ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ LAN ANH
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ LỖI VÔ Ý TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ LAN ANH
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ LỖI VÔ Ý TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Quốc Toản
HÀ NỘI - 2011
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các sơ đồ
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỖI VÔ Ý TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
6
1.1.
Khái niệm, bản chất, điều kiện và các dạng lỗi vô ý
6
1.1.1.
Khái niệm và bản chất của lỗi vô ý
6
1.1.2.
Các điều kiện của lỗi vô ý
11
1.1.3.
Các dạng của lỗi vô ý
13
1.2.
Phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý và sự kiện bất ngờ
20
1.2.1.
Phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý
20
1.2.2.
Phân biệt lỗi vô ý với sự kiện bất ngờ
21
1.3.
Vai trò của lỗi vô ý trong vấn đề tội phạm và hình phạt
23
1.3.1.
Vai trò của lỗi vô ý trong vấn đề tội phạm
23
1.3.2.
Vai trò của lỗi vô ý với vấn đề hình phạt
26
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ LỖI VÔ Ý TRONG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
30
2.1.
Lỗi vô ý trong quá trình phát triển của luật hình sự Việt Nam
30
2.1.1.
Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam
thời kỳ Nhà nước phong kiến (trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945)
30
2.1.2.
Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam thời
kỳ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước năm 1985
32
2.1.3.
Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam kể
từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1999
35
2.2.
Các quy định về lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự hiện hành
38
2.2.1.
Trong Phần chung của Bộ luật hình sự hiện hành
39
2.2.2.
Trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự hiện hành
43
2.3.
Những tồn tại, hạn chế trong các quy định của Bộ luật hình sự
hiện hành về lỗi vô ý
49
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ LỖI VÔ Ý
56
3.1.
Khái quát chung về thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ
luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý từ năm 2005 đến 2010
56
3.2.
Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về lỗi vô ý đối với các loại tội phạm cụ thể
58
3.2.1.
Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người (Chương XII Bộ luật hình sự)
58
3.2.2.
Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội phạm vô ý xâm phạm sở hữu (Chương XIV Bộ luật
hình sự)
64
3.2.3.
Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội phạm vô ý xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
công cộng (Chương XIX Bộ luật hình sự)
66
3.2.4.
Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội phạm vô ý xâm phạm trật tự quản lý hành chính
(Chương XX Bộ luật hình sự)
75
3.2.5.
Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội phạm về chức vụ được thực hiện do lỗi vô ý
(Chương XXI Bộ luật hình sự)
76
3.2.6.
Thc tin ỏp dng cỏc quy nh ca B lut hỡnh s hin hnh
v cỏc ti phm vụ ý xõm phm hot ng t phỏp (Chng
XXII B lut hỡnh s)
78
3.2.7.
Thc tin ỏp dng cỏc quy nh ca B lut hỡnh s hin hnh
v cỏc ti do li vụ ý xõm phm ngha v, trỏch nhim ca
quõn nhõn (Chng XXIII B lut hỡnh s)
80
3.3.
Nguyờn nhõn ca nhng tn ti, hn ch trong thc tin ỏp
dng cỏc quy nh v ti vụ ý theo B lut hỡnh s hin hnh
81
Chng 4: MT S GII PHP HON THIN CC QUY NH
CA B LUT HèNH S HIN HNH V LI Vễ í
V NNG CAO HIU QU P DNG
84
4.1.
Cỏc gii phỏp hon thin mt s quy nh ca B lut hỡnh s
hin hnh v li vụ ý
84
4.1.1.
S cn thit v nhng yờu cu ca vic hon thin nhng quy
nh ca B lut hỡnh s hin hnh v li vụ ý
84
4.1.2.
Gii phỏp tip tc hon thin cỏc quy nh ca B lut hỡnh
s hin hnh v li vụ ý
89
4.2.
Mt s gii phỏp nõng cao hiu qu ỏp dng cỏc quy nh ca
B lut hỡnh s hin hnh v li vụ ý
93
4.2.1.
Tăng c-ờng công tác giải thích, h-ớng dẫn áp dụng pháp luật
93
4.2.2.
Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức
pháp luật và trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán
Tòa án các cấp, nhất là đội ngũ Thẩm phán Tòa án cấp huyện
94
4.2.3.
Tăng c-ờng sự hợp tác và trao đổi kinh nghiệm lập pháp hình
sự với n-ớc ngoài
98
KT LUN
101
DANH MC CC TI LIU THAM KHO
103
PH LC
109
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADPL
: Áp dụng pháp luật
BLHS
: Bộ luật hình sự
CTTP
: Cấu thành tội phạm
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
Danh môc c¸c s¬ ®å
Sè hiÖu
s¬ ®å
Tªn s¬ ®å
Trang
1.1
Về lỗi vô ý vì quá tự tin
14
1.2
Về lỗi vô ý do cẩu thả
15
Danh môc c¸c biÓu ®å
Sè hiÖu
biÓu ®å
Tªn biÓu ®å
Trang
2.1
Tổng số vụ án do lỗi vô ý phải xét xử từ 2005 đến 2010
56
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Tội phạm là một thể thống nhất của mặt khách quan và mặt chủ quan.
