Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 108 trang )



1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN HỒNG PHƯƠNG





XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC










HÀ NỘI - 2012




2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN HỒNG PHƯƠNG





XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Văn Đệ





HÀ NỘI - 2012



3




MỤC LỤC



Trang

TRANG PHỤ BÌA


Lời cam đoan


MỤC LỤC



Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÉT XỬ
PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ
8
1.1.
Những vấn đề lý luận chung về xét xử phúc thẩm vụ án hình
sự trong tố tụng hình sự
8
1.1.1.
Khái niệm xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự
8
1.1.2.
Tính chất của xét xử phúc thẩm
12
1.1.3.
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm
13
1.1.4.
Đối tượng của xét xử phúc thẩm
18
1.1.5.
Thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
19

1.1.6.
Các chủ thể tham gia tố tụng ở giai đoạn xét xử phúc thẩm
25
1.1.7.
áp dụng các nguyên tắc của tố tụng hình sự trong xét xử
phúc thẩm
25


4
1.2.
Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và các văn
bản pháp luật hiện hành về xét xử phúc thẩm
27
1.2.1.
Quy định về các nguyên tắc cơ bản
28
1.2.2.
Quy định chung về xét xử phúc thẩm
30
1.2.3.
Quy định về thủ tục xét xử phúc thẩm
42

Chương 2: Thực tiễn thi hành những quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự 2003 về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của
ngành Tòa án Hà nội và giải pháp nâng cao hiệu quả xét
xử phúc thẩm
60
2.1.

Thực tiễn thi hành những quy định về xét xử phúc thẩm
trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 của ngành Tòa án Hà
Nội
60
2.1.1.
Kết quả đạt được
60
2.1.2.
Một số hạn chế và vướng mắc trong thực tiễn xét xử phúc
thẩm của ngành Tòa án Hà Nội
68
2.2.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử phúc thẩm các vụ
án hình sự
84
2.2.1.
Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về phúc thẩm
84
2.2.2.
Các giải pháp khác
87

Kết luận
92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
94



5


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Tình hình án có kháng cáo, kháng nghị của ngành Tòa án
Hà Nội từ năm 2004 đến năm 2010
60
2.2
Tình hình giải quyết án hình sự phúc thẩm của ngành Tòa
án Hà Nội từ năm 2004 đến năm 2010
61
2.3
Tình hình số bị cáo bị đưa ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm
của ngành Tòa án Hà Nội từ năm 2004 đến năm 2010
62
2.4
Chất lượng xét xử án Hình sự phúc thẩm của ngành Tòa án
Hà Nội từ năm 2004 đến năm 2010
63
2.5
Tình hình án hình sự phúc thẩm quá hạn luật định của
ngành Tòa án Hà Nội
69
2.6

Tỷ lệ án hình sự phúc thẩm còn tồn hàng năm từ năm
2004 đến năm 2010 của ngành Tòa án Hà Nội
72
2.7
Tình hình Viện kiểm sát Hà Nội kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm án hình sự từ năm 2004 đến năm 2010
74
2.8
Tình hình Tòa án Hà Nội giải quyết kháng nghị của Viện
kiểm sát Hà Nội
74



6
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thực hiện các nghị quyết của Đảng, nhất là
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới", công cuộc cải cách tư pháp
đã được tổ chức thực hiện với tinh thần quyết tâm cao, đạt được nhiều kết
quả. Nhận thức về công tác tư pháp có nhiều thay đổi theo hướng tích cực,
chất lượng hoạt động tư pháp đã được nâng lên một bước, góp phần giữ vững
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát
triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tiếp tục thực hiện
nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ngày 2/6/2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị
quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 phù hợp
với quá trình đổi mới công tác lập pháp và chương trình cải cách hành chính.

Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là một chế định quan trọng được quy
định trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Việc nghiên cứu, làm rõ những
vấn đề xung quanh chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là quan trọng và
cần thiết. Đây là một công việc rất có ích về mặt lâu dài vì nó đóng vai trò căn
bản giúp cho các nhà lập pháp mỗi khi xây dựng hay sửa đổi nhằm hoàn thiện
luật, sẽ đưa ra những quyết định thực sự phù hợp và thiết thực đến quyền lợi
của nhà nước và của nhân dân, đó cũng chính là sự đóng góp không thể thiếu
của chúng ta vào tiến trình đi đến một Nhà nước pháp quyền hoàn chỉnh và phát
triển; đồng thời cũng giúp cho các nhà áp dụng pháp luật có tính thực thi cao.
Chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự chính là sự thể hiện nguyên
tắc nhân đạo, nguyên tắc công bằng, nguyên tắc khách quan và nguyên tắc
xác định sự thật của vụ án. Sự tồn tại của chế định này là cơ sở cho những
người làm công tác pháp luật đưa ra một quyết định đúng đắn, đó là một bản


