1
Tác giả
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ HỒNG NHUNG
VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG
THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí
Hà Nội – 2012
2
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT TRONG THỦ TỤC GIÁM ĐỐC
THẨM
1.1.
Vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm.
9
1.1.1.
Khái niệm vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc
thẩm.
9
1.1.2.
Các khía cạnh thể hiện vai trò của Viện kiểm sát trong thủ
tục giám đốc thẩm.
14
1.2.
Vai trò của cơ quan công tố (Viện kiểm sát) trong thủ tục
giám đốc thẩm một số nước trên thế giới
30
1.2.1.
Vai trò của Viện công tố trong thủ tục giám đốc thẩm hình
sự theo pháp luật liên bang Hoa Kỳ - quốc gia theo truyền
thống luật án lệ (common law)
30
1.2.2.
Vai trò của Viện Công tố trong thủ tục giám đốc thẩm (thủ
tục phá án) theo pháp luật của Cộng hòa Pháp
31
1.2.3.
Vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm theo
pháp luật tố tụng hình sự Liên Bang Nga
33
1.2.4
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong thủ tục giám đốc
thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa
36
1.2.5
Một số bài học kinh nghiệm Việt Nam có thể vận dụng đê
hoàn thiện và nâng cao vai trò của Viện kiểm sát trong thủ
tục giám đốc thẩm
39
1.3.
Vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm ở
Việt Nam từ năm 1945 đến nay
42
1.3.1.
Vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm
42
3
trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
1.3.2.
Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về
vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm
47
Chƣơng 2: THỰC TIẾN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM
2.1.
Thực trạng áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát trong thủ
tục giám đốc thẩm
54
2.1.1.
Vai trò của Viện kiểm sát trong việc phát hiện những bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án có dấu
hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng
54
2.1.2.
Vai trò của Viện kiểm sát trong công tác tổ chức, nghiên
cứu và giải quyết các vụ án hình sự theo thủ tục giám đốc
thẩm
69
2.1.3.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp tại
phiên tòa giám đốc thẩm
72
2.2.
Những vướng mắc trong việc thụ lý, giải quyết các trường
hợp đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm vụ án hình sự
74
2.2.1.
Tình trạng quá tải trong việc giải quyết án giám đốc thẩm
hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao
74
2.2.2.
Quy định của pháp luật liên quan đến việc xử lý, giải quyết
các trường hợp đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm còn
những điểm bất cập
75
2.2.3.
Một số khó khăn khác
76
2.3.
Nguyên nhân của những tồn tại trong quá trình thụ lý, giải
quyết vụ án hình sư theo thủ tục giám đốc thẩm
76
2.3.1.
Nguyên nhân chủ quan
76
2.3.2.
Nguyên nhân khách quan
79
Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG
THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM
3.1.
Cơ sở, nguyên tắc hoàn thiện các quy định về vai trò của
81
4
Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm
3.1.1.
Cơ sở hoàn thiện các quy định về vai trò của Viện kiểm sát
trong thủ tục giám đốc thẩm
81
3.1.2.
Nguyên tắc hoàn thiện các quy định về vai trò của Viện
kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm
86
3.2.
Một số kiến nghị cụ thể
89
3.2.1.
Hoàn thiện pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát trong thủ
tục giám đốc thẩm
89
3.2.2.
Một số giải pháp nâng cao vai trò của Viện kiểm sát trong
thủ tục giám đốc thẩm
100
KẾT LUẬN
107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
109
5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
BLTTHS
KSXXHS
TANDTC
TAND
THQCT
VKSNDTC
VKSND
XHCN
: Bộ luật hình sự
: Bộ luật Tố tụng hình sự
: Kiểm sát xét xử hình sự
: Tòa án nhân dân tối cao
: Tòa án nhân dân
: Thực hành quyền công tố
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
: Viện kiểm sát nhân dân
: Xã hội chủ nghĩa
6
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số ký hiệu
Tên bảng
Trang
2.1
Kết quả thụ lý, giải quyết đơn đề nghị kháng nghị
giám đốc thẩm vụ án hình sự trong phạm vi cả nước
(từ 1/12/2006 đến 30/11/2011)
57
2.1
Kết quả thụ lý giải quyết đề nghị kháng nghị giám
đốc thẩm, tái thẩm của các Viện kiểm sát địa phương
và 3 Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm (từ 1/12/2006
đến 30/11/2011)
60
2.3
Kết quả thụ lý, giải quyết án theo thủ tục kháng nghị
giám đốc thẩm vụ án hình sự (từ 1/12/2006 đến
30/11/2011)
70
2.4
Kết quả xét xử giám đốc thẩm vụ án hình sự (từ
1/12/2006 đến 30/11/2011)
71
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong thời gian qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân
đất nước ta đã vượt qua những khó khăn, thử thách; nền kinh tế tiếp tục có
những chuyển biến tích cực, quốc phòng an ninh được giữ vững, trật tự xã hội
ổn định, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng nâng cao. Trong
tình hình chung đó, dưới sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta đối
với ngành Kiểm sát nhân dân vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong
hệ thống các cơ quan Nhà nước tiếp tục được khẳng định. Chất lượng thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp được nâng lên một bước;
góp phần tích cực vào việc phát hiện, điều tra, xử lý đúng người, đúng tội, hạn
chế tỷ lệ oan sai trong tố tụng hình sự, góp phần giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, củng cố và tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; theo đúng tinh thần Nghị quyết đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra: “Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm
tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp [13, tr133]”.
