Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có trong luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (977.97 KB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
*






NGUYỄN TRIỆU NHƯ THƯỜNG








TỘI HỢP PHÁP HÓA TIỀN, TÀI SẢN DO PHẠM TỘI
MÀ CÓ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM












LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









Hà Nội - 2008

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
*






NGUYỄN TRIỆU NHƯ THƯỜNG






TỘI HỢP PHÁP HÓA TIỀN, TÀI SẢN DO PHẠM TỘI
MÀ CÓ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM




Chuyên ngành: LUẬT HÌNH SỰ
Mã số: 60 38 40






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TSKH. LÊ VĂN CẢM







Hà Nội - 2008

2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 1
MỤC LỤC 2
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 4

PHẦN MỞ ĐẦU 6
1. Tính cấp thiết của đề tài 6
1.1. Cơ sở lý luận 6
1.2. Cơ sở thực tiễn 8
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu 9
2.1. Mục đích nghiên cứu 9
2.2. Phạm vi nghiên cứu 10
3. Phƣơng pháp nghiên cứu 10
4. Điểm mới về mặt khoa học 11
5. Cơ cấu của luận văn 11
CHƢƠNG 1 12
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI HỢP PHÁP HÓA TIỀN, TÀI SẢN DO
PHẠM TỘI MÀ CÓ 12
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu cơ bản của tội Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm
tội mà có 12
1.1.1. Khái niệm 12
1.1.2. Các dấu hiệu cơ bản của tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có 13
1.1.3. Khung pháp lý về tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có 20
1.2. Khái niệm và các dấu hiệu cơ bản của tội rửa tiền 21
1.2.1. Một số vấn đề chung về rửa tiền: 21
1.2.2. Các dấu hiệu cơ bản của tội rửa tiền 37
1.2.3. Khung pháp lý về đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền trong nền
kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay 40


3

CHƢƠNG 2 47
THỰC TRẠNG TỘI HỢP PHÁP HÓA TIỀN, TÀI SẢN DO PHẠM TỘI MÀ
CÓ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG VIỆT NAM 47

2.1. Điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam - môi trƣờng thuận lợi nảy sinh tội hợp pháp
hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có 47
2.2. Thực trạng tội phạm Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có trong nền
kinh tế thị trƣờng Việt Nam 51
2.2.1. Tình hình tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có trong nền kinh tế
thị trường Việt Nam 51
2.2.2. Thực tiễn giải quyết một số vụ án cụ thể 55
2.3. Phòng, chống rửa tiền trên thế giới và ở Việt Nam 56
2.3.1. Hợp tác phòng chống rửa tiền trên phạm vi quốc tế 56
2.3.2. Phòng, chống rửa tiền tại Việt Nam 62
CHƢƠNG 3 67
PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ PHÒNG,
CHỐNG RỬA TIỀN 67
3.1. Sự cần thiết phải thay đổi tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có
thành tội rửa tiền 67
3.2. Thay thế tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có bằng tội rửa tiền 67
3.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan đến tội rửa tiền 78
3.4. Tăng cƣờng hợp tác quốc tế trong đó có tham gia các Điều ƣớc quốc tế liên
quan đến phòng, chống tội phạm rửa tiền 82
3.5. Hoàn thiện các thiết chế thực thi hoạt động phòng, chống rửa tiền 85
KẾT LUẬN 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO 89

4
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT
TIẾNG ANH
TIẾNG VIỆT
74/2005/NĐ-CP


Nghị định số
74/2005/NĐ-CP ngày
07/06/2005 của Chính
phủ về phòng, chống
rửa tiền.
AML
Anti-money laundering

Chống rửa tiền
APG
The Asia/Pacific Group
on Money Laundering

Nhóm các nƣớc khu vực
châu Á - Thái Bình
Dƣơng về phòng chống
rửa tiền
Công ƣớc của Liên hợp
quốc về chống tham
nhũng
United Nations
Convention against
Corruption
Công ƣớc của Liên hợp
quốc về chống tham
nhũng năm 2003
Công ƣớc Palecmô
United Nations
Convention against
Transnational Organized

Crime
Công ƣớc của Liên hợp
quốc về chống tội phạm
có tổ chức xuyên quốc
gia năm 2000
Công ƣớc quốc tế về
chống tài trợ cho khủng
bố
International
Convention for the
Suppression of the
Financing of Terrorism
Công ƣớc quốc tế về
chống tài trợ cho khủng
bố năm 1999
Công ƣớc Strasbourg
Convention on
Laundering, Search,
Seizure and
Confiscation of the
Proceeds from Crime
Công ƣớc về rửa tiền,
khám xét, thu giữ và
tịch thu tiền, tài sản do
phạm tội mà có
Công ƣớc Viên
Convention against
Illicit Traffic inNarcotic
Drugs and Psychotropic
Substances

Công ƣớc của Liên hợp
quốc về chống buôn bán
bất hợp pháp ma túy và
chất hƣớng thần năm
1988.