7
án công minh, đúng người đúng tội và đúng pháp luật. Đồng thời, chế định
xét xử phúc thẩm vụ án hình sự trong luật hình sự góp phần đảm bảo cho việc
thực hiện các nguyên tắc của luật hình sự một cách toàn diện.
Trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam, nhà làm luật nước ta đã
chính thức ghi nhận chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự bằng việc quy
định tại Phần thứ tư, Chương 23 (từ Điều 230 đến Điều 254) của Bộ luật Tố
tụng hình sự 2003. Vì vậy, việc làm sáng tỏ để áp dụng một cách chính xác
các quy phạm này là rất cần thiết và cấp bách, thêm vào đó sẽ góp phần hoàn
chỉnh thêm các vấn đề liên quan đến chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.
Tác giả cho rằng nghiên cứu chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
là vấn đề đặc biệt cần thiết.
Về mặt lập pháp: Những quy định về xét xử phúc thẩm đã được quy
định trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập. Bên
cạnh đó, cũng đã có các văn bản hướng dẫn thi hành (Nghị quyết

05/2005/NQ-HĐTP ngày 8/12/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn thị hành một số quy định trong Phần thứ tư "Xét xử
phúc thẩm" của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003) nhưng cũng chưa đầy đủ.
Về mặt thực tiễn: Mặc dù đã có quy định cụ thể cũng như văn bản
hướng dẫn việc áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng thực
tiễn áp dụng các quy định về xét xử phúc thẩm còn nhiều vướng mắc. Trong
các báo cáo tổng kết công tác năm của ngành Tòa án nhân dân mấy năm gần
đây, khi đề cập đến các vụ án hình sự, quyết định của Tòa án bị sửa, hủy (đại
đa số là do thiếu kỹ năng và chuyên nghiệp trong các giai đoạn chuẩn bị xét
xử, nghiên cứu hồ sơ vụ án) nên dẫn đến tình trạng hủy, sửa án, bồi thường
oan sai cho người vô tội. Như vậy, để tránh tình trạng sửa, hủy án thì Thẩm
phán phải là những người có kỹ năng và trình độ chuyên môn cao.
Vì vậy, mặc dù vấn đề này đã được quan tâm nghiên cứu những vẫn còn
những vấn đề chưa thống nhất, còn bỏ ngỏ và cần tiếp tục nghiên cứu tiếp. Nhất


8
là trong giai đoạn hiện nay, do yêu cầu của cải cách tư pháp thì việc tiếp tục
hoàn thiện các quy định về xét xử phúc thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự là
điều cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự ở các mức độ
khác nhau đã được một số nhà khoa học, luật gia quan tâm, nghiên cứu và
được đề cập trong các công trình, trong các tạp chí, trong một số sách chuyên
khảo và giáo trình.
Trong các công trình, tạp chí, sách chuyên khảo và giáo trình này
bước đầu phân tích và làm rõ những vấn đề xung quanh chế định xét xử phúc
thẩm vụ án hình sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành, đồng thời đưa ra
mô hình lý luận của kiến giải lập pháp về các quy phạm của chế định này
trong hệ thống Luật tố tụng hình sự Việt Nam.

Chúng ta có thể kể đến như:
Các công trình mang tính đại cương: Giáo trình Luật tố tụng hình sự,
của Trường Đại học luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2009; Giáo trình Luật
tố tụng hình sự Việt Nam, của Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội;
Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, của Võ Khánh Vinh 2009;…
Các công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu, liên quan trực tiếp
về Phúc thẩm trong tố tụng hình sự: Luận văn thạc sĩ luật học như "Thủ tục
xét xử phúc thẩm trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam" của Nguyễn Gia
Cương năm 1998; "Phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam" của Phan Thị
Thanh Mai, 1998; Luận án tiến sĩ "Phúc thẩm trong tố tụng hình sự" của
Nguyễn Đức Mai;…
Các công trình nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến phúc thẩm
trong Tố tụng hình sự: "Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
về xét xử phúc thẩm" của Nguyễn Đức Mai, 2002; Tạp chí Tòa án nhân dân;


9
Tạp chí Viện kiểm sát nhân dân liên quan về giai đoạn Xét xử phúc thẩm;
Giáo trình kỹ năng giải quyết vụ án hình sự của Học viện Tư pháp, Nhà xuất
bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2007;…
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu được nghiên cứu trước khi Bộ
luật Tố tụng hình sự 2003 ban hành, chưa thực sự toàn diện và đầy đủ về xét xử
phúc thẩm trong tố tụng hình sự theo đúng tinh thần cải cách tư pháp hiện
nay.
Tất cả những luận điểm trên là lý do để tác giả lựa chọn "Xét xử phúc
thẩm vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự" làm đề tài
luận văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm sáng tỏ một cách có hệ thống

về mặt lý luận những nội dung cơ bản của chế định xét xử phúc thẩm vụ án
hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam và việc áp dụng chế định này trong
thực tiễn cũng như xác định những bất cập và nguyên nhân của nó nhằm đề
xuất kiến giải pháp hoàn thiện và đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng chế định này trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình
những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau:
- Làm sáng tỏ về mặt lý luận một số nội dung cơ bản của xét xử phúc
thẩm: Bản chất của phúc thẩm, thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm và thủ
tục xét xử phúc thẩm…


10
- Khái quát lịch sử phát triển của chế định xét xử phúc thẩm vụ án
hình sự và phân tích, đánh giá các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 về xét xử phúc thẩm.
- Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy phạm pháp luật tố tụng
hình sự về chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự trong thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự của ngành Tòa án Hà Nội.
- Phân tích những tồn tại trong các quy định của chế định này và xác
định nguyên nhân của những tồn tại trong quá trình xét xử phúc thẩm vụ án
hình sự.
- Đưa ra kiến nghị, giải pháp để khắc phục và hoàn thiện các quy định
của pháp luật về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn này tập trung nghiên cứu: Lý luận về xét xử phúc thẩm; các
quy định về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003
và thực tiễn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của ngành Tòa án Hà Nội.