Mặt khách quan là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, mặt chủ quan là
hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội. Những biểu hiện đó cùng với
khách thể và chủ thể của tội phạm là những yếu tố cấu thành tội phạm (CTTP) -
cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với người phạm
tội. Theo khoa học luật hình sự Việt Nam, bất cứ hành vi phạm tội nào, dù ít
nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng thì
giữa những biểu hiện bên ngoài và những quan hệ tâm lý bên trong, đều là
hoạt động của con người cụ thể, xâm hại hoặc nhằm xâm hại những quan hệ
xã hội nhất định.
Trong mặt chủ quan của tội phạm, lỗi là dấu hiệu bắt buộc của mọi tội
phạm được quy định trong luật hình sự, không có lỗi sẽ không có tội phạm.
Việc thừa nhận lỗi như là một căn cứ để truy cứu TNHS là một nguyên tắc cơ
bản, tiến bộ trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Mặc dù lỗi có vai trò quan trọng như vậy, nhưng trong thực tiễn pháp
luật việc quy định các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm nói chung
và dấu hiệu lỗi nói riêng trong một số CTTP vẫn còn có những bất cập, hạn
chế nhất định, như không quy định hoặc quy định về lỗi, các hình thức lỗi,
trong đó có lỗi vô ý chưa rõ ràng, mâu thuẫn, thiếu thống nhất dẫn đến tình
trạng người tiến hành tố tụng hiểu sai, áp dụng sai trong định tội danh và
quyết định hình phạt. Từ đó, làm cho hiệu quả, chất lượng giải quyết vụ án
hình sự hạn chế, tình trạng xét xử oan, sai đối với người thực hiện hành vi hay
bỏ lọt tội phạm vẫn tiếp diễn; nhiều vụ án hình sự không được giải quyết theo
trình tự luật định, tình trạng tồn đọng án đang có dấu hiệu gia tăng, v.v
2
Trc tỡnh hỡnh trờn, tỏc gi nhn thy vic nghiờn cu "Nhng vn
lý lun v thc tin v li vụ ý trong lut hỡnh s Vit Nam" l cn thit, khỏch
quan, ỏp ng yờu cu ca cụng cuc ci cỏch t phỏp hin nay Vit Nam.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cu
Trong khoa hc lut hỡnh s Vit Nam, di nhng gúc khỏc nhau,
ó cú nhiu cụng trỡnh khoa hc nghiờn cu v vn li núi chung v li vụ
ý núi riờng, in hỡnh nh: Lờ Vn Cm (2005), Sỏch chuyờn kho sau i
hc: Nhng vn c bn trong khoa hc Lut hỡnh s (Phn chung), NXB
i hc Quc gia H Ni; Nguyễn Ngọc Hòa (2008), Tội phạm và cấu thành
tội phạm, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyn Ngc Hũa (2004), Cu
thnh ti phm: Lý lun v thc tin, NXB T phỏp, H Ni; Đào Trí úc
(2000), Luật hình sự Việt Nam, Quyển I: "Những vấn đề chung", NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong luật
hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; Viện Nghiên cứu Nhà
n-ớc và Pháp luật (1993), Mô hình lý luận về Bộ luật hình sự Việt Nam (Phần
chung), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội; Dng Tuyt Miờn (2007), nh ti
danh v quyt nh hỡnh pht, NXB Lao ng - xó hi; Cao Th Oanh, Vn
mt ch quan ca ng phm, Tp chớ Lut hc 2/2002; Trn Quang Tip,
Mt s vn li trong lut hỡnh s, Tp chớ Nh nc v phỏp lut, s
11/1999; Lờ Th Thu Thy (2003), Nguyờn tc trỏch nhim trờn c s li
trong lut hỡnh s Vit Nam, Lun vn thc s lut hc, Trng i hc Lut
H Ni, H Ni, v.v
Tuy nhiên, qua nghiên cứu, khảo sát nội dung các sách chuyên khảo,
các luận án, luận văn và các bài báo khoa học về ch nh li vụ ý của các nhà
khoa học lut hỡnh s ở n-ớc ta, cho thấy hầu hết đó là các công trình nghiên
cứu cơ bản v cỏc vn chung ca lut hỡnh s, còn đối với ch nh li vụ
ý, nhìn một cách tổng quan, ch-a đ-ợc quan tâm một cách đúng mức. Những
nghiên cứu về li vụ ý mới chỉ dừng lại ở các công trình nghiên cứu đơn lẻ,
3
hoặc là đề cập đến cỏc yu t CTTP, hoc l v mt ch quan ca ti phm,
hoặc là đ-ợc thể hiện một phần trong kết quả của các công trình nghiên cứu
khác về phn chung ca lut hỡnh s. Cú th núi hin nay Vit nam vn
ch-a triển khai nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và sâu sắc về li vụ ý d-ới
góc độ lý luận v thc tin ỏp dng. Do ú, nguyên nhân của nhng tồn tại,
bất cập trong thực tiễn áp dụng nhng quy nh v li vụ ý ch-a đ-ợc phân
tích có hệ thống để đ-a ra những kiến nghị, giải pháp đồng bộ.
3. Mc ớch, nhim v nghiờn cu
3.1. Mc ớch nghiờn cu
Tỏc gi nghiờn cu ti vi nhng mc ớch sau:
- Lm sỏng t nhng vn lý lun v li vụ ý trong lut hỡnh s
Vit Nam;
- Nghiờn cu, phõn tớch thc tin phỏp lut Vit nam quy nh v li
vụ ý v thc tin ỏp dng trong hot ng xột x ca Tũa ỏn cỏc cp, rỳt ra
c nhng tn ti, hn ch ca vic quy nh v ỏp dng cỏc quy nh v li
vụ ý v nhng nguyờn nhõn ca nú;
- xut cỏc gii phỏp hon thin lut thc nh v nõng cao hiu qu
ỏp dng cỏc quy nh ca lut hỡnh s v li vụ ý.