5
FATF
The Financial Action
Task Force on Money
Laundering
Lực lƣợng đặc nhiệm tài
chính về chống rửa tiền
FIU
Financial Intelligence
Unit
Đơn vị Tình báo tài
chính
IMF
International Monetary
Fund
Qũy Tiền tệ Quốc tế
Interpol
International Police
Cảnh sát Quốc tế
UN
United Nations
Liên hợp quốc
USD
United States dollar

Đôla Mỹ
VND

Việt Nam đồng
WB
World Bank
Ngân hàng Thế giới
WTO
World Trade
Organization
Tổ chức thƣơng mại thế
giới

6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1 Về mặt lý luận
Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có - với bản chất là rửa tiền -
là một loại tội chƣa đƣợc nghiên cứu nhiều tại Việt Nam bởi lẽ:
1) Về mặt khoa học luật hình sự, lý luận về tội này còn mờ nhạt, chƣa có
hệ thống quan điểm nhất quán khiến nhiều ngƣời chƣa hiểu rõ và chƣa nhận
thức đầy đủ tính nguy hiểm của tội này đối với nền kinh tế đất nƣớc, từ đó
chƣa có cơ sở khoa học vững chắc trong việc giải quyết vụ án trên thực tiễn.
2) Về mặt pháp luật thực định, việc quy định tội danh Hợp pháp hóa tiền,
tài sản do phạm tội mà có ở Chƣơng XIX (Các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng) là chƣa phù hợp với tính chất kinh tế của tội này cũng
nhƣ chƣa phản ánh hết đƣợc sự nghiêm trọng, đa dạng, phức tạp và những tác
hại nguy hiểm của hoạt động rửa tiền đối với nền kinh tế. Do đó, việc nghiên
cứu và đƣa ra các lý do chuyển đổi cả về tên tội danh, vị trí của tội này trong
Bộ luật hình sự cùng các yếu tố về cấu thành tội phạm, hình phạt từ tội hợp

pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có sang tội Rửa tiền là rất cần thiết
nhằm giải quyết có hiệu quả tội này trong thực tế.
Mặt khác, trong quá trình hội nhập hiện nay, hệ thống pháp luật của Việt
Nam nói chung và pháp luật hình sự nói riêng cần tƣơng thích với hệ thống
pháp luật thế giới. Đặc biệt, những quy định về chống rửa tiền là một trong số
các nội dung pháp luật hết sức đƣợc các tổ chức quốc tế và các nƣớc quan tâm
trong quá trình chúng ta thực hiện các cam kết với Tổ chức Thƣơng mại thế
giới (WTO) cũng nhƣ các cam kết quốc tế đa phƣơng và song phƣơng khác,

7
trong quá trình các quốc gia và các tổ chức quốc tế xem xét hợp tác và viện
trợ cho Việt Nam. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự 1999 của Việt Nam chƣa quy
định về tội Rửa tiền mà chỉ quy định tội Hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm
tội mà có. Điều này khiến nhiều tổ chức quốc tế và các nƣớc nghĩ rằng Việt
Nam chƣa nhận thức đầy đủ tính nguy hiểm của hành vi rửa tiền, chƣa quan
tâm nhiều đến vấn đề xử lý tội rửa tiền và các tội phạm khác có liên quan. Vì
vậy, việc quy định tội rửa tiền thay cho tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm
tội mà có là rất cần thiết nhằm hình thiện cơ chế phù hợp để đấu tranh hiệu
quả với tội phạm rửa tiền đang ngày một phát triển đa dạng, tinh vi và để việc
hội nhập quốc tế đạt kết quả tốt.
Cần lƣu ý rằng pháp luật hình sự của phần lớn các nƣớc phát triển đều
quy định tội rửa tiền với các đặc điểm phức tạp, đa dạng hơn so với tội hợp
pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có trong Bộ luật hình sự 1999 về các
yếu tố nhƣ: cấu thành tội phạm, việc xem xét trách nhiệm hình sự của các loại
ngƣời đồng phạm trong tội rửa tiền, việc xử lý đối với các tội phạm tiền thân
hoặc có liên quan đến tội rửa tiền nhƣ tham nhũng, buôn lậu, mại dâm, cờ
bạc, tội phạm công nghệ cao v.v. Trong khi đó, Điều 251 Bộ luật hình sự
1999 chỉ quy định tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có mà không
quy định cụ thể các vấn đề trên. Vì vậy, Bộ luật hình sự 1999 không làm toát
lên đƣợc mức độ nghiêm trọng của tội này và khiến cho các cơ quan thực thi

pháp luật có thể bỏ lọt tội phạm, ngƣời phạm tội có liên quan. Điều này đòi
hỏi phải sửa đổi Bộ luật hình sự 1999 theo hƣớng thay thế tội hợp pháp hóa
tiền, tài sản do phạm tội mà có bằng tội rửa tiền cho phù hợp với pháp luật,
thông lệ quốc tế và phù hợp với tình hình thực tiễn.
Rửa tiền là một trong những loại tội phạm tài chính đang ngày càng gia
tăng trên thế giới và tại Việt Nam. Đây là loại tội phạm phái sinh, có tính toàn

