật tự xã hội,
quyền tự do và các lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy phòng ngừa và đấu
tranh chống tội phạm là những hoạt động không thể thiếu nhằm duy trì một xã
hội trật tự, ổn định.Nội dung của hoạt động phòng ngừa tội phạm rất đa dạng và
phong phú với sự tham gia của rất nhiều các chủ thể khác nhau bao gồm:
+ Các cơ quan tƣ pháp hình sự thông qua các hoạt động điều tra, truy tố
xét xử và áp dụng các chế tài hình sự đối với tội phạm và ngƣời phạm tội, qua
đó có tác dụng răn đe ngƣời phạm tội và cảnh tình những ngƣời không vững
vàng khác trong xã hội nhằm ngăn ngừa tội phạm. Các cơ quan tƣ pháp hình sự
trong quá trình thực hiện chức nãng nhiệm vụ của mình phát hiện những bất cập,
thiếu sót, những nguyên nhân phát sinh tội phạm, qua đó có những kiến nghị
nhằm ngăn ngừa tội phạm và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật
hình sự và tố tụng hình sự.
+ Các cơ quan lập pháp đƣa ra những quy phạm pháp luật chặt chẽ, là
hàng rào vững chắc để ngăn chặn cho ngƣời dân không có cơ hội phạm tội và
ngƣời phạm tội không có cơ hội tái phạm.
+ Các cơ quan quản lý nhà nƣớc, các tổ chức, công dân thì phòng ngừa
tội phạm không chỉ là quyền mà còn là trách nhiệm. Một xã hội trật tự an toàn là
một môi trƣờng sống lành mạnh, tạo ra cho mỗi ngƣời dân một cuộc sống bình

21


yên và hạnh phúc, vì vậy, mỗi ngƣời dân phải có ý thực tự bảo vệ mình thông
qua các hoạt động phòng ngừa tội phạm.
Nhƣ vậy, phòng ngừa tội phạm là hoạt động của các cơ quan, tổ chức và
công dân, thực hiện tổng thể các biện pháp tác động trực tiếp vào các nhóm
nguyên nhân của tội phạm để kiểm soát, hạn chế tác dụng và loại trừ dần những
nhóm nguyên nhân này nhằm không cho tội phạm xảy ra hoặc xảy ra ít đi.Phòng
ngừa tội phạm là hoạt động có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hoạt động kiểm
soát xã hội của Nhà nƣớc. Đó là phƣơng tiện để Nhà nƣớc kiểm soát tội phạm,
ngăn chặn tội phạm góp phần giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Đấu tranh chống tội phạm là hoạt động trấn áp tội phạm cụ thể đã xảy ra
nhƣng có tác động nhất định đến nguyên nhân của tội phạm
7
, vì vậy, hoạt động
đấu tranh chống tội phạm cũng có giá trị phòng ngừa tội phạm.Chủ thể của hoạt
động đấu tranh chống tội phạm là các cơ quan tƣ pháp hình sự. Thông qua các
hoạt động điều tra, truy tố và xét xử đối với tội phạm đã xảy ra trong thực tế truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội, suy cho cùng là việc áp dụng
chế tài hình sự, áp dụng biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc có tính nghiêm khắc
nhất đối với ngƣời phạm tội đó là hình phạt.
Mục đích cuối cùng và cao nhất của cả hai hoạt động này là nhằm ngăn
ngừa không cho tội phạm xảy ra. Để đạt đƣợc mục đích này, trong hoạt động
phòng ngừa tội phạm cần phải có những định hƣớng cụ thể nhƣ: Giáo dục con
ngƣời và xây dựng một xã hội có tính giáo dục; Phát triển kinh tế xã hội và việc
hạn chế, khắc phục mặt trái của quá trình phát triển đó; Chống tội phạm, xử lý vi
phạm, tăng cƣờng quản lý để ngăn hành vi phạm tội không xảy ra; Phòng ngừa
tội phạm từ phía nạn nhân và công dân nói chung.
Trong hoạt động đấu tranh chống tội phạm để đạt đƣợc mục đích trừng
trị ngƣời phạm tội, qua đó giáo dục họ và răn đe những ngƣời khác trong xã hội