3.2. Nhim v nghiờn cu
cú th t c mc ớch ú, trong phm vi ti, tỏc gi tp trung
vo nhng nhim v sau:
- Nghiờn cu nhng vn chung v li, li vụ ý, cỏc hỡnh thc v vai
trũ ca li vụ ý, phõn bit li vụ ý vi li c ý v vi s kin bt ng; Li vụ
ý trong quỏ trỡnh phỏt trin ca lut hỡnh s Vit Nam;
- Nghiờn cu, phõn tớch lm sỏng t thc tin phỏp lut hỡnh s quy
nh v li vụ ý;
4
- Nghiên cứu, phân tích thực trạng áp dụng các quy định về lỗi vô ý
trong hoạt động xét xử của các Tòa các cấp từ năm 2005 đến 2010;
- Phân tích rút ra những tồn tại và hạn chế của các quy định về lỗi vô ý
trong BLHS hiện hành và thực tiễn áp dụng;
- Trên cơ sở phân tích sự cần thiết, những yêu cầu của việc hoàn thiện
pháp luật quy định về lỗi vô ý, luận văn đề xuất các kiến nghị, giải pháp hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về lỗi vô ý.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về pháp luật, đấu
tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Đồng thời được tiến hành bằng những phương pháp nghiên cứu khoa
học cơ bản như: phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, logic, đối chiếu thực
tiễn, thống kê, v.v Nhờ vậy, những vấn đề có liên quan tới lỗi vô ý được
xem xét, đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau, bảo đảm tính đầy đủ, toàn diện,
có hệ thống và xác thực.
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thông
qua công trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn đóng góp vào việc hoàn
thiện pháp luật nói chung và vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm
nói riêng.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm
công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật
hình sự, tội phạm học và các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan
bảo vệ pháp luật,…
5
6. Những điểm mới của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên ở cấp luận văn thạc sĩ luật
học, nghiên cứu hệ thống, toàn diện, đầy đủ về vấn đề về lỗi vô ý trong luật
hình sự Việt Nam. Những điểm mới của luận văn là:
- Làm sáng tỏ hệ thống những vấn đề lý luận về lỗi vô ý trong luật
hình sự Việt Nam;
- Phân tích một cách sâu sắc và đánh giá toàn diện về sự thể hiện của
lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự (BLHS) hiện hành;
- Phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực trạng áp dụng pháp luật
về lỗi vô ý; nêu ra những hạn chế, bất cập về mặt lập pháp, những tồn tại
trong trong thực tiễn áp dụng pháp luật cũng như nguyên nhân của những hạn
chế, bất cập đó. Và trên cơ sở đó luận văn đề xuất các giải pháp khả thi để
hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu của áp dụng pháp luật về lỗi vô ý.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện
hành về lỗi vô ý.
Chương 4: Một số giải pháp hoàn thiện các quy định Bộ luật hình sự
hiện hành về lỗi vô ý và nâng cao hiệu quả áp dụng.
6
Chng 1
MT S VN CHUNG V LI Vễ í
TRONG LUT HèNH S VIT NAM
1.1. Khỏi nim, bn cht, iu kin v cỏc dng li vụ ý
1.1.1. Khỏi nim v bn cht ca li vụ ý
Ti phm l mt th thng nht ca hai mt khỏch quan v ch quan.
Mt ch quan l hot ng tõm lý bờn trong ca ngi phm ti bao gm
nhiu ni dung khỏc nhau, chỳng cú ý ngha v mt hỡnh s, trong ú cú ni
dung tr li cho cõu hi: Lớ trớ v ý chớ ca ngi phm ti i vi nhng biu
hin ra bờn ngoi ca ti phm nh th no?
Li nói chung, li c ý v li vụ ý núi riờng, nhìn d-ới góc độ triết học
có mối quan hệ nội tại, t-ơng tác với nhau. Đây là mối quan hệ giữa cái riêng
và cái chung. Với t- cách là cái chung, phạm trù li bao giờ cũng đ-ợc đặt
trong quan hệ với li c ý v li vụ ý. Chính vì lý lẽ đó, muốn hiểu đ-ợc khái
niệm li c ý v li vụ ý với các mặt khác nhau của nó thì nhất thiết phải nhận
thức đ-ợc khái niệm chung về li.
Li là một phạm trù pháp lý - xã hội phức tạp, đ-ợc nghiên cứu trong
nhiều lĩnh vực khoa hc khác nhau nh- triết học, thần học, giáo dục học, đạo
đức học, tâm lý học, tội phạm học, v lut hc trong ú c bit l s quan
tõm, nghiờn cu ca khoa học lut hỡnh s.
Trong lĩnh vực khoa học lut hỡnh s, việc làm sáng tỏ khái niệm li là
một vấn đề hết sức quan trọng, cú ý ngha khụng dng li vic gúp phn
nhn thc bn cht ca li m cũn lm sỏng t cỏc vn cú liờn quan. Tuy
vậy, trong khoa học lut hỡnh s vẫn còn tồn tại những quan điểm khác nhau:
- Quan im th nht: Theo T in Lut hc: "Li c hiu l thỏi
tõm lý ca mt ngi phm ti i vi hnh vi nguy him cho xó hi v
hu qu nguy him cho xó hi th hin di hỡnh thc c ý hoc vụ ý" [4].