8
cầu và đe dọa nghiêm trọng sự phát triển lành mạnh của các nền kinh tế, thể
hiện qua các khía cạnh sau:
1) Hoạt động rửa tiền ngăn cản tiến trình hội nhập và tạo ra nguy cơ nền
kinh tế bị cô lập, bị trừng phạt bởi pháp luật và cộng đồng quốc tế. Điều này
đặc biệt nguy hiểm bởi Việt Nam hiện nay vẫn đang dựa đáng kể vào các
nguồn vốn phát triển chính thức (ODA) và vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài.
2) Hoạt động rửa tiền hậu thuẫn cho nhiều loại tội phạm, trong đó có
tham nhũng và các tội phạm liên quan đến chức vụ phát triển.
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, thuật ngữ rửa tiền thể hiện đầy đủ các hành vi
và tính chất nguy hiểm hơn so với thuật ngữ hợp pháp hóa tiền, tài sản do
phạm tội mà có đang đƣợc Bộ luật hình sự 1999 sử dụng hiện nay, đòi hỏi
phải sớm thay thế tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có bằng tội
rửa tiền.
1.2. Về mặt thực tế
Việt Nam là nơi có nhiều điều kiện lý tƣởng để tội rửa tiền xâm nhập,
tồn tại và phát triển. Nếu nó xâm nhập vào sự lành mạnh của hệ thống tài
chính thì sớm muộn sẽ làm sụp đổ hệ thống này, phá vỡ nền kinh tế của đất
nƣớc. Vì vậy, cần thiết phải quy định tội rửa tiền để ngăn chặn và xử lý hiệu
quả các hành vi rửa tiền phát sinh trong nƣớc, để Việt Nam không trở thành
nơi các tổ chức tội phạm quốc tế lợi dụng làm địa điểm tẩy rửa tiền, tài sản có
nguồn gốc bất hợp pháp.
Các tội phạm tạo ra các nguồn tiền, thu nhập bất hợp pháp nhƣ tham

nhũng, buôn lậu, cờ bac, mại dâm ở Việt Nam còn nhiều và việc ngăn chặn
chƣa đạt đƣợc những kết quả cần thiết. Vì vậy, những khoản thu nhập này sẽ
có nhu cầu đƣợc “làm sạch” và do đó sẽ làm gia tăng hoạt động rửa tiền ở
Việt Nam. Ngƣợc trở lại, nếu hoạt động rửa tiền không đƣợc xử lý kịp thời và

9
đúng mức sẽ tạo điều kiện cho các loại tội phạm nguồn nói trên có điều kiện
gia tăng ở Việt Nam.
Việt Nam chƣa có kinh nghiệm trong đấu tranh phòng và chống các hành
vi rửa tiền. Do đó, cần quy định tội rửa tiền trong Bộ luật hình sự nhằm tăng
cƣờng cảnh giác với các hình thức của tội phạm rửa tiền và nâng cao kinh
nghiệm trong đấu tranh phòng, chống loại tội này.
Với việc hội nhập nền kinh tế thế giới và là thành viên của nhiều tổ chức
quốc tế lớn, Việt Nam phải cam kết thực hiện nhiều vấn đề, trong đó có việc
chỉnh sửa hệ thống pháp luật, tham gia vào các tổ chức quốc tế trong đó có tổ
chức về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố nhƣ FATF. Nếu không tham gia
vào cuộc chiến mang tính quốc tế về chống rửa tiền (và cả cuộc chiến chống
việc sử dụng tiền “bẩn” để tài trợ cho khủng bố), Việt Nam sẽ mất đi sự tôn
trọng của cộng đồng quốc tế và là đối tƣợng bị áp dụng nhiều biện pháp gây
bất lợi cho nền kinh tế. Việc quy định tội rửa tiền thay cho tội hợp pháp hóa
tiền, tài sản do phạm tội mà có là một trong những cơ sở tất yếu giúp Việt
Nam thực hiện các cam kết quốc tế trong hội nhập và toàn cầu hóa.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài luận văn thạc sỹ này là:
1) Nghiên cứu, phân tích các khía cạnh pháp lý của tội hợp pháp hóa
tiền, tài sản do phạm tội mà có nhƣ cấu thành tội phạm, hình phạt, trách
nhiệm hình sự v.v
2) Nghiên cứu thực trạng tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà
có và thực tiễn giải quyết các vụ án này tại Việt Nam những năm qua.


10
3) Làm rõ bản chất, mức độ nguy hiểm và những ảnh hƣởng tiêu cực của
hoạt động hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có đối với nền kinh tế thị
trƣờng Việt Nam. Từ đó, tác giả phân tích, so sánh với các dấu hiệu tƣơng tự
trong tội Rửa tiền, làm bật ƣu điểm của việc quy định trong Bộ luật hình sự
tội rửa tiền so với tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có để thấy sự
cần thiết phải thay thế tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có bằng
tội rửa tiền.
4) Xây dựng mô hình lý luận của kiến giải lập pháp về cấu thành tội
phạm tội Rửa tiền thay cho tội Hợp pháp hóa tiền hoặc tài sản do phạm tội mà có.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tội hợp pháp hoá
tiền, tài sản do phạm tội mà có tại Việt Nam từ khi ban hành Bộ luật hình sự
1999 đến nay và xu hƣớng phát triển loại tội này trong thời gian tới.
- Về không gian: nghiên cứu tội Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội
mà có tại Việt Nam trong sự so sánh, liên hệ với loại tội này trong pháp luật
hình sự một số nƣớc trên thế giới.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn thạc sỹ này sử dụng đồng bộ các phƣơng pháp nghiên cứu là:
1) Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp
2) Phƣơng pháp so sánh
3) Phƣơng pháp lịch sử