Phạm vi nghiên cứu:
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là vấn đề có nội dung rộng và phức
tạp. Vì vậy trong phạm vi luận văn không thể xem xét toàn diện tất cả các nội
dung của vấn đề. Tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 về xét xử phúc thẩm và thực trạng phúc thẩm các vụ
án hình sự của ngành Tòa án Hà Nội, những tồn tại, vướng mắc, nguyên nhân
và giải pháp nâng cao hiệu quả phúc thẩm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn này dựa trên việc sử dụng
phương pháp nghiên cứu sau:


11
-Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam, về cải cách tư pháp, về tính nhân đạo của pháp luật…
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương
pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng
hợp, phương pháp thống kê, v.v…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo trong khoa học luật tố tụng hình sự
Việt Nam nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống và đồng bộ những vấn
đề lý luận và thực tiễn về chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự ở cấp độ
một luận văn. Trong luận văn này, tác giả đã giải quyết về mặt lý luận những
vấn đề sau:
Ý nghĩa lý luận:
- Phân tích một cách có hệ thống và toàn diện một số vấn đề lý luận về
chế định Xét xử phúc thẩm như: Khái niệm, bản chất pháp lý và các đặc điểm
cơ bản của chế định;
- Phân tích và so sánh với pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên

thế giới.
Ý nghĩa thực tiễn:
- Phân tích việc áp dụng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam về chế định xét xử phúc thẩm trong thực tiễn xét xử từ năm 2004 đến
nay, qua đó đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự liên quan
đến xét xử vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian qua.
Đặc biệt, trong phạm vi nhất định, luận văn tập trung chỉ ra một số các tồn tại,
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và những nguyên nhân của thực trạng này
để tìm ra giải pháp khắc phục.


12
- Đề xuất sửa đổi các quy định về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự cho
phù hợp với chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta.
- Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân trong thực tiễn áp dụng,
luận văn đã đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về
chế định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam để phục vụ tốt yêu cầu của công tác xét xử, yêu cầu của thực tiễn công
tác phòng và chống tội phạm cũng như việc giáo dục, cải tạo người phạm tội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về xét xử phúc thẩm vụ án
hình sự
Chương 2: Thực tiễn thi hành những quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự 2003 của ngành Tòa án Hà Nội về xét xử phúc thẩm từ năm 2004 đến
nay và giải pháp nâng cao hiệu quả việc xét xử phúc thẩm.




13
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÉT XỬ PHÚC THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ
ÁN HÌNH SỰ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1.1. Khái niệm xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự
Tư pháp hình sự là một lĩnh vực hoạt động đặc thù của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền nhằm thực hiện quyền lực nhà nước - quyền tư pháp.
Đây là lĩnh vực rất nhạy cảm vì nó động chạm trực tiếp đến các quyền tự do
và dân chủ của công dân. Mọi sai lầm dù lớn hay nhỏ trong quá trình xử lý
đối với người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm đều có thể dẫn đến những
hậu quả nghiêm trọng, thậm chí có thể không khắc phục được. Bởi vậy, bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là của bị can, bị cáo
là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm mục đích đặt ra của
tố tụng hình sự là "phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý nghiêm minh,
kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người
vô tội, bảo vệ các quyền và lợi ích của công dân". Đây cũng là một nội dung
cấp thiết của việc bảo vệ quyền con người nói chung mà mỗi quốc gia cũng
như cộng đồng quốc tế đều quan tâm giải quyết.
Sự hình thành và phát triển của xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự
gắn liền với sự hình thành và phát triển các tư tưởng, các nguyên tắc dân chủ
và tiến bộ của tố tụng hình sự như: nguyên tắc công bằng, nhân đạo, suy đoán
vô tội, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, xét xử công khai, trực tiếp
và bằng lời nói… Vì vậy các quốc gia đều chú ý điều chỉnh bằng pháp luật
quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi bị coi
là tội phạm, đặc biệt là hoạt động xét xử các vụ án hình sự nhằm tạo ra một cơ



14
chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ có hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư
pháp, phát hiện và khắc phục kịp thời các sai sót về xét xử của các Tòa án cấp
dưới (Tòa án cấp sơ thẩm).
Với tính cách là nguyên tắc chung của pháp luật, nguyên tắc công bằng
tác động mạnh mẽ đối với lĩnh vực áp dụng pháp luật hình sự. PGS.TS Võ
Khánh Vinh đã rất có lý khi cho rằng:
Nguyên tắc công bằng đòi hỏi khi quyết định hình phạt phải
bảo đảm sự tương xứng của hình phạt được tuyên với tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, với các
đặc điểm của nhân thân người phạm tội, với các tình tiết tăng nặng và
giảm nhẹ trách nhiệm, với dư luận xã hội, với ý thức pháp luật [94].
Mặt khác, nguyên tắc công bằng cũng đòi hỏi trong những điều kiện
và hoàn cảnh phạm tội giống nhau, thì người phạm tội phải bị kết án và xử
phạt như nhau. Tuy nhiên, trên thực tế đòi hỏi này lại rất khó đạt được do
những nguyên nhân khách quan và chủ quan rất khác nhau: không thống nhất
giữa các thẩm phán, giữa các Tòa án về nhận thức và áp dụng pháp luật, đặc
biệt là các quy định mang tính chất đánh giá tùy nghi. Để giảm bớt sự khác
biệt trong việc tuyên phạt đối với người phạm tội giữa các Tòa án và giữa các
thẩm phán với nhau, cần có một trình tự (thủ tục tố tụng) mà theo đó nếu bị
cáo và đương sự không đồng ý với bản án (quyết định) chưa có hiệu lực pháp
luật của Tòa án cấp dưới, thì có thể yêu cầu Tòa án cấp cao hơn xem xét lại
phán quyết đó. Thủ tục tố tụng này chính là thủ tục xét xử phúc thẩm.
Sự ra đời của Tòa án cấp phúc thẩm cũng xuất phát từ quan niệm của
các nhà lập pháp cho rằng việc xét xử lại các vụ án có kháng cáo, kháng nghị
ở Tòa án cấp trên sẽ hạn chế được những sai sót về xét xử của các thẩm phán
Tòa án cấp sơ thẩm. Tòa án cấp trên sẽ xử đúng công lý hơn vì Tòa này gồm
những thẩm phán cao niên, có kinh nghiệm hơn và ở xa các đương sự nên
không chịu ảnh hưởng địa phương.



15
Nguyên tắc hai cấp xét xử còn bắt buộc các thẩm phán tòa án cấp dưới
phải thận trọng trong việc xét xử.
Xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự là một trong các hình thức,
phương tiện được các nước sử dụng nhằm đạt được mục đích này. Để thực hiện
được cần phải có một trình tự (thủ tục tố tụng) mà theo đó nếu bị cáo hay đương
sự không đồng ý với bản án (quyết định) chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa
án cấp dưới thì có thể yêu cầu Tòa án cấp cao hơn (Tòa án cấp sơ thẩm) xem
xét lại phán quyết đó. Thủ tục tố tụng này chính là thủ tục xét xử phúc thẩm.
Sự ra đời của chế định xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự là một
nhu cầu tất yếu khách quan của xã hội. Nó gắn liền với sự hình thành và phát
triển của các tư tưởng, các nguyên tắc dân chủ, tiến bộ của tố tụng hình sự.
Với ý nghĩa đó, xét xử phúc thẩm có vai trò vô cùng quan trọng thể hiện:
Một là, thông qua việc xét xử lại vụ án mà bản án hoặc quyết định
chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm
không chỉ kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án (quyết định) sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật mà còn phát hiện và khắc phục kịp thời các
vi phạm nghiêm trọng về xét xử của Tòa án cấp dưới.
Hai là, xét xử phúc thẩm là một trong những chế định thể hiện rõ nét
nhất bản chất dân chủ và tiến bộ trong tố tụng hình sự. Chế định này buộc các
Tòa án cấp sơ thẩm phải thận trọng và tuân thủ nghiêm chỉnh các yêu cầu về
tính hợp pháp và có căn cứ khi ra bản án hoặc quyết định về vụ án. Nó không
cho phép người đã kháng cáo hoặc viện kiểm sát đã kháng nghị được bổ sung
thay đổi kháng cáo, kháng nghị theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo,
không cho phép cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng làm xấu hơn
tình trạng của bị cáo nếu không có kháng cáo của người bị hại hoặc kháng
nghị theo hướng đó.
Ba là, khi có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án quyết định chưa có
hiệu lực pháp luật, Tòa án cấp phúc thẩm phải đưa vụ án ra xét xử trong thời