7
- Quan điểm thứ hai: Theo GS.TSKH Lê Cảm:
Lỗi hình sự là mặt chủ quan của tội phạm và là một trong
những điều kiện bắt buộc của trách nhiệm hình sự, đồng thời là thái
độ tâm lý của người có năng lực và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm mà
người đó thực hiện và hậu quả do hành vi ấy gây nên dưới hình
thức cố ý hoặc vô ý [10].
- Quan điểm thứ ba: Theo GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa: "Lỗi là dấu hiệu
thuộc mặt chủ quan của tội phạm phản ánh chủ thể có đủ điều kiện lựa chọn,
thực hiện hành vi khác không gây thiệt hại cho xã hội khi quyết định thực
hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội" [10].
Mặc dù còn tồn tại sự khác nhau nhất định về cách tiếp cận, tên gọi
của vấn đề, nhưng về cơ bản các các nhà khoa học đều thống nhất cho rằng
lỗi là một yếu tố thuộc mặt chủ quan của tội phạm, là sự kết hợp giữa yếu tố
lý trí và ý chí, trong đó, lý trí thể hiện khả năng nhận thức hoặc không nhận
thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, còn ý chí thể hiện năng
lực điều khiển hành vi hoặc kìm chế việc thực hiện hành vi đó để thực hiện
một xử sự khác không trái với lợi ích của xã hội. Đồng thời, lỗi trong luật
hình sự chính là sự biểu hiện của mối quan hệ giữa cá nhân người phạm tội
với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định chủ quan đòi hỏi của xã hội
được thể hiện qua sự đòi hỏi cụ thể của luật hình sự.
Để nhận thức đúng đắn quan niệm về lỗi trong luật hình sự, cần phải
nghiên cứu, tìm hiểu đầy đủ các vấn đề thuộc nội hàm của lỗi, hay nói cách
khác là các dấu hiệu của lỗi.
Lỗi có hai dấu hiệu cơ bản: dấu hiệu về lý trí và dấu hiệu về ý chí của
con người.
- Yếu tố lý trí: Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng: "lý trí là khả năng
nhận thức sự vật bằng suy luận" [71].
8
Hành vi của con người được hiểu là toàn bộ xử sự biểu hiện ra bên
ngoài của họ trong một hoàn cảnh cụ thể. Nó chịu sự chi phối của điều kiện
sinh hoạt vật chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất - đó chính là hoàn cảnh khách quan. Nhưng đối với chính xử sự của
mình, con người vẫn có tự do tương đối, thông qua hoạt động ý thức, họ có
khả năng lựa chọn, quyết định và thực hiện xử sự phù hợp với những quy luật
tự nhiên và xã hội theo những gì mà họ nhận thức được. Tính tự do của hành
vi là "con người khi hành động không phải chỉ nhắm mắt thụ động, để cho
hoàn cảnh khách quan lôi kéo… mà còn có tự do tương đối…" [17].
- Yếu tố ý chí: là sự thể hiện năng lực điều khiển hành vi trên cơ sở
nhận thức, người phạm tội mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả
xảy ra hoặc cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
Đây chính là khả năng tâm lý của con người có thể tự mình lựa chọn
và thực hiện các xử sự trong những điều kiện xã hội nhất định. Nhưng đó
không có nghĩa là tùy tiện, bất chấp quy luật mà phải là sự nhận thức và làm
theo quy luật để thỏa mãn nhu cầu của mình. Ngược lại, nếu con người lựa
chọn, quyết định và thực hiện xử sự không phù hợp với quy luật, trái với lợi
ích xã hội thì có nghĩa là họ đã tự tước bỏ sự tự do của mình và phải chịu trách
nhiệm với cộng đồng, xã hội. Vì họ có khả năng nhận thức được ý nghĩa xã hội
của hành vi, có khả năng điều khiển được hành vi theo quy luật của xã hội
nhưng thực tế tự bản thân họ đã lựa chọn xử sự trái với đòi hỏi của xã hội, gây
ra thiệt hại cho xã hội. Khi đó, họ bị coi là có lỗi đối với việc thực hiện hành
vi. Trách nhiệm mà họ phải gánh chịu có thể là trách nhiệm về đạo đức hoặc
là trách nhiệm pháp lý. Nếu hành vi đó trái với lợi ích của xã hội được pháp
luật hình sự bảo vệ thì họ bị coi là có lỗi hình sự và buộc phải chịu TNHS.
Như vậy, về mặt hình thức, lỗi bao gồm hai yếu tố cấu thành là lý trí
và ý chí, một thể hiện khả năng nhận thức thực tại khách quan, một thể hiện
năng lực điều khiển hành vi trên cơ sở của sự nhận thức là những yếu tố tâm
9
lý cần thiết của mọi hành động có ý thức của con người. Nếu xử sự gây thiệt
hại cho xã hội bị coi là có lỗi thì quá trình lý trí và ý chí phải có những đặc điểm
nhất định phản ánh được rằng xử sự gây thiệt hại cho xã hội đã thực hiện là
kết quả của sự tự lựa chọn, tự quyết định của chủ thể, trong khi chủ thể có đủ
điều kiện lựa chọn và quyết định xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Từ những phân tích trên đây, dưới góc độ khoa học luật hình sự, có
thể định nghĩa lỗi trong luật hình sự như sau:
Lỗi là thái độ tâm lý của chủ thể (cá nhân) có năng lực trách nhiệm
hình sự, thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm cho
xã hội bị luật hình sự cấm và hậu quả do hành vi đó gây ra trong khi họ có đủ
điền kiện để lựa chọn, thực hiện hành vi khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc tâm lý các yếu tố lý trí và ý chí của con
người, khoa học luật hình sự đã chia lỗi thành hai loại: lỗi cố ý và lỗi vô ý.