11
4. Điểm mới về mặt khoa học
Nếu đề tài đƣợc thực hiện thành công và đạt các mục đích đề ra sẽ có
đóng góp mới về mặt khoa học nhƣ sau:
- Làm rõ bản chất của tội rửa tiền.
- Xây dựng mô hình lý luận về tội rửa tiền thay cho tội hợp pháp hóa

tiền, tài sản do phạm tội mà có trong Bộ luật hình sự của Việt Nam.
- Góp phần hoàn thiện khung pháp lý về phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam.
5. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 03 chƣơng với bố cục nhƣ sau:
Phần mở đầu
Chƣơng 1: 34 trang, gồm 02 mục
Chƣơng 2: 20 trang, gồm 04 mục
Chƣơng 3: 15 trang, gồm 04 mục

12
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI HỢP PHÁP HÓA TIỀN, TÀI SẢN
DO PHẠM TỘI MÀ CÓ
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu cơ bản của tội Hợp pháp hóa tiền, tài
sản do phạm tội mà có
1.1.1. Khái niệm
Hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có là một tội mới, đƣợc quy
định lần đầu tiên trong Bộ luật hình sự 1999 tại Điều 251. Điều luật quy định
nhƣ sau:
Điều 251: Tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có
1. Người nào thông qua các nghiệp vụ tài chính, ngân hàng hoặc các
giao dịch khác để hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có hoặc sử dụng
tiền, tài sản đó vào việc tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc các hoạt
động kinh tế khác, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba
năm đến mười năm:
a. Có tổ chức;
b. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c. Phạm tội nhiều lần.

3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ tám
năm đến mười lăm năm.

13
4. Người phạm tội có thể bị tịch thu tài sản, phạt tiền đến ba lần số tiền
hoặc giá trị tài sản được hợp pháp hóa, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Xét một cách tổng quát, điều luật trên rất chung chung, chỉ quy định hai
nhóm hành vi khách quan mà không mô tả đƣợc các hành vi cụ thể của tội
hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có, và hoàn toàn chƣa đƣa ra khái
niệm hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có.
Hai nhóm hành vi khách quan của tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm
tội mà có theo Điều 251 Bộ luật hình sự 1999 gồm:
- Sử dụng các nghiệp vụ tài chính, ngân hàng hoặc các giao dịch khác để
hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có, hoặc
- Sử dụng tiền, tài sản do phạm tội mà có vào việc tiến hành các hoạt
động kinh doanh hoặc các hoạt động kinh tế khác.
Theo quan điểm của tác giả, hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà
có là việc một ngƣời thông qua bất kỳ thức giao dịch nào để làm cho tiền, tài
sản có nguồn gốc bất hợp pháp trở thành tiền, tài sản hợp pháp. Các hình thức
giao dịch này có thể là giao dịch dân sự thông thƣờng hoặc giao dịch mang
tính chất kinh tế, thƣơng mại. Do đó, với quan điểm trên, hành vi khách quan
của tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có sẽ rộng hơn so với hành
vi khách quan đƣợc quy định tại Điều 251 của Bộ luật hình sự 1999 hiện nay.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội Hợp pháp hóa tiền, tài sản
do phạm tội mà có
Mỗi tội phạm đều có các dấu hiệu cơ bản bao gồm: chủ thể, khách thể,
mặt chủ quan, mặt khách quan của tội phạm.

14

Chủ thể của tội phạm là con ngƣời cụ thể có năng lực trách nhiệm hình sự và
đạt độ tuổi luật định đã thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra, ở một số tội nhất
định còn đòi hỏi chủ thể phải có các dấu hiệu khác thể hiện những đặc điểm nhất
định của chủ thể. Bất cứ tội phạm nào cũng phải có chủ thể của tội phạm.
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại. Bất cứ
hành vi phạm tội nào cũng đều gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho một
số quan hệ xã hội nhất định đƣợc luật hình sự bảo vệ. Không có sự xâm hại
quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ thì không có tội phạm.
Mặt chủ quan của tội phạm là những biểu hiện tâm lý bên trong của tội
phạm bao gồm: lỗi, mục đích và động cơ phạm tội. Bất cứ tội phạm cụ thể
nào cũng phải là hành vi có lỗi (cố ý hoặc vô ý). Động cơ và mục đích phạm
tội là nội dung biểu hiện của mặt chủ quan ở một số tội nhất định.
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm
gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả cũng nhƣ các điều kiện bên ngoài khác của tội
phạm (nhƣ công cụ, phƣơng tiện, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội v.v ).
Không có biểu hiện bên ngoài của tội phạm thì cũng không có tội phạm.
Nghiên cứu các dấu hiệu cơ bản của tội “Hợp pháp hoá tiền, tài sản do
phạm tội mà có” chính là nghiên cứu bốn yếu tố: chủ thể, khách thể, mặt chủ
quan, mặt khách quan của tội này.
1) Chủ thể:
Chủ thể của tội hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có là chủ thể
đặc biệt. Tính đặc biệt đƣợc thể hiện trƣớc tiên ở chỗ: Hợp pháp hoá tiền, tài
sản do phạm tội mà có là một loại tội phái sinh, tức là trƣớc khi trở thành chủ