16
hạn nhất định. Vì vậy, xét xử phúc thẩm là một trong các phương tiện hữu
hiệu, kịp thời bảo vệ và có hiệu quả lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Bốn là, thông qua việc xét xử các vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm hướng
dẫn cho các Tòa án cấp sơ thẩm và các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong
việc nhận thức và áp dụng đúng đắn, thống nhất pháp luật, góp phần nâng cao
chất lượng xét xử các vụ án hình sự, tăng cường hiệu quả giáo dục pháp luật
và củng cố niềm tin vào công lý cho quần chúng nhân dân, đấu tranh phòng
chống tội phạm.
Trong khoa học luật tố tụng hình sự, khái niệm "xét xử phúc thẩm" có
thể được hiểu ở các góc độ khác nhau. Khái niệm xét xử phúc thẩm có thể
được hiểu là một giai đoạn của tố tụng hình sự (giai đoạn phúc thẩm); phúc
thẩm là một chế định (chế định xét xử phúc thẩm) của Tố tụng hình sự và
phúc thẩm là một thủ tục tố tụng (thủ tục xét xử phúc thẩm). Xét xử phúc
thẩm cũng có thể được hiểu bao gồm cả ba nội dung nêu trên tức là xét xử
phúc thẩm là một giai đoạn, một chế định của tố tụng hình sự đồng thời là
một thủ tục xét xử.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả nghiên cứu xét xử phúc
thẩm dưới góc độ là thủ tục xét xử phúc thẩm.
Thủ tục xét xử phúc thẩm: là hình thức Tòa án cấp trên tiến hành xét
xử lại vụ án hình sự hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ
thẩm đối với vụ án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Thủ
tục xét xử phúc thẩm là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng và hiệu quả xét xử phúc thẩm. Vì vậy không phải tất cả các vụ án hình
sự sau khi xét xử sơ thẩm đều được xem xét lại theo thủ tục này. Thủ tục phúc
thẩm sẽ kết thúc sau khi Tòa án cấp phúc thẩm ra bản án hoặc quyết định về
vụ án đó.



17
Các đặc điểm cơ bản của thủ tục xét xử phúc thẩm:
Ngoài các đặc điểm chung của giai đoạn tố tụng, xét xử phúc thẩm có
một số dấu hiệu đặc trưng riêng:
- Xét xử phúc thẩm là một giai đoạn độc lập trong quá trình tố tụng
hình sự và được tiến hành bởi các chủ thể tiến hành tố tụng đặc trưng là Tòa
án cấp phúc thẩm và Viện kiểm sát cấp phúc thẩm. Thành phần Hội đồng xét
xử phúc thẩm chỉ bao gồm các thẩm phán chuyên nghiệp (trường hợp cần
thiết mới có hội thẩm nhân dân tham gia…;
- Đối tượng xem xét của xét xử phúc thẩm là các vụ án hình sự mà bản
án (quyết định) sơ thẩm bị kháng cáo và (hoặc) kháng nghị trong thời hạn luật định
- Xét xử phúc thẩm nhằm kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản
án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật có kháng cáo hoặc kháng
nghị, đồng thời xem xét lại về nội dung, khắc phục kịp thời các sai lầm của
Tòa án cấp sơ thẩm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân.
- Hình thức thể hiện kết quả giải quyết vụ án ở giai đoạn tố tụng này là
bản án phúc thẩm hoặc quyết định phúc thẩm…
Từ những phân tích trên có thể rút ra: Xét xử phúc thẩm trong tố tụng
hình sự là một thủ tục tố tụng hình sự mà theo đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét
xử lại các vụ án hình sự mà bản án (quyết định) sơ thẩm bị kháng cáo và
(hoặc) kháng nghị trong thời hạn luật định nhằm kiểm tra tính hợp pháp và
có căn cứ của bản án (quyết định) sơ thẩm, khắc phục kịp thời các sai lầm
của Tòa án cấp sơ thẩm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân.
1.1.2. Tính chất của xét xử phúc thẩm
Tính chất của xét xử phúc thẩm là vấn đề quan trọng và quyết định
bản chất của xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự và các nội dung khác



18
như: Phạm vi xét xử phúc thẩm, quyền hạn và thủ tục xét xử phúc thẩm của
chế định này.
Có quan điểm cho rằng: Phúc thẩm không phải là một cấp xét xử mà
chỉ là một thủ tục tố tụng mà theo đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại các bản
án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Điều
đó có nghĩa là tính chất của phúc thẩm chỉ là xét lại chứ không phải là xét xử
lại [73, tr. 262], [74, tr. 278].
Quan điểm khác cho rằng: Tòa án cấp phúc thẩm không chỉ có nhiệm
vụ kiểm tra hoạt động xét xử sơ thẩm mà còn xét xử cả về nội dung vụ án. Vì
vậy tính chất của phúc thẩm không phải là xét lại mà là xét xử lại các vụ án,
quyết định của tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo
hoặc kháng nghị [26, tr. 10-11].
Thực chất tính chất của xét xử phúc thẩm có liên quan chặt chẽ tới
nguyên tắc "hai cấp xét xử". Khi trong Bộ luật Tố tụng hình sự tồn tại nguyên
tắc này thì có nghĩa là Tòa án cấp phúc thẩm phải là cấp xét xử thứ hai, tức là
cấp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Cấp giám đốc thẩm, tái thẩm chưa bao giờ
được thừa nhận là một cấp xét xử mà chỉ được coi là thủ tục tố tụng đặc biệt
có nhiệm vụ xét lại những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Tiến sĩ
Nguyễn Văn Hiện cho rằng: "Việc đồng nhất tính chất của giám đốc thẩm và
phúc thẩm là không có căn cứ cả về lý luận thực tiễn bởi vì đây là hai giai
đoạn tố tụng khác nhau về bản chất và yêu cầu tố tụng" [11, tr. 171].
Do vậy, có thể tác giả luận văn cho rằng: Tính chất của xét xử phúc
thẩm trong tố tụng hình sự là việc Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại các vụ án mà
bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
1.1.3. Thẩm quyền xét xử phúc thẩm
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm là sự phân định thẩm quyền giải quyết

các vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng


19
cáo, kháng nghị giữa các Tòa án cấp trên. Để xác định Tòa án cấp trên nào xét
xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm thì sau khi xét xử sơ thẩm nếu có kháng cáo,
kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm của những người có quyền
kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định thì vụ án sẽ được xét xử lại ở
cấp cao hơn.
Như vậy, khác với thẩm quyền xét xử sơ thẩm được xác định trực tiếp
trong pháp luật thì thẩm quyền xét xử phúc thẩm của Tòa án được xác định
gián tiếp trên cơ sở thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Tiến sỹ Nguyễn Văn Huyên
đã rất đúng khi cho rằng: "Thẩm quyền xét xử sơ thẩm là cơ sở để xác định
thẩm quyền của Tòa án các cấp" [13, tr. 22]. Vì vậy, muốn xác định thẩm
quyền của Tòa án các cấp phải xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm
Hầu hết pháp luật của các nước đều quy định Tòa án có thẩm quyền
xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét
xử sơ thẩm vụ án mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật có kháng
cáo, kháng nghị.
Trên cơ sở thẩm quyền xét xử phúc thẩm xác định được thẩm quyền
của Tòa án cấp phúc thẩm trong vụ án hình sự: là toàn bộ các quyền hạn mà
pháp luật dành cho Tòa án cấp trên trực tiếp trong việc xem xét và quyết định
các vấn đề cụ thể về các vụ án hình sự do các Tòa án cấp dưới xét xử, mà bản
án (quyết định) chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Trong tố tụng hình sự, thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm bao gồm
hai yếu tố (nội dung) cấu thành là thẩm quyền xem xét (thẩm quyền về hình
thức) và thẩm quyền quyết định các vấn đề về vụ án (thẩm quyền về nội dung).
Thẩm quyền xem xét của Tòa án cấp phúc thẩm bao gồm thẩm quyền
xét xử phúc thẩm; phạm vi các vụ án hình sự có thể được xem xét lại ở cấp
thứ hai (các vụ án có thể kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm) và

phạm vi xét xử phúc thẩm (đối với các vụ án thuộc thẩm quyền).


20
Thẩm quyền quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm thể hiện ở các
quyền hạn của Tòa án khi xét xử theo thủ tục phúc thẩm các vụ án bị kháng
cáo hoặc kháng nghị.
Pháp luật của các nước đều quy định Tòa án cấp phúc thẩm có các
quyền hạn sau đây:
- Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm;
- Sửa bản án sơ thẩm;
- Hủy bản án sơ thẩm để điều tra hoặc xét xử sơ thẩm lại vụ án;
- Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Xét xử phúc thẩm là một chế định thể hiện rõ nét bản chất dân chủ và
nhân đạo của tố tụng hình sự và có nhiệm vụ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của bị cáo. Vì vậy yêu cầu đặt ra đối với các quốc gia là phải hạn chế ở
mức độ cần thiết các quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm mà chúng có thể
làm cho tình trạng của bị cáo xấu hơn so với quyết định của bản án sơ thẩm.
Đồng thời mở rộng các quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc sửa
bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo.
Ngày nay yêu cầu "không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo trong xét
xử phúc thẩm" được thừa nhận trong pháp luật của nhiều nước và được coi là
một yêu cầu đặc trưng cơ bản của phúc thẩm trong tố tụng hình sự. Yêu cầu
này không chỉ là một bảo đảm pháp lý quan trọng để bị cáo thực hiện quyền
tự do kháng cáo bản án (quyết định) sơ thẩm mà còn trực tiếp bảo vệ các lợi
ích hợp pháp của bị cáo khi vụ án được xét xử lại ở cấp phúc thẩm. Nó loại
trừ sự nghi ngờ từ phía bị cáo về những hậu quả pháp lý bất lợi mà việc kháng
cáo có thể đem lại.
Tuy nhiên, do ở mỗi nước quan niệm về "làm xấu hơn tình trạng của
bị cáo trong xét xử phúc thẩm" khác nhau nên khi quy định về quyền sửa hoặc

hủy bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm có một số điểm khác nhau.


21
Ở Cộng hòa Liên bang Nga yêu cầu này được thể chế hóa một cách
đầy đủ và triệt để trong pháp luật tố tụng hình sự. Theo quan niệm của các
nhà lập pháp Nga, thì nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong
xét xử phúc thẩm phải được tuân thủ một cách tối đa trong mọi trường hợp để
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Chỉ có Tòa án cấp sơ thẩm
mới có thẩm quyền ra bản án để kết tội bị cáo; xác định bị cáo phạm một tội
khác nặng hơn hay áp dụng hình phạt nặng hơn cũng như xác định hay bác bỏ
các tình tiết mới, các chứng cứ mới về vụ án. Vì vậy, các quy định pháp luật
của Nga hạn chế các quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc sửa hoặc
hủy bản án sơ thẩm mà chúng có thể làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, đồng
thời không hạn chế việc sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho họ, nếu có
căn cứ.
Theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2001 của Cộng hòa Liên bang Nga, khi
xét xử phúc thẩm, Tòa án có có thể giảm nhẹ hình phạt mà án sơ thẩm đã
quyết định đối với bị cáo hoặc áp dụng luật về tội nhẹ hơn nhưng không được
tăng nặng hình phạt hoặc áp dụng luật về tội nặng hơn. Bản án sơ thẩm chỉ có
thể bị hủy vì lý do cần áp dụng luật về tội nặng hơn hoặc vì hình phạt nhẹ
trong trường hợp có kháng nghị của Viện Công tố hoặc kháng cáo của người
bị hại yêu cầu (Điều 383). Tòa án cấp phúc thẩm chỉ có thể hủy bản án sơ
thẩm tuyên bị cáo vô tội trong trường hợp có kháng nghị của Viện Công tố
hoặc kháng cáo của người bị hại hay kháng cáo của người được tuyên vô tội
(Điều 385). Nếu Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng không đúng luật hình sự hoặc
hình phạt không tương xứng với mức độ nghiêm trọng của tội phạm và nhân
thân người bị kết án, Tòa án cấp phúc thẩm có thể sửa bản án theo quy định
tại Điều 387 Bộ luật này nhưng không được sửa hình phạt nặng hơn cũng như
áp dụng luật về tội nặng hơn. Ngoài ra, Bộ luật này còn quy định rất cụ thể

các căn cứ mà theo đó Tòa án cấp phúc thẩm sửa hoặc hủy bản án sơ thẩm
(các điều 379 - 383).


22
Hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung và pháp luật tố tụng hình
sự nói riêng chịu ảnh hưởng rất lớn của hệ thống pháp luật Xô viết trước đây.
Vì vậy, "không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo" cũng được coi là một trong
những yêu cầu cơ bản và đặc trưng của phúc thẩm hình sự nước ta.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành của nước ta, thì
người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát có quyền bổ sung, thay đổi kháng cáo,
kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo (Điều 238).
Tòa án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt hoặc áp dụng điều khoản Bộ luật
Hình sự về tội nặng hơn, nếu Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại
kháng cáo yêu cầu theo hướng đó. Tòa án cấp phúc thẩm không được sửa bản
án sơ thẩm tuyên bố bị cáo từ không có tội thành có tội khi có kháng cáo của
người bị hại hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát yêu cầu. Nếu không thuộc
trường hợp hủy án để xét xử lại theo quy định tại Điều 250 Bộ luật Tố tụng
hình sự, thì Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm và gửi kiến
nghị cùng hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp giám đốc thẩm xem xét theo thẩm
quyền.
Nhiệm vụ Tòa án cấp phúc thẩm là kiểm tra tính hợp pháp và có căn
cứ của các bản án (quyết định) sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật thông qua
việc xét xử lại vụ án về nội dung. Ngoài việc khắc phục các vi phạm của Tòa
án cấp sơ thẩm được nêu trong kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm
còn có nhiệm vụ tự mình phát hiện các sai sót ở các phần của bản án sơ thẩm
không bị kháng cáo, kháng nghị và kịp thời khắc phục chúng. Việc quy định
thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong tố tụng hình sự một mặt phải bảo
đảm để Tòa án cấp phúc thẩm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ này, đồng thời
không được quá mở rộng các quyền hạn này để không dẫn đến tình trạng quá

tải trong xét xử phúc thẩm hoặc biến cấp phúc thẩm thành Tòa thứ hai xét xử
sơ thẩm lại vụ án.
Việc kháng cáo của bị cáo và các đương sự, kháng nghị của Viện
kiểm sát cùng cấp hoặc cấp trên trực tiếp đối với bản án (quyết định) chưa có


23
hiệu lực pháp luật không chỉ là căn cứ làm phát sinh thủ tục phúc thẩm, mà
còn xác định phạm vi hoạt động cũng như quyền hạn của các chủ thể; phạm vi
xét xử phúc thẩm và quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm ở giai đoạn tố tụng
này.
Việc kháng cáo, kháng nghị đối với toàn bộ hoặc một phần bản án
chưa có hiệu lực pháp luật; việc rút một phần hay toàn bộ kháng cáo, kháng
nghị, bổ sung hoặc thay đổi kháng cáo, kháng nghị của các chủ thể đều ảnh
hưởng trực tiếp đến thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc xem xét
và quyết định các vấn đề cụ thể về vụ án. Ví dụ: việc không kháng cáo, kháng
nghị hay kháng cáo, kháng nghị không hợp lệ (quá hạn mà không có lý do
chính đáng; kháng cáo của những người không có quyền kháng cáo, ) sẽ
không làm phát sinh trình tự phúc thẩm. Khi đó Tòa án cấp phúc thẩm sẽ
không có thẩm quyền xét xử vụ án. Việc rút một phần kháng cáo, kháng nghị
theo hướng tăng nặng đối với bị cáo sẽ loại trừ khả năng Tòa án cấp phúc
thẩm ra quyết định theo hướng không có lợi đối với bị cáo,
Theo quy định pháp luật của một số nước (Pháp, Cộng hòa Liên bang
Nga ), thì Tòa án chỉ có quyền xem xét vụ án trong phạm vi của kháng cáo,
kháng nghị; còn pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
thì quy định rõ trách nhiệm của Tòa án cấp phúc thẩm xem xét toàn bộ vụ án
không phụ thuộc vào nội dung của kháng cáo, kháng nghị.
Ở nước ta, theo quy định tại Điều 241 Bộ luật Tố tụng hình sự, thì Tòa
án cấp phúc thẩm có thể xem xét cả các phần khác của bản án sơ thẩm không
có kháng cáo, kháng nghị, nếu thấy cần thiết.