Lỗi cố ý được hiểu là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành
vi và khả năng gây ra hậu quả của hành vi, họ nhận thức rõ hành vi của mình
có tính chất nguy hiểm cho xã hội; thấy trước hậu quả của hành vi đó và
mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Còn đối với lỗi vô ý để có thể đưa ra một nhận định, một cách hiểu
đúng về nó, cần phải làm rõ các yếu tố cấu thành nên lỗi vô ý:
- Yếu tố ý chí: là khi chủ thể không nhận thức được hoặc nhận thức
không đầy đủ đặc điểm thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
khi quyết định thực hiện hành vi, họ không thấy được khả năng xảy ra hậu
quả nguy hiểm cho xã hội.
Các trường hợp chủ thể không nhận thức được hoặc nhận thức không
đầy đủ là đặc điểm phản ánh trong CTTP, như:
+ Chủ thể không nhận thức được tính chất thực tế của hành
vi và khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó.
10
+ Chủ thể tuy nhận thức được tính chất thực tế của hành vi
nhưng hoàn toàn không nhận thức được khả năng gây ra hậu quả
nguy hiểm cho xã hội của hành đó.
+ Chủ thể nhận thức được tính chất thực tế của hành vi,
nhận thức được khả năng hậu quả xảy ra nhưng sau khi cân nhắc đã
loại trừ khả năng đó khi lựa chọn thực hiện hành vi [28].
Việc có nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội hay không còn
phụ thuộc vào điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan. Điều kiện khách
quan chính là hoàn cảnh cụ thể mà người thực hiện hành vi có thể tự do lựa
chọn xử sự của mình, tự do này là cả về thể xác và tinh thần. Điều kiện chủ
quan chính là năng lực nhận thức và điều khiển hành vi, độ tuổi của chủ thể.
Dựa trên sự phát triển về tâm lý và chính sách hình sự mà mỗi quốc gia sẽ
quy định độ tuổi này khác nhau. Khi đạt độ tuổi nhất định, con người sẽ có
năng lực nhận thức và điều khiển hành vi. Và họ sẽ phải chịu trách nhiệm về
hành vi của mình. Ở Việt Nam, chủ thể khi đủ 14 tuổi là bắt đầu có năng lực
nhận thức, điều khiển hành vi và 16 tuổi là tuổi có năng lực nhận thức đầy đủ.
- Yếu tố ý chí: chủ thể có điều kiện lựa chọn, thực hiện hành vi phù
hợp với quy định của pháp luật hình sự, nhưng chủ thể đã tự mình tước bỏ
điều kiện này và lựa chọn, thực hiện một hành vi khác - hành vi trái pháp luật
hình sự.
Như vậy, chủ thể khi thực hiện hành vi với lỗi vô ý đã không lựa chọn
hành vi phạm tội mà thực chất chỉ lựa chọn một xử sự do không nhận thức
được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của nó. Và xử sự này ngẫu nhiên đồng
nhất với hành vi phạm tội. Sự nhận thức, lựa chọn thực hiện hành vi của chủ
thể thường không giống với hành vi thực tế khách quan xảy ra cũng như kết
quả từ hành vi ấy. Trong suy nghĩ của họ hoàn toàn không mong muốn hành
vi phạm tội xảy ra. Vì thế mà bản chất của lỗi vô ý chính là sự phủ định chủ
quan với những đòi hỏi của xã hội được thông qua các đòi hỏi cụ thể của pháp
11
luật hình sự. Tuy nhiên, sự phủ định này không gay gắt, không quyết liệt,
không trực tiếp như đối với lỗi cố ý. Về dấu hiệu này, Điều 15 Luật hình sự
Trung Quốc cũng đã quy định: "Vô ý phạm tội là hậu quả xảy ra do nguyên
nhân, khi người thực hiện hành vi cần phải thấy trước hậu quả nguy hiểm cho
xã hội nhưng do cẩu thả mà không thấy trước hoặc đã thấy trước nhưng cho
rằng hậu quả đó có thể ngăn ngừa được" [24].
Chủ thể không nhận thức được đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi trong lỗi vô ý là do thái độ cẩu thả hoặc quá tự tin thiếu thận trọng
khi đánh giá, lựa chọn xử sự. Trên thực tế, hành vi phạm tội do lỗi vô ý thường
xảy ra bởi một số điều kiện: thiếu kỷ luật trong công tác, thiếu trách nhiệm, thái
độ bất cẩn khi thực hiện hành vi, thiếu chuyên môn kỹ thuật, Và xảy ra trong
các lĩnh vực của đời sống hàng ngày, hoặc liên quan đến chuyên môn, quản lý,
Từ những nhận định và phân tích trên đây, có thể đưa ra quan niệm về
lỗi vô ý như sau: Lỗi vô ý được hiểu là thái độ tâm lý của người phạm tội khi
lựa chọn và thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do không nhận thức đầy
đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi trong khi có đủ điều kiện để
nhận thức được.