15
thể của tội phạm này, ngƣời phạm tội phải là chủ thể của tội khác. Họ phải là
ngƣời đã thực hiện hành vi phạm tội khác, có đƣợc tiền, tài sản từ việc thực
hiện tội phạm đó và ngƣời đó đã sử dụng các biện pháp nghiệp vụ về kinh tế,
thƣơng mại, tài chính, ngân hàng hoặc các giao dịch khác để làm cho đồng

tiền có đƣợc từ hoạt động phạm tội trƣớc đây của mình trở thành đồng tiền
hợp pháp.
Cần lƣu ý yếu tố chủ thể là dấu hiệu cơ bản để phân biệt tội hợp pháp
hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có với tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do
ngƣời khác phạm tội mà có quy định tại Điều 250, Bộ luật hình sự 1999. Nếu
tiền, tài sản đƣợc hợp pháp hoá là tiền tài sản do chính ngƣời hợp pháp hóa
phạm tội mà có thì hành vi hợp pháp hoá cấu thành tội hợp pháp hoá tiền, tài
sản do phạm tội mà có quy định tại Điều 251, Bộ luật hình sự 1999. Còn nếu
tiền, tài sản đó là do ngƣời khác phạm tội mà có thì ngƣời hợp pháp hoá
không phạm tội này mà phạm tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do ngƣời
khác phạm tội mà có quy định tại Điều 250, Bộ luật hình sự 1999.
Ngƣời phạm tội hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có phải là
ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định. Theo quy
định tại Điều 12 và Điều 251, Bộ luật hình sự 1999, ngƣời phạm tội hợp pháp
hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có là ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự
và từ đủ 14 tuổi trở lên nếu thực hiện hành vi quy định ở khoản 2, khoản 3; từ
đủ 16 tuổi trở lên nếu thực hiện hành vi quy định ở bất kỳ khoản nào của Điều
251, Bộ luật hình sự 1999. Nhƣ vậy, có thể xảy ra trƣờng hợp có ngƣời là chủ
thể của tội phạm khác (chủ thể của tội phạm nguồn, tức tội phạm đã làm phát
sinh tiền, tài sản cần hợp pháp hóa) nhƣng lại không đủ điều kiện là chủ thể
của tội phạm này do chƣa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo tội này. Ví
dụ: Nguyễn Văn A 15 tuổi thực hiện hành vi cƣớp tài sản (lỗi cố ý) đƣợc

16
khoảng 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng). A mang số tiền này gửi vào tài
khoản ATM ở một ngân hàng, sau đó rút ra nhƣ một khoản tiền “sạch” thì
hành vi của A chỉ bị xử lý theo tội phạm nguồn là cƣớp tài sản chứ không bị
xử lý theo tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có do chƣa đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự về tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có.
2) Khách thể:

Tội hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có xâm phạm trật tự quản
lý nhà nƣớc đối với tiền, tài sản do phạm tội mà có.
Tiền, tài sản do phạm tội mà có trong khách thể của tội này không phải
tất cả tiền, tài sản có nguồn gốc từ tội phạm nói chung mà là tiền, tài sản do
chính chủ thể của tội hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có có đƣợc từ
hoạt động phạm tội trƣớc đó của họ. Nếu tiền, tài sản có đƣợc từ việc phạm
tội của ngƣời khác thì không thuộc khách thể của tội này mà là khách thể của
tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có đƣợc quy
định tại Điều 250, Bộ luật hình sự 1999.
3) Mặt chủ quan:
Lỗi của ngƣời phạm tội hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có là
lỗi cố ý. Ngƣời phạm tội có đƣợc tiền, tài sản từ hoạt động phạm tội trƣớc đó
của mình, biết rõ hành vi hợp pháp hoá tiền, tài sản có đƣợc từ hoạt động
phạm tội là nguy hiểm cho xã hội và bị luật hình sự cấm, thấy trƣớc đƣợc hậu
quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi hợp pháp hoá… của mình gây nên
nhƣng họ vẫn mong muốn thực hiện đƣợc hành vi cũng nhƣ mong muốn
xảy ra hậu quả là tiền, tài sản do phạm tội mà có sẽ trở thành tiền, tài sản
hợp pháp.

17
Khi thực hiện hành vi phạm tội này, ngƣời phạm tội luôn có mục
đích làm cho tiền, tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp trở thành tiền, tài
sản hợp pháp. Do đó, mục đích là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội
phạm này, không phụ thuộc vào việc ngƣời phạm tội có đạt đƣợc mục
đích của mình hay không.
4) Mặt khách quan:
- Hành vi khách quan
Điều 251 Bộ luật hình sự 1999 không nêu cụ thể và đầy đủ các hành vi
hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có mà chỉ quy định rất chung chung
hai nhóm hành vi sau:

+ Thông qua các nghiệp vụ tài chính, ngân hàng hoặc các giao dịch khác
để hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có, hoặc
+ Sử dụng tiền, tài sản do phạm tội mà có vào việc tiến hành các hoạt
động kinh doanh hoặc hoạt động kinh tế khác.
Nhóm hành vi thứ nhất đƣợc hiểu là loại hành vi làm cho tiền, tài sản có
nguồn gốc từ tội phạm đƣợc trở thành tiền, tài sản hợp pháp, cụ thể là ngƣời
phạm tội sử dụng các nghiệp vụ ngân hàng, tài chính hoặc các giao dịch nhƣ
gửi và rút tiền, chuyển khoản, cho vay, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh v.v để
làm cho tiền, tài sản có nguồn gốc bất hợp pháp trở thành tiền, tài sản có
nguồn gốc hợp pháp. Hay nói cách khác là ngƣời phạm tội mƣợn tay các thể
chế tài chính hợp pháp để luân chuyển và làm thay đổi nguồn gốc số tiền, tài
sản bất hợp pháp của mình, đƣa nó trở thành tiền, tài sản hợp pháp.
Ở nhóm hành vi thứ hai: “Sử dụng tiền, tài sản do phạm tội mà có vào
việc tiến hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động kinh tế khác” là việc