7
Nguyễn Ngọc Hòa (2008), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. tr 256

22

nhằm ngăn ngừa tội phạm xảy ra thì việc xử lý các tội phạm và ngƣời phạm tội
của các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải chính xác kịp thời, đúng ngƣời đúng
tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan sai ngƣời vô tội. Thể hiện đƣợc tính
nghiêm minh của pháp luật và tính nghiêm khắc của chế tài hình sự.
Trong các cơ quan tiến hành tố tụng, VKS có vai trò rất quan trọng trong
việc bảo vệ công lý và trật tự chung trong xã hội, đƣợc Đảng và Nhà nƣớc giao
cho chức năng thực hành quyền công tố và kiểm soát hoạt động tƣ pháp. Với vị
trí, vai trò độc lập đó, VKS là cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, bảo vệ pháp chế XHCN. Chức năng hiến định của VKS
đƣợc quy định tại Điều 137, Hiến pháp 1992 và đƣợc thể chế tại Điều 1, Luật tổ
chức VKS nhân dân năm 2002.
Với tƣ cách là một cơ quan tiến hành tố tụng, VKS trực tiếp tham gia
đấu tranh chống tội phạm. Thông qua hoạt động của mình VKS có trách nhiệm
đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều đƣợc phát hiện, xử lý kịp thời, việc truy tố
đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật không để lọt tội phạm, không làm oan sai
ngƣời vô tội, đảm bảo mọi hoạt động tố tụng đều phải tuân thủ đúng quy định
của pháp luật.Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất đƣợc tham gia toàn bộ quá trình
tố tụng (từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử và thi hành án), vì vậy
VKS có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác phòng, chống tội phạm.
Hoạt động trực tiếp đấu tranh chống tội phạm của VKS xuyên suốt quá
trình từ phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với các tội phạm,
thông qua việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố kiểm sát điều tra
và kiểm sát xét xử các hành vi phạm tội và ngƣời phạm tội; CQĐT của VKStrực
tiếp khởi tố và điều tra các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà chủ thể của tội
phạm là cán bộ công chức của các cơ quan tƣ pháp.

Hoạt động phòng ngừa tội phạm củaVKS đƣợc thể hiện thông qua các
hoạt động kiểm sát cụ thể nhƣ: Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quảnlý giáo

23

dục ngƣời chấp hành án phạt tù. VKS ngoài việc kiểm sát việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn đối với ngƣời phạm tội đảm bảo chính xác, đúng quy định của
pháp luật còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các nhà tạm giữ, trại tạm
giam, trại giam, các cán bộ công chức trong các cơ quan này.
Hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm không chỉ đƣợc thể
hiện thông qua việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của ngành kiểm sát mà
còn đƣợc thông qua các hoạt động khác nhƣ: VKS thực hiên các chƣơng trình
quốc gia về phòng, chống tội phạm, tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật,
nghiên cứu khoa học, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, tổ chức các hội nghị
chuyên đề về phòng, chống các tội phạm cụ thể, nâng cao hiệu quả hoạt động
nghiệp vụ, thống kê dự báo tình hình tội phạm, xây dựng, hoàn thiện pháp luật.
Nhƣ vậy, VKS là cơ quan có vị trí rất quan trọng trong công tác phòng,
chống tội phạm. Không chỉ đóng vai trò là cơ quan trực tiếp tham gia đấu tranh
chống tội phạm, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tƣ
pháp và những ngƣời tham gia tố tụng là đảm bảo để hoạt động phòng ngừa tội
phạm và đấu tranh chống tội phạm đạt hiệu quả cao, đúng pháp luật.
1.2.2. Trách nhiệm của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
Viện kiểm sát tham gia vào tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự. Trong
giai đoạn khởi tố, VKS thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp
luật, bảo đảm mọi tội phạm đƣợc phát hiện phải đƣợc khởi tố, việc khởi tố vụ án
có căn cứ và hợp pháp.Để làm rõ nội dung vấn đề thực hành quyền công tố trong
khởi tố vụ án hình sự, trƣớc hết chúng ta cần làm rõ vấn đề: Quyền công tố và
thực hành quyền công tố.
“Công tố” theo từ điển Tiếng Việt có nghĩa là “Điều tra, truy tố và buộc
tội kẻ phạm tội trƣớc Tòa án”

8
.Hiện nay xung quanh vấn đề “Quyền công tố” có
nhiều quan điểm khác nhau.Có tác giả đƣa ra khái niệm quyền công tố nhƣ

8
Từ điển Tiếng Việt (1999), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

24

sau:Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện các chức năng do
luật TTHS quy định để kiểm sát tính hợp pháp của việc điều tra tội phạm, truy tố
và buộc tội người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật hình sự
cấm trước Tòa án nhằm góp phần ra được các bản án có căn cứ, công minh và
đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ các quyền tự do của công dân, cũng như các
lợi ích hợp pháp của xã hội và Nhà nước trong hoạt động tư pháp hình sự
9
.
Theo nội dung trên tác giả coi quyền công tố là một quyền năng, một hình thức
thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, dẫn
đến việc xem nhẹ bản chất của quyền công tố.
Có tác giả khác đƣa ra khái niệm quyền công tố nhƣ sau:Quyền công tố
là quyền nhân dân Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ
quan thực hiện (ở nước ta là VKS) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan có chức
năng thực hành quyền công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập tài
liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết
định truy tố bị can ra trước Toàn án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa
10
.

Khái niệm trên đã thể hiện đƣợc đầy đủ nội dụng của quyền công tố, quyền này
thuộc về Nhà nƣớc, đƣợc Nhà nƣớc giao cho VKS thực hiện để phát hiện tội
phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội, điều này đƣợc thể
hiện rõ tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 và Điều 23 BLTTHS năm 2003. Để
thực hiện tốt nhiệm vụ này, VKS phát có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy
đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và ngƣời phạm tội. Trên cơ sở đó
quyết định truy tố bị can ra trƣớc Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trƣớc phiên
tòa.

9
Lê Cảm (2001), “Những vấn đề lý luận về quyền công tố”, Tạp chí Khoa học pháp luật (4).

10
Lê Hữu Thể (Chủ biên), Đỗ Văn Đƣơng, Nông Xuân Trƣờng (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội. tr 40

×