1.1.2. Các điều kiện của lỗi vô ý
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng thì điều kiện được hiểu là "điều
nêu ra như một đòi hỏi trước khi thực hiện một việc gì đó, hình thành một cái
nào đó" [71].
Căn cứ vào hình thức của lỗi, bao gồm lỗi cố ý và lỗi vô ý, do vậy, khi
xem xét đến điều kiện của lỗi vô ý, tác giả tiếp cận ở khía cạnh, đó là điều
kiện để một người bị coi là có lỗi nói chung và điều kiện để một người bị coi
là có lỗi vô ý nói riêng.
Bản chất của lỗi đó chính là sự phủ định chủ quan đòi hỏi của xã hội.
Chủ thể bị coi là có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi hành
vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi họ có điều các điều kiện
12
khách quan và chủ quan để có thể lựa chọn xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã
hội. Đó chính là sự tước tự do trong ý thức chủ quan của chủ thể - nguyên
nhân dẫn đến hành vi mất tự do trên thực tế - hành vi trái với đòi hỏi của xã
hội, trái với luật hình sự.
Từ đó ta có thể rút ra những điều kiện để một người bị coi là có lỗi
như sau:
Thứ nhất, chủ thể phải có năng lực tự do - năng lực nhận
thức được đòi hỏi của xã hội và năng lực điều khiển được hành vi
phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Đây chính là vấn đề năng lực trách
nhiệm hình sự. Chỉ những chủ thể có năng lực tự do thì mới có thể
có lỗi. Người không có năng lực tự do thì không thể có lỗi;
Thứ hai, chủ thể có năng lực tự do chỉ có thể có lỗi trong
trường hợp cụ thể khi có điều kiện phát huy năng lực đó - điều kiện
cho phép chủ thể trong trường hợp cụ thể biến năng lực tự do thành
sự tự do thực sự;
Thứ ba, chủ thể không sử dụng năng lực tự do và điều kiện
cho phép trong trường hợp cụ thể để lựa chọn hành vi tự do mà đã
lựa chọn hành vi nguy hiểm cho xã hội - hành vi mất tự do [28].
Như vậy, chủ thể cần phải hội tụ cả ba điều kiện trên khi thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội thì mới bị coi là có lỗi. Tuy nhiên, đối với lỗi
vô ý thì để một chủ thể bị coi là lỗi khi thực hiện hành vi thì ngoài việc đáp
ứng các các điều kiện của lỗi nói chung, chủ thể cần phải có thêm các điều
kiện khác cụ thể như sau:
Thứ nhất, chủ thể không nhận thức được đầy đủ các đặc điểm thể hiện
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Sự nhận thức này có thể là không nhận thức không đầy đủ (đối với lỗi
vô ý vì quá tự tin) hoặc có thể là không nhận thức được (đối với lỗi vô ý do
cẩu thả). Đây là điều kiện bắt buộc đối với người thực hiện hành vi do lỗi vô
13
ý, bởi lẽ nếu chủ thể nhận thức được một cách rõ ràng, đầy đủ các đặc điểm
thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà vẫn thực hiện hành vi
thì không thể thuộc trường hợp vô ý được, mà đó phải là lỗi cố ý. Sự nhận
thức không đầy đủ này có thể xuất phát từ việc cho rằng hậu quả không xảy ra
hoặc cho rằng nếu có xảy ra thì có thể ngăn ngừa được.
Thứ hai, chủ thể phải có sự tin tưởng quá mức cần thiết hoặc sự cẩu
thả, thiếu thận trọng trong việc đánh giá hành vi.
Sự tin tưởng quá mức cần thiết (đối với lỗi vô ý vì quá tự tin) là sự tin
tưởng vào sự khéo léo, hiểu biết, kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ kỹ thuật
của mình… cho rằng hậu quả sẽ không xảy ra hoặc nếu có xảy ra thì sẽ ngăn
ngừa được. Lỗi của chủ thể chính là ở chỗ đã quá tin tưởng vào khả nhận thức
của mình. Hoặc chủ thể đã thể hiện sự cẩu thả, thiếu thận trọng trong việc
đánh giá hành vi (đối với lỗi vô ý do cẩu thả), đó chính "là việc chủ thể khi
hành động không đến nơi đến chốn, không cẩn thận, chỉ cốt làm cho xong
việc, lơ đãng trong công việc". Riêng đối với lỗi vô ý do cẩu thả cần phải có
thêm một điều kiện quan trọng khác đó là chủ thể có nghĩa vụ phải thấy trước
và có thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra, điều kiện
này xuất phát từ chính công việc, quy tắc nghề nghiệp của chủ thể.
1.1.3. Các dạng của lỗi vô ý
Như đã trình bày ở trên, lỗi vô ý được hiểu là thái độ tâm lý của người
phạm tội khi lựa chọn và thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do không nhận
thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi trong khi có đủ điều kiện
để nhận thức được. Từ đó, BLHS hiện hành đã phân ra làm hai hình thức lỗi vô
ý và khoa học luật hình sự gọi là: Lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả.
1.1.3.1. Lỗi vô ý vì quá tự tin
Lỗi vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng cho rằng
hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
14
Sơ đồ 1.1: Về lỗi vô ý vì quá tự tin
- Về lý trí: người phạm tội do vô ý vì quá tự tin trước khi lựa chọn, thực
hiện hành vi đã nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của
mình và nhận thức được khả năng có thể xảy ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi là sự nhận thức được tính chất gây thiệt hại cho xã hội của hành vi
đang thực hiện trên cơ sở nhận thức được những tình tiết khách quan - những
tình tiết tạo nên tính gây thiệt hại của hành vi. Những tình tiết đó có thể là mặt
thực tế của hành vi, là đặc điểm hiện hữu của đối tượng tác động tội phạm,
hoặc là những điều kiện khách quan như công cụ, thủ đoạn phạm tội, v.v
Tuy nhiên, sự nhận thức tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của
người phạm tội trong trường hợp lỗi này đó là sự nhận thức không đầy đủ.