18
ngƣời phạm tội sử dụng tiền, tài sản có đƣợc từ hoạt động tội phạm vào các
hoạt động kinh doanh, thƣơng mại nhƣ thành lập doanh nghiệp, đầu tƣ vào
các dự án, đầu tƣ ra nƣớc ngoài có khả năng sinh lời để làm cho tiền, tài sản
đó trở thành tiền, tài sản hợp pháp. Nói cách khác, đây chính là hoạt động tái
đầu tƣ nguồn tiền bất hợp pháp của ngƣời phạm tội vào chu trình kinh doanh
có bề ngoài hợp pháp để làm sạch hóa đồng tiền “bẩn”.
Việc Bộ luật hình sự 1999 chỉ quy định hai nhóm hành vi nhƣ trên đã
bộc lộ nhiều hạn chế nhƣ: quy định các hành vi khách quan của tội phạm còn
chung chung, chƣa bao quát hết đƣợc các hình thức, biến thái của hoạt động
rửa tiền trên thực tế, không miêu tả các phƣơng thức thực hiện hành vi tẩy rửa
tiền, không quy định rõ ngƣời nào thực hiện hành vi hợp pháp hóa tiền, tài sản
do phạm tội mà có sẽ bị trừng trị. Điều này có nghĩa là bất kỳ ngƣời nào thực
hiện bất kỳ hành vi nào - dù là hành vi hợp pháp hay bất hợp pháp - nhằm
mục đích hợp pháp hóa tiền, tài sản đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội

hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có. Trong khi đó, pháp luật một số
nƣớc trên thế giới có sự phân biệt điều chỉnh giữa những hành vi về bản chất
là bất hợp pháp và những hành vi về bản chất là hợp pháp.
Trong thực tế việc tẩy rửa tiền có thể đƣợc thực hiện thông qua những
hành vi về bản chất là bất hợp pháp nhƣ lập hóa đơn khống, hóa đơn giả, khai
báo gian dối v.v Tuy nhiên một số bọn tẩy rửa tiền lại thực hiện những hành
vi về bản chất là hành vi hợp pháp, các hành vi đó chỉ bất hợp pháp vì ngƣời
thực hiện hành vi đó có mục đích bất hợp pháp. Ví dụ nhƣ trong lĩnh vực
ngân hàng, các ngân hàng nói chung có nghĩa vụ ghi chép các sổ sách kế toán,
thực hiện các giao dịch đối với khách hàng nhƣ giao và nhận tiền v.v Một
ngân hàng ghi một khoản tiền vào tài khoản của khách hàng là hoàn toàn hợp

19
pháp nhƣng hành vi đó sẽ trở nên bất hợp pháp nếu ngân hàng biết rằng tiền
kia có nguồn gốc từ tội phạm vẫn nhận vào tài khoản.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự 1999, tẩy rửa tiền
là các hành vi thông qua các nghiệp vụ tài chính, ngân hàng hoặc các giao
dịch khác để hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có. Nhƣ vậy, điều luật
chỉ xử lý một ngƣời khi ngƣời đó rửa tiền bằng các nghiệp vụ tài chính, ngân
hàng hoặc một giao dịch nào đó. Điều luật không quy định rõ phần mở rộng
nhƣ “tẩy rửa tiền là các hành vi thông qua các nghiệp vụ tài chính, ngân hàng
và bất kỳ hình thức nào khác …” nên khó xử lý đối với ngƣời có hành vi tƣ
vấn, hỗ trợ tẩy rửa tiền mà không thực hiện các giao dịch mang tính kinh tế,
tài chính. Trên thực tế có rất nhiều hình thức rửa tiền, phần lớn các hoạt động
rửa tiền đƣợc thực hiện qua các giao dịch tài chính và các giao dịch mang tính
chất kinh tế. Nhƣng có nhiều hành vi rửa tiền không phải là những giao dịch
tài chính hay kinh tế nhƣ các chuyên gia pháp luật thực hiện tƣ vấn trong quá
trình tẩy rửa tiền, hỗ trợ việc tẩy rửa tiền. Đó là những ngƣời tham gia tích
cực vào quá trình tẩy rửa tiền mà không thực hiện một giao dịch tài chính,
hoạt động kinh tế hay ngân hàng nào nên theo quy định tại Điều 251 Bộ luật

hình sự 1999 thì có thể họ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hợp
pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có.
5) Hình phạt
Theo quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự 1999, tội hợp pháp hóa tiền,
tài sản do phạm tội mà có có ba (3) khung hình phạt: khung cơ bản từ một
năm đến năm năm tù; khung tăng nặng từ ba năm đến mƣời năm tù hoặc từ
tám năm đến mƣời lăm năm tù. Ngoài ra, ngƣời phạm tội còn có thể bị áp
dụng hình phạt bổ sung nhƣ tịch thu tài sản, phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