Trong trường hợp rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị trước khi mở
phiên tòa, thì vụ án hình sự sẽ không được xem xét theo thủ tục phúc thẩm;
nếu rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa, thì việc xét xử phúc thẩm
vụ án phải được đình chỉ.
1.1.4. Đối tượng của xét xử phúc thẩm


24
Đối tượng của xét xử phúc thẩm trong khoa học tố tụng hình sự còn
chưa thống nhất và tập trung ở hai quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: đối tượng của xét xử phúc thẩm là
những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo,
kháng nghị. Quan điểm này thể hiện trong Bộ luật Tố tụng hình sự ở nước ta,
Nhật Bản, Australia
Quan điểm thứ hai cho rằng: Đối tượng của xét xử phúc thẩm là
những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị
kháng cáo, kháng nghị [26, tr. 144].
Theo chúng tôi, quan điểm thứ hai về đối tượng của xét xử phúc thẩm
có căn cứ hơn. Theo quy định tại các điều 20, 24, 30 Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân, Điều 18, Điều 22 Pháp lệnh Tổ chức Tòa án quân sự năm 2002 thì
đối tượng của phúc thẩm được xác định là những vụ án mà bản án, quyết định
chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị.
Mặt khác, hoạt động xét xử của Tòa án là nhằm xác định sự thật khách
quan của vụ án. Để đạt được mục đích đó Tòa án nói chung và Tòa án cấp
phúc thẩm nói riêng phải xem xét đánh giá toàn bộ các chứng cứ, tài liệu có
trong hồ sơ cũng như các chứng cứ mới được đưa ra tại phiên tòa, trong đó có
bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định sơ
thẩm chỉ là một trong các văn bản tố tụng phản ánh kết quả giải quyết vụ án
của Tòa án cấp sơ thẩm và chỉ là một trong những nguồn chứng cứ có giá trị
chứng minh về vụ án được Tòa án cấp phúc thẩm xem xét cùng với các chứng

cứ khác khi xét xử lại vụ án tại phiên tòa. Do đó, đối tượng của xét xử nói
chung và xét xử phúc thẩm nói riêng chỉ có thể là các vụ án.
Từ phân tích trên, có căn cứ để tác giả luận văn đưa ra nhận định: đối
tượng của xét xử phúc thẩm chỉ có thể là những vụ án mà bản án (quyết
định) sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị (chứ


25
không phải và không thể là những bản án (quyết định) chưa có hiệu lực pháp
luật bị kháng cáo, kháng nghị).
1.1.5. Thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Thủ tục xét xử phúc thẩm là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực
tiếp đến chất lượng và hiệu quả xét xử phúc thẩm. Vì vậy việc quy định một
thủ tục phúc thẩm có căn cứ khoa học và hợp lý là một vấn đề cần được quan
tâm và sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự nước ta hiện nay. Thủ tục xét xử lại
các vụ án hình sự ở Tòa án cấp phúc thẩm được quy định khác nhau trong
pháp luật của các nước (tùy thuộc vào quan niệm về tính chất và nhiệm vụ
của cấp phúc thẩm ở mỗi quốc gia) và thường được thể hiện ở 3 hình thức:
- Phiên tòa phúc thẩm hình sự;
- Thủ tục phúc thẩm rút gọn;
- Thủ tục phúc thẩm bút lục.
* Phiên tòa phúc thẩm hình sự
Phiên tòa phúc thẩm là hình thức phổ biến được các nước áp dụng khi
xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự. Ở các nước này, phúc thẩm được xác
định là cấp xét xử thứ hai có nhiệm vụ xét xử lại về nội dung các vụ án mà
bản án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Do đó việc
xét xử vụ án phải được tiến hành tại phiên tòa công khai như phiên tòa sơ
thẩm (trừ trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định). Hầu hết các quy định về
trình tự, thủ tục ở phiên tòa sơ thẩm cũng được áp dụng đối với phiên tòa
phúc thẩm. Bên cạnh đó, phúc thẩm là cấp xét xử lại vụ án nên các nước đều

quy định thêm một số thủ tục tố tụng đặc thù cho phiên tòa phúc thẩm.
Một số nước quy định một thủ tục xét xử phúc thẩm tại phiên tòa áp
dụng chung cho tất cả các vụ án như Liên bang Nga, Cộng hòa Pháp, Việt
Nam Trong khi đó, theo pháp luật của một số nước khác như Nhật Bản, Hàn

×