Ngoài ra, người phạm tội còn nhận thức được khả năng có thể xảy ra
hậu quả nguy hiểm cho xã hội, đó là sự thấy trước về mặt thời gian khi thực hiện
hành vi phạm tội. Thực chất chỉ là sự cân nhắc đến khả năng hậu quả đó xảy ra
hay không và kết quả là người phạm tội đã loại trừ khả năng hậu quả xảy ra. Đối
với người phạm tội trong trường hợp lỗi vô ý vì quá tự tin khả năng hậu quả
xảy ra và khả năng hậu quả không xảy ra đều là khả năng thực tế nhưng người
phạm tội đã tin vào khả năng hậu quả không xảy ra khi quyết định xử sự.
Vô ý
vì quá tự tin
Lý trí
(nhận
thức)
Ý chí
(mong
muốn)
Nhận thức được tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi
Nhận thức được khả năng xảy ra
hậu quả nguy hiểm cho xã hội
Không mong muốn hậu quả xảy ra
15
- Về ý chí: Người phạm tội do vô ý vì quá tự tin không mong muốn
hành vi của mình gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đây là dấu hiệu cơ
bản để phân biệt giữa lỗi cố ý gián tiếp với lỗi vô ý vì quá tự tin.
Như đã trình bày ở trên, người phạm tội trong trường hợp lỗi vô ý vì
quá tự tin đã thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra, tuy
nhiên trước khi quyết thực hiện hành vi người phạm tội đã cân nhắc, tính toán
và cho rằng hậu quả không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, tin vào khả
năng hậu quả không xảy ra. "Sự cân nhắc, tính toán này có thể dựa vào những
căn cứ như tin tưởng vào sự khéo léo, sự hiểu biết, kinh nghiệm nghề nghiệm,
trình độ kỹ thuật của mình hoặc tin và những tình tiết khách quan bên ngoài
khác" [72]. Nhưng căn cứ này không vững chắc, không chính xác. Lỗi của
người phạm tội trong trường hợp vô ý vì quá tự tin chính là ở chỗ đã quá tin
tưởng vào khả năng thực hiện hành vi của mình. Do đó, về mặt ý chí của
người phạm tội trong trường hợp lỗi vô ý vì quá tự tin không mong muốn
hành vi của mình gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, điều này cũng hoàn
toàn hợp lý bởi lẽ không thể có việc người phạm tội đã loại trừ khả năng hành
vi gây ra hậu quả nguy hiểm lại mong muốn hậu quả đó xảy ra.
1.1.3.2. Lỗi vô ý do cẩu thả
Lỗi vô ý do cẩu thả là trường hợp người phạm tội không thấy trước
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy
trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Sơ đồ 1.2: Về lỗi vô ý do cẩu thả
Vô ý
do cẩu thả
Lý trí
(nhận
thức)
Nghĩa vụ
của chủ
thể
Không nhận thức được tính chất
nguy hiểm của hành vi
Không nhận thức được khả năng xảy
ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội
Phải thấy trước và có thể thấy trước
hậu quả nguy hiểm cho xã hội
16
Như vậy, lỗi vô ý do cẩu thả có hai dấu hiệu nhận biết sau:
- Dấu hiệu thứ nhất: Người phạm tội không thấy trước được hậu quả
nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra.
Có hai trường hợp mà người phạm tội không thấy trước được hậu quả
nguy hiểm đó là:
+ Trường hợp thứ nhất: Người phạm tội không nhận thức được mặt
thực tế của hành vi của mình và như vậy cũng có nghĩa là không nhận thức
được khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình.
+ Trường hợp thứ hai: Người phạm tội tuy nhận thức được mặt thực tế
của hành vi của mình nhưng lại hoàn toàn không nhận thức được khả năng
gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, có nghĩa là họ
hoàn toàn không nghĩ đến khả năng hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành
vi xảy ra.
Trường hợp này cho phép chúng ta phân biệt lỗi vô ý do cẩu thả và
các dạng lỗi khác vì người phạm tội do lỗi vô ý do cẩu thả hoàn toàn không
nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, không nhận thấy
hành vi đó có thể gây ra hậu quả mặc dù họ có đủ điều kiện để thấy trước.
Hành vi phạm tội do lỗi vô ý do cẩu thả có mức độ nguy hiểm ít hơn hành vi
phạm tội do lỗi vô ý vì quá tự tin vì hành vi phạm tội vì quá tự tin là kết quả
của sự nhận thức tương đối đầy đủ về hành vi.
Ví dụ:
- Vô ý vì quá tự tin: Báo Người lao động đưa tin:
Ngày 5/7/2009, Công an huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An đã khởi tố
vụ án, khởi tố bị can đối với ông Phan Tấn Nghĩa, cư trú tại ấp Thuận Nam,
xã Thuận Thành về tội vô ý làm chết người. Theo điều tra ban đầu, ông Phan
Tấn Nghĩa thường xuyên dùng bẫy điện để chống trộm, chống chuột, bảo vệ
17
đàn vịt của mình. Khi làm việc này ông có thông báo rộng rãi với hàng xóm
để mọi người biết và tránh không bị điện giật. Vào lúc 2h ngày 4/7, anh
Nguyễn Minh Trung, người địa phương, ra đồng soi cá. Khi đi ngang chòi vịt
của ông Nghĩa, anh Trung vướng vào đường dây điện do ông Nghĩa gài sẵn.