20
Theo quan điểm của trƣờng Đại học Luật Hà Nội [24], hành vi hợp pháp
hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có đƣợc hiểu là hành vi (bằng các giao dịch
cụ thể nhất định) tạo những cơ sở pháp lý cho những thu nhập bất hợp pháp
thông qua các hoạt động cho vay, đầu tƣ, liên doanh, liên kết v.v sau:
+ Đầu tƣ ra nƣớc ngoài để sản xuất kinh doanh
+ Liên doanh, liên kết với nƣớc ngoài
+ Vay hoặc cho vay tiền, tài sản
+ Làm đại lý, đại diện cho các công ty
+ Làm các dịch vụ chuyển tiền
Những hành vi trên tuy đã mô tả chi tiết hơn nội dung điều luật nhƣng
chƣa chính thức đƣợc ghi nhận trong các văn bản pháp luật và chƣa thực sự
đầy đủ, chƣa phản ánh hết bản chất của tội này.
6) Hậu quả: Đối với một số tội nhất định thì hậu quả là yếu tố bắt buộc
phải có trong cấu thành tội phạm. Đối với tội hợp pháp hoá tiền, tài sản do
phạm tội mà có, yếu tố hậu quả không quy định là yếu tố định tội hoặc định
khung hình phạt.
7) Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan với hậu quả của tội
phạm: việc thực hiện các giao dịch liên quan đến tiền, tài sản có nguồn gốc
bất hợp pháp phải có mối quan hệ và là nguyên nhân làm cho tiền, tài sản đó

có nguồn gốc hợp pháp.
1.1.3. Khung pháp lý về tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội
mà có

21
Hiện nay, tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có đƣợc quy
định duy nhất tại Điều 251 Bộ luật hình sự 1999, chƣa có văn bản quy phạm
pháp luật nào hƣớng dẫn thi hành về tội này. Một số văn bản hƣớng dẫn thi
hành Bộ luật hình sự 1999 nhƣ Thông tƣ liên tịch số 02/2001/TTLT-
TANDTC -VKSNDTC-BCA-BTP của Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Tƣ pháp về việc hƣớng dẫn áp dụng
một số quy định tại Chƣơng XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật
hình sự 1999; Nghị quyết 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về hƣớng dẫn áp dụng một số quy định
của các Điều 139,193,194,278, 279 và 289 Bộ luật hình sự 1999; Nghị quyết
số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/04/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao về hƣớng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật hình sự
không có bất kỳ một hƣớng dẫn cụ thể nào về việc thi hành về tội tội Hợp
pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có.
1.2. Một số vấn đề chung về khái niệm và các dấu hiệu cơ bản của tội
Rửa tiền
1.2.1. Một số vấn đề chung về rửa tiền:
* Nguồn gốc thuật ngữ rửa tiền
Rửa tiền (tiếng Anh: Money laundering) - là cách nói nhằm chỉ sự
"làm sạch đồng tiền" phù hợp theo luật pháp, là hoạt động giao dịch tài
chính đặc biệt để giấu tên, nguồn và nơi đến của đồng tiền, nó là hoạt
động chính của kinh tế ngầm. Nói một cách dễ hiểu, rửa tiền là hành vi
che giấu hoặc đánh lừa việc nhận biết tiền do phạm tội mà có, làm cho
tiền này có bề ngoài hợp pháp.


22
Rửa tiền không phải là một hiện tƣợng mới. Theo nhiều sử gia, thƣơng
nhân Trung Quốc đã biết cách “rửa tiền” từ hơn ba ngàn năm trƣớc để tránh
thuế của triều đình.
Tuy nhiên, thuật ngữ "rửa tiền" chỉ chính thức ra đời ở thế kỷ XX, xuất
phát từ các Mafia Mỹ trong khoảng thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế
giới thứ nhất và thứ hai. Ở thời điểm này, các gangster Mỹ thu đƣợc nhiều
tiền từ các hoạt động phạm pháp nhƣ mại dâm, cờ bạc, tống tiền, buôn lậu,
bảo kê v.v và họ đã đƣa các đồng tiền bẩn này vào kinh doanh hợp pháp
dƣới các hình thức dịch vụ thu tiền mặt nhƣ cho thuê máy giặt hoặc gửi tiền
vào các ngân hàng uy tín rồi rút ra. Năm 1973, thuật ngữ "rửa tiền" đƣợc đƣa
lên báo chí nƣớc Mỹ xung quanh vụ Watergate [42].
Với vai trò là một thuật ngữ pháp lý, "rửa tiền" lần đầu tiên xuất hiện tại
Mỹ vào năm 1982 khi Tòa án Mỹ xử vụ án rửa tiền số 551F Supp.314 ở New
York. Sau đó, thuật ngữ "rửa tiền" xuất hiện khắp nơi trên thế giới.
Nếu nhƣ trong quá khứ, rửa tiền đã đƣợc áp dụng chỉ cho những giao
dịch tài chính có quan hệ với tổ chức tội phạm thì ngày nay định nghĩa đó
đƣợc mở rộng bởi những ngƣời nắm giữ điều khiển chính phủ để kiểm tra bất
kỳ giao dịch tài chính nào mà phát sinh tài sản hay một giá trị nhƣ kết quả của
một hành vi phạm pháp bao gồm hoạt động trốn thuế hay kế toán sai.
Hoạt động bất hợp pháp của rửa tiền hiện nay đƣợc đánh giá nhƣ hoạt
động tiềm năng của những cá nhân, doanh nghiệp lớn hay nhỏ, những viên
chức hƣ hỏng, những thành viên của tổ chức phạm tội có tổ chức, nhƣ nhà
phân phối chất ma túy hay tổ chức mafia.
Đến nay, hoạt động rửa tiền đã bùng nổ với toàn cầu hóa, gây nhiều hậu
quả nghiêm trọng về kinh tế và xã hội, đặc biệt ở các nƣớc đang phát triển
hoặc chuyển tiếp. Tiến độ mở cửa kinh tế ở hầu hết các nƣớc đã tăng vọt, nhất
là 10-15 năm gần đây (từ khi Tổ chức Thƣơng mại Quốc tế ra đời vào năm