Là một thiết chế trong nhánh quyền tư pháp, quyền công tố ở Việt Nam
được giao cho Viện kiểm sát đảm trách. Có thể nói đây là quyền năng đặc thù
của Viện Kiểm sát nhưng cũng gắn với đó là trách nhiệm nặng nề nhằm đảm
bảo cho việc truy tố được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế đến
mức thấp nhất tình trạng oan sai và bỏ lọt tội phạm. Thực hành quyền công tố
là một hoạt động mấu chốt trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nó được
tiến hành từ khi người thực hiện hành vi phạm tội bị khởi tố cho đến khi thi
hành phán quyết của Tòa án về hành vi phạm tội đó.
Tuy nhiên, qua thực tiễn tố tụng cho thấy các phán quyết của Tòa án
qua các bản án, quyết định không phải khi nào cũng đúng mà có không ít bản
8
án, quyết định sai phạm do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc sai lầm
trong áp dụng luật hình sự xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người bị
kết án hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Đòi hỏi tất yếu
cho thấy việc khắc phục những sai lầm, vi phạm đó là hết sức cần thiết, nhằm
một mặt bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kết án hoặc người có
liên quan đến vụ án, mặt khác để đảm bảo cho pháp luật được tuân thủ một
cách triệt để. Đó là những yêu cầu thiết yếu cần phải có thủ tục đặc biệt trong
tố tụng hình sự để xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ
tục giám đốc thẩm. Đây là một chế định quan trọng của luật tố tụng hình sự
và là một thủ tục đặc biệt trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Điều 272
Bộ luật tố tụng hình sự quy định “Giám đốc thẩm là xét lại bản án hoặc quyết
định có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp
luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án” [3, tr 199]. Thực tiễn khẳng định,
kháng nghị giám đốc thẩm chính là một biện pháp, một công cụ hữu hiệu để
kiểm tra lại tính hợp pháp của các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
Tuy nhiên, qua tổng kết hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân cho thấy,
bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp vẫn còn nhiều hạn chế nhất là trong lĩnh vực giám
đốc thẩm vụ án hình sự: tình trạng đơn yêu cầu kháng nghị giám đốc thẩm
tăng nhanh vượt quá khả năng giải quyết của Tòa án và Viện kiểm sát, tiến độ
giải quyết đơn chậm, kéo dài; tình trạng kháng nghị giám đốc thẩm nhiều
nhưng không được Hội đồng xét xử chấp nhận; đặc biệt là tình trạng bản án
kháng nghị chưa mang ý nghĩa là chuẩn mực trong việc áp dụng pháp luật để
hướng dẫn, chỉ đạo rút kinh nghiệm đối với cấp dưới. Điều này do rất nhiều
nguyên nhân khác nhau, từ nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của công tác
kháng nghị giám đốc thẩm trong việc thực hiện các quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự, cho đến trình độ năng lực, trách nhiệm của một bộ phận cán bộ,
9
Kiểm sát viên làm công tác giám đốc thẩm còn hạn chế cũng như chưa có hệ
thống các văn bản hướng dẫn để áp dụng thống nhất các quy định trong Bộ
luật tố tụng hình sự
Một tình trạng nổi bật và phổ biến ở nước ta là trong một thời gian dài
vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân hầu như chỉ được đề cập và
quan tâm nhiều trong các lĩnh vực Kiểm sát điều tra, Kiểm sát xét xử sơ thẩm,
phúc thẩm mà không chú ý đầy đủ công tác Thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm hình sự. Thêm vào đó,
công tác nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực mang tính thời sự ở
giai đoạn đầu của quá trình tố tụng hình sự mà chưa đi sâu vào nghiên cứu
lĩnh vực hoạt động trong giai đoạn giám đốc thẩm, mặc dù đây cũng là một
giai đoạn hết sức cần thiết và quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án
hình sự cụ thể. Với mong muốn đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề này trên
phương diện lý luận và thực tiễn, để xây dựng những luận cứ khoa học, góp
phần tìm ra giải pháp nâng cao trách nhiệm, thẩm quyền của Viện kiểm sát
nhân dân mà cụ thể là nâng cao hiệu quả công tác Thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn giám đốc thẩm; vì vậy,
việc nghiên cứu một cách chuyên sâu và toàn diện về “Vai trò của Viện kiểm
sát trong thủ tục giám đốc thẩm các vụ án hình sự”, là cần thiết trong thời
điểm hiện nay.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Công tác giải quyết án hình sự trong giai đoạn xét xử nói chung và giai
đoạn giám đốc thẩm nói riêng đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên
cứu của các học giả, các cuốn sách, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các bài
viết trên các tạp chí …Có thể thống kê một số công trình sau:
10
- TS. Dương Thanh Biểu (2010),“Kỹ năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử vụ án hình sự theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm”, Nhà
xuất bản tư pháp;
- Đinh Văn Quế (1997),“Giám đốc thẩm, tái thẩm về hình sự - những
vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia;
- Tôn Thiện Phương (2002), “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong
xét xử vụ án hình sự”, Luận văn Thạc sĩ, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Chuyên đề (2008), "Một số vấn đề rút ra từ các bản án hoặc quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị giám đốc thẩm hủy đề điều tra lại
hoặc xét xử lại", Vụ 3, Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Chuyên đề (2006), “Nâng cao chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm,
tái thẩm, công tác kiểm tra giám đốc thẩm hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp hiện nay”, Vụ 3, Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Đỗ Văn Đương (2006), “Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải
cách tư pháp ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Kiểm sát, Hà Nội;
Tuy vậy, các nghiên cứu, bài viết và chuyên đề nêu trên đều đề cập một
cách toàn diện, hệ thống thủ tục giám đốc thẩm hoặc vai trò của Viện kiểm sát
trong quá trình tố tụng. Còn luận văn tập trung đến vai trò, trách nhiệm của
Viện kiểm sát nhân dân trong thủ tục giám đốc thẩm trên cơ sở phân tích
những vấn đề lý luận, thực tiễn góp phần giải quyết một số vấn đề pháp lý,
nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng của Viện kiểm sát ở giai đoạn giám
đốc thẩm, tăng cường vị trí, vai trò cũng như trách nhiệm của Viện kiểm sát
trong hệ thống cơ quan Nhà nước, bảo đảm pháp chế trong xét xử hình sự.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
11
Về mặt lý luận: Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến chế
định Giám đốc thẩm; vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong thủ tục
Giám đốc thẩm theo Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
Góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự trong tiến trình cải cách
tư pháp trên tinh thần của Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24 tháng 5 năm
2005 và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính
trị nhằm xây dựng hệ thống tố tụng hoàn chỉnh, tiến bộ và vì con người.
Về mặt thực tiễn:
Thứ nhất, trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng tình hình giải quyết các
vụ án hình sự theo thủ tục giám đốc thẩm ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao
qua đó đánh giá vị trí, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân ở giai đoạn
này, góp phần hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm như Nghị quyết 49 của Bộ
chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đã nêu: “Từng bước hoàn thiện thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ
kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản
án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực; khắc phục tình trạng kháng
nghị tràn lan, thiếu căn cứ”.
Thứ hai, nghiên cứu để tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật từ đó đưa
ra các giải pháp khắc phục hạn chế, nâng cao chất lượng giám đốc thẩm, tăng
cường trách nhiệm tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn giám
đốc thẩm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ
sau:
12
Một là, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về vai
trò, trách nhiệm, quyền hạn, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong giai
đoạn giám đốc thẩm các vụ án hình sự ở Việt Nam và một số nước trên thế
giới.
Hai là, chỉ rõ những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật tố
tụng hình sự hiện hành gây ra khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình ở giai đoạn giám đốc thẩm trong giai
đoạn từ năm 2007 đến năm 2011.
Ba là, đề xuất các quan điểm luận chứng, một số tiêu chí hoàn thiện các
quy định về vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: là những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò,
của Viện kiểm sát nhân dân trong thủ tục giám đốc thẩm hình sự ở Việt Nam
và một số nước trên thế giới.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Do điều kiện có hạn, luận văn chỉ
tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản về thủ tục giám đốc thẩm cũng như
vai trò của Viện kiểm sát nhân dân (trừ Viện kiểm sát quân sự) theo thủ tục
giám đốc thẩm đối với các bản án hình sự. Luận văn không nghiên cứu thủ
tục này đối với các bản án dân sự, hành chính, kinh tế, lao động
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận: Để phù hợp với nội dung nghiên cứu và giải quyết được
các nhiệm vụ mà đề tài đặt ra; Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa
Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Đường lối
quan điểm của Đảng thực hiện cải cách tư pháp về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công
13
dân; về vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong
bộ máy nhà nước.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn trực tiếp sử dụng các phương pháp
kết hợp lý luận và thực tiễn, phân tích, tổng hợp cụ thể. Ngoài ra, luận văn có
sử dụng một số phương pháp chuyên ngành như tổng hợp, phân tích, thống
kê, so sánh, quy nạp và diễn dịch. Đặc biệt, phương pháp khảo sát thực tế,
thăm dò ý kiến của những người làm công tác thực tiễn được sử dụng ở mức
độ đáng kể trong quá trình nghiên cứu luận văn.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn là một công trình nghiên cứu chuyên khảo, đề cập một cách
trực tiếp và khá toàn diện về vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai
đoạn giám đốc thẩm các vụ án hình sự.
Luận văn có nêu rõ một số khái niệm khoa học pháp lý về chức năng
của Viện kiểm sát, vai trò của Kiểm sát viên trong công tác thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn giám đốc thẩm
các vụ án hình sự. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra một số kiến
nghị hoàn thiện các quy định về vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong
thủ tục giám đốc thẩm.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần giải đáp về mặt lý luận và
thực tiễn những vấn đề liên quan đến vai trò, trách nhiệm, thẩm quyền của
Viện kiểm sát trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật ở giai đoạn giám đốc thẩm.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu cho việc nghiên cứu và hoàn thiện
pháp luật về thực hành quyền công tố đối với các nhà hoạch định chính sách,
xây dựng luật và những ai quan tâm đến vấn đề này.
14
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn
gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về vai trò của Viện kiểm sát trong thủ
tục giám đốc thẩm.
Chương 2: Thực tiễn về vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám
đốc thẩm.
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao vai trò
của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm.
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM
SÁT TRONG THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM
1.1. VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG THỦ TỤC GIÁM ĐỐC
THẨM
1.1.1. Khái niệm vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc
thẩm
Cũng như thông lệ quốc tế, các hoạt động tố tụng hình sự trong pháp
luật Việt Nam đều nhằm phát hiện và xử lý chính xác, kịp thời và công minh
mọi hành vi phạm tội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ
các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và công dân. Để đạt được
15
mục đích đó, Bộ luật tố tụng hình sự quy định các cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án
một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Tuy nhiên, trong thực tế, do nhiều
nguyên nhân khác nhau, có lúc, có nơi việc giải quyết vụ án của các cơ quan
tiến hành tố tụng còn để lọt tội phạm, làm oan người vô tội, xét xử quá nặng,
quá nhẹ hoặc có những vi phạm pháp luật cần khắc phục, sửa chữa. Quá trình
tố tụng hình sự bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó giai đoạn trước
là tiền đề cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn sau, giai đoạn
sau lại là sự kiểm nghiệm kết quả của giai đoạn trước. Chính vì vậy, một mặt
để đảm bảo nguyên tắc của luật tố tụng hình sự Việt Nam là thực hiện chế độ
hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, đồng thời vẫn bảo đảm quyền con người
được bảo vệ ở mức cao nhất với phương châm mọi oan sai trong vụ án đều
được khắc phục bởi các thủ tục tố tụng công khai, dân chủ, Bộ luật tố tụng
hình sự quy định một thủ tục tố tụng đặc biệt - thủ tục giám đốc thẩm "là xét
lại bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị
kháng nghị vì phát hiện có vi phạm nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án", bởi
lẽ:
Một là, giám đốc thẩm không phải là việc xét xử lại vụ án mà là xét lại
bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật khi phát hiện bản án,
quyết định đó có vi phạm nghiêm trọng, bị kháng nghị;
Hai là, không phải bất cứ trường hợp nào bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật có vi phạm cũng được tiến hành xét lại theo thủ tục giám đốc
thẩm, mà phải là các trường hợp bản án, quyết định đó của Toà án có vi phạm
nghiêm trọng mới được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm;
Ba là, việc đặt ra thủ tục giám đốc thẩm không phải là phổ biến đối với
mọi vụ án hoặc phần lớn số vụ án mà chỉ là trường hợp thật đặc biệt mới đặt
ra, cho nên nó chỉ là hãn hữu, là rất ít.
16
Để đưa một bản án hay quyết định của Tòa án ra xem xét lại theo thủ
tục giám đốc thẩm cần phải có đủ các điều kiện sau:
- Một là, chỉ thực hiện đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật. Theo quy định tại khoản 1, Điều 255 Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003, những bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật bao gồm: (1)
những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; (2) những bản án và quyết định của Tòa
án cấp phúc thẩm; (3) những quyết định của Tòa án cấp giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm.
- Hai là, có sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án.
- Ba là, có kháng nghị của người có thẩm quyền.
Là một thủ tục tố tụng đặc biệt, xong ở mỗi hệ thống pháp luật khác
nhau mà quan niệm về thủ tục giám đốc thẩm cũng có sự khác nhau. Trong hệ
thống pháp luật của một số quốc gia trên thế giới theo truyền thống luật án lệ
thường không quy định thủ tục giám đốc thẩm hay thủ tục phá án mà việc
kháng cáo được tiến hành theo thủ tục tố tụng tại Tòa kháng cáo với nhiều
loại thủ tục khác nhau như pháp luật Australia hay pháp luật Hoa Kỳ. Theo hệ
thống pháp luật của những nước này thì đều coi các bản án, quyết định đã
tuyên của Tòa án cấp thứ nhất (tòa sơ thẩm) là phán quyết cuối cùng và có
hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án; tuy nhiên các cấp tòa án cao hơn
vẫn có thể xem xét lại các bản án, quyết định đã tuyên của tòa án cấp thấp hơn
nếu bị kháng cáo hay kháng nghị. Việc xem xét lại các phán quyết cuối cùng
này cùng có phần tương tự như thủ tục xét lại bản án có hiệu lực pháp luật
hoặc lời kết tội của quy chế Rôma về Tòa hình sự quốc tế (ICC). Điều 84, quy
chế Rôma: "Người bị kết án hoặc nếu người đó chết thì vợ hoặc chồng, con,
cha, mẹ hoặc một người đang sống vào thời điểm bị cáo chết mà được người
đó chỉ dẫn rõ ràng bằng văn bản việc đệ đơn khiếu nại, hoặc Trưởng công tố
17
có quyền đề nghị Hội đồng Phúc thẩm xét lại phán quyết cuối cùng về lời
buộc tội hoặc bản án". Tuy khác nhau về tên gọi, nhưng việc các chủ thể
"khiếu nại" hay "đề nghị" hoặc "kháng cáo" hay "kháng nghị" đều là căn cứ
để bắt đầu thủ tục tố tụng kháng cáo và có cùng nội dung là yêu cầu Hội đồng
Phúc thẩm xét lại lời kết tội hay bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Trái
lại, ở những quốc gia theo truyền thống luật lục địa (luật dân sự), thường thực
hiện chế độ "hai cấp xét xử" thì lại có sự quy định cụ thể thủ tục giám đốc
thẩm hay thủ tục phá án như pháp luật Cộng hòa Pháp, pháp luật Liên bang
Nga, pháp luật Trung Hoa…Theo đó, sau khi vụ án được xét xử theo thủ tục
sơ thẩm, bản án, quyết định sơ thẩm không có hiệu lực ngay mà có thể bị
kháng cáo hoặc kháng nghị theo trình tự phúc thẩm, bản án phúc thẩm có hiệu
lực ngay sau khi tuyên án. Mặc dù vậy, ngay cả khi bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực pháp luật nhưng nếu phát hiện có vi phạm nghiêm trọng
trong quá trình tiến hành tố tụng thì Tòa án cấp trên vẫn có quyền xét lại bản
án theo một thủ tục đặc biệt gọi là thủ tục giám đốc thẩm hay thủ tục phá án.
Pháp luật Việt Nam vừa có những nét tương đồng với pháp luật thế
giới để phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế mạnh mẽ hiện nay, lại có
những đặc thù riêng đáp ứng nhu cầu về tình hình trị an, đặc điểm văn hóa xã
hội trong nước. Việc xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật
theo trình tự giám đốc thẩm là thủ tục tố tụng đặc biệt và có những đặc thù so
với xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và tái thẩm. Thủ tục giám đốc thẩm được hiểu
là việc "xét lại bản án, quyết định" có hiệu lực pháp luật khi bản án, quyết
định đó bị kháng nghị vì có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý
vụ án chứ không phải là thủ tục "xét xử lại vụ án". Và do vậy, chỉ khi có một
trong những căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo quy định tại Điều 273
BLTTHS năm 2003 thì người có thẩm quyền kháng nghị mới được thực hiện
quyền kháng nghị và Tòa án mới tiến hành xét lại bản án theo thủ tục giám
18
đốc thẩm. Trong thủ tục giám đốc thẩm, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân là
không thể thiếu: vừa là chủ thể có trách nhiệm phát hiện ra những thiếu sót,
sai lầm trong bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật đồng thời thực
hiện quyền kháng nghị giám đốc thẩm để sửa chữa, khắc phục những sai lầm
đó; vừa là chủ thể đảm bảo cho hoạt động xét xử giám đốc thẩm được tiến
hành đúng quy định của pháp luật. Theo quy định của Hiến pháp hiện hành thì
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thuộc nhánh quyền tư pháp trong cơ cấu tổ
chức bộ máy nhà nước, chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp là hai chức năng hiến định của Viện kiểm sát. Do đặc thù
của từng giai đoạn, từng thủ tục tố tụng mà hình thức thể hiện các dạng quyền
năng tương ứng với từng giai đoạn như quyền truy tố, xét hỏi, tranh luận, luận
tội, phát biểu ý kiến, kết luận kháng nghị… cũng khác nhau. Ở giai đoạn này,
chức năng công tố của Viện kiểm sát vẫn tiếp tục được duy trì, quyền công tố
thể hiện rõ nét nhất chính là quyền kháng nghị giám đốc thẩm, hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật cũng xoay quanh việc kháng nghị hay không
kháng nghị giám đốc thẩm. Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát là căn
cứ giúp cho Hội đồng giám đốc thẩm quyết định việc chấp nhận hay bác bỏ
các nội dung kháng nghị cho rằng bản án đã có hiệu lực pháp luật có sai lầm
nghiêm trọng. Qua đó đảm bảo việc đưa bản án đã có hiệu lực pháp luật ra thi
hành đúng đắn, phù hợp với chân lý khách quan, góp phần bảo vệ quyền con
người xét trên cả hai góc độ: bảo vệ công dân trước sự xâm hại của các loại
tội phạm và bảo đảm quyền và lợi ích của người bị kết án. Để hoàn thành vai
trò quan trọng của mình, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,
với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện thủ tục giám đốc thẩm
vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân cũng có những quyền hạn nhất định
gắn liền với trách nhiệm, nhiệm vụ cụ thể tương ứng và phù hợp với chức
năng của ngành kiểm sát nhân dân. Cụ thể: quyền kháng nghị theo thủ tục
19
giám đốc thẩm; quyền hoãn, tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án; quyền tham gia phiên tòa, phát biểu ý kiến của
Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án cùng với nhiều quy định liên quan. Các
quy định về thủ tục giám đốc thẩm trong BLTTHS năm 2003 được xây dựng
đã tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao hơn nữa chất lượng giám đốc thẩm, bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân, đồng thời khẳng định sự hiện
diện của Viện kiểm sát trong quá trình tố tụng là để góp phần sửa chữa, khắc
phục những thiếu sót, sai lầm trong việc điều tra, truy tố và xét xử các vụ án
hình sự đảm bảo việc truy tố, xét xử, thi hành án, đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật; bảo đảm các nguyên tắc tố tụng hình sự được thực hiện một cách
chính xác, triệt để.
Từ những nội dung phân tích trên, tác giả xin đưa ra khái niệm "vai trò
của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm là những hoạt động của Viện
kiểm sát thể hiện chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố
tụng hình sự, nhiệm vụ, quyền hạn trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ
tục giám đốc thẩm góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kết
án hoặc người có liên quan đến vụ án và đảm bảo cho pháp luật được tuân
thủ một cách triệt để".
1.1.2. Các khía cạnh thể hiện vai trò của Viện kiểm sát trong thủ
tục giám đốc thẩm.
1.1.2.1. Chức năng của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm.
Kể từ Hiến pháp năm 1959, lần đầu tiên trong lịch sử Nhà nước dân
chủ nhân dân Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân được quy định là một cơ
quan độc lập, tổ chức và hoạt động, thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo Hiến
pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; chức năng của Viện kiểm sát