Bị điện giật, anh Trung chết tại chỗ.
Như vậy, ông Nghĩa đã thực hiện hành vi làm chết người với lỗi vô ý
vì quá tự tin. Bởi vì, khi làm hàng rào bằng dây điện ông Nghĩa biết rằng hành
vi của mình có thể gây chết người, nhưng ông Nghĩa tin rằng mình đã nói cho
mọi người biết rằng hàng rào có điện thì sẽ không ai đi vào đó và sẽ không có
ai bị điện giật, ông Nghĩa chỉ làm với mục đích là bảo vệ đàn vịt của mình.
Hậu quả anh Trung chết là nằm ngoài sự mong muốn của ông Nghĩa.
- Vô ý vì cẩu thả: Tạp chí Tòa án nhân dân số 4 năm 2007 có đưa bài
của tác giả Nguyễn Tấn Tám như sau: Đào Văn Hùng là chủ sở hữu hợp pháp
một chiếc xe ô tô hiệu IFA trọng tải 0,5 tấn. Tháng 6/2005, Hùng thuê Triệu
Công Sức lái xe cho mình bằng một hợp đồng miệng. Khi thuê Sức, Hùng có
hỏi Sức có giấy phép lái xe theo quy định không? Sức xuất trình giấy phép lái
xe cho Hùng xem, Hùng nhìn thấy giấy phép lái xe của Sức nhưng không
kiểm tra cụ thể và giao xe cho Sức điều khiển. Thực tế giấy phép lái xe của
Sức là loại B2. Trong quá trình lái xe cho Hùng, một lần do không làm chủ
được tốc độ và giữ khoảng cách cần thiết khi vượt xe ô tô cùng chiều nên S đã
để ô tô của mình đâm vào xe mô tô đi ngược chiều do anh Thê điều khiển,
làm anh Thê tử vong. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương đã truy tố Đào
Văn Hùng về tội "giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương
tiện giao thông đường bộ" (Khoản 1 Điều 205 BLHS).
Ta thấy, hành vi của Đào Văn Hùng được thực hiện do lỗi vô ý do cẩu
thả. Bởi vì, Hùng là chủ sở hữu hợp pháp của xe ô tô hiệu IFA, khi giao cho
Sức lái xe của mình thì Hùng phải có trách nhiệm kiểm tra xem Sức có đủ
điều kiện hay không. Khi Sức đưa giấy phép lái xe cho Hùng kiểm tra, do cẩu
18
thả, thiếu trách nhiệm, Hùng đã không kiểm tra kỹ và cho rằng Sức đủ điều
kiện lái xe. Và Hùng phải chịu trách nhiệm về hành vi này.
Xét về mức độ lỗi thì lỗi vô ý vì quá tự tin sẽ nguy hiểm hơn vô ý do
cẩu thả. Ở ví dụ trên, ông Nghĩa hoàn toàn có thể nhận thức được hành vi của
mình có thể gây hậu quả, từ đó, có thể lựa chọn cho mình xử sự khác, phù hợp
với đòi hỏi của xã hội (cụ thể ở đây là sẽ tìm biện pháp khác không gây chết
người mà vẫn có thể bảo vệ được đàn vịt) nhưng ông Nghĩa đã không làm vì
ông tin rằng hậu quả chết người sẽ không xảy ra. Còn ở vô ý do cẩu thả,
người phạm tội không nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm, đồng
thời không thấy được hậu quả của hành vi nên sẽ không có khả năng lựa chọn
xử sự khác, phù hợp với quy định của pháp luật. Nên hành vi của người phạm
tội trong trường hợp này sẽ ít nguy hiểm hơn.
- Dấu hiệu thứ hai: Người phạm tội có nghĩa vụ phải thấy trước và có
thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra. Nhưng người
phạm tội đã không thấy vì cẩu thả, thiếu thận trọng trong khi lựa chọn, thực
hiện hành vi.
Về chủ thể: trong cùng một độ tuổi nhất định, người phạm tội có năng
lực nhận thức các yêu cầu của xã hội một cách khác nhau. Năng lực này phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như: nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, tri thức, hiểu
biết văn hóa xã hội, các quy tắc an toàn, nội quy, quy định,… do luật định. Ví
dụ: Nghĩa vụ của người lái xe, nghĩa vụ của y tá, bác sỹ, nghĩa vụ của người có
trách nhiệm bảo quản tài sản, quy định phòng cháy chữa cháy, chất độc, chất
nổ, chất phóng xạ, v.v Về mặt khách quan: trong những điều kiện cụ thể, xã
hội có những đòi hỏi nhất định khi chủ thể thực hiện hành vi của mình và họ
có nghĩa vụ phải nhận thức được khả năng hậu quả nguy hiểm có thể xảy ra.
TNHS chỉ đặt ra đối với người thực hiện hành vi gây ra hậu quả nguy
hiểm cho xã hội với lỗi vô ý do cẩu thả khi xác định chắc chắn được người
thực hiện hành vi phải thấy trước "và" có thể thấy trước hậu quả nguy hiểm