23

1994). Các thị trƣờng tài chính (đặc biệt là vốn) trở nên thông thoáng hơn. Số
lƣợng tiền lƣu hành toàn cầu đã tăng gấp ba (từ 6.800 tỷ USD năm 1990 lên
đến 19.900 tỷ năm 2005), mức độ phức tạp cũng tăng lên. Một cách tất yếu,
càng nhiều loại hình dịch vụ tài chính ra đời thì càng lắm cơ hội và cách thức
để chuyển tiền phi pháp, hoặc đƣa tiền bẩn vào luồng tiền sạch.
* Đặc điểm của hoạt động rửa tiền và tác động của rửa tiền tới nền kinh
tế - xã hội
Khái niệm “tiền” trong thuật ngữ "rửa tiền" cần đƣợc hiểu theo nghĩa
rộng, bao gồm cả tiền và tài sản do phạm tội mà có chứ không phải chỉ bao
gồm tiền là phƣơng tiện lƣu thông, thanh toán.
Dƣới khía cạnh tài chính hay pháp lý, rửa tiền đều là hành vi che giấu
hoặc đánh lừa việc nhận biết tiền do phạm tội mà có, làm cho tiền này có bề
ngoài hợp pháp.
- Chu trình rửa tiền bao gồm ba khâu sau:
+ Nạp: Tài sản tội ác đi vào hệ thống tài chính. Tiền bẩn thƣờng đƣợc
chia nhỏ để ít gây sự chú ý. Đây là lúc dễ bị bại lộ nhất. Pháp luật của những
nƣớc có luật chống rửa tiền thƣờng quy định những hình phạt hình sự và chế
tài dân sự nghiêm khắc đối với tội rửa tiền. Ở các nƣớc này các tổ chức tài
chính ngày càng cảnh giác với các dấu hiệu phạm tội và có nghĩa vụ báo cáo
các giao dịch nghi vấn với cơ quan chống rửa tiền có thẩm quyền.
+ Tẩy rửa: tiền bẩn đƣợc phân chia theo những tầng cấp giao dịch tài
chính với các mức độ phức tạp khác nhau nhằm mục đích cuối cùng là làm
cho rất khó hoặc không thể tìm ra dấu vết dẫn về nguồn gốc “bẩn” của tiền.
Thông thƣờng, một loạt giấy tờ, chứng từ hợp pháp đƣợc tạo ra theo các quy

24
định khác nhau, nhất là dựa trên hiểu biết sâu sắc về quy chế bảo mật của
ngân hàng.
+ Trà trộn: Sau khi đã cho tiền chạy loanh quanh theo những đƣờng
phức tạp, tiền bẩn đƣợc thu gom và trà trộn vào nền kinh tế hợp pháp nhƣ

mua cổ phiếu, hoạt động kinh doanh, mua bất động sản hoặc mua các thứ xa
xỉ v.v
Trong quá trình tẩy rửa tiền, mối quan tâm đầu tiên của ngƣời tẩy rửa
tiền là yếu tố an toàn. Bọn tội phạm tẩy rửa tiền sẵn sàng chọn phƣơng án an
toàn nhất ngay cả khi phƣơng án đó không đảm bảo lợi ích kinh tế, thậm chí
chúng có thể chấp nhận thua thiệt. Mối quan tâm của chúng là làm sao để
tránh bị phát hiện. Bằng mọi cách, chúng làm cho hoạt động tẩy rửa tiền có vẻ
bề ngoài phù hợp với yêu cầu và những quy định pháp luật của quốc gia nơi
chúng thực hiện tẩy rửa tiền.
Chu trình trên chỉ là những miêu tả mang tính lý thuyết về một mô hình
tẩy rửa tiền. Trên thực tế, có những vụ tẩy rửa tiền đƣợc thông qua những
giao dịch kinh tế hết sức đơn giản và có những vụ lại đƣợc thực hiện thông
qua những thủ đoạn hết sức tinh vi khác. Tùy theo từng trƣờng hợp, rửa tiền
có thể tiến hành trực tiếp từ công đoạn một, bỏ qua các công đoạn trung gian
để đến công đoạn ba. Ví dụ nhƣ một ngƣời vừa bán ma túy xong lấy ngay
khoản tiền đó để đầu tƣ trực tiếp vào một quán rƣợu bia, nơi lƣu chuyển một
lƣợng tiền mặt khá lớn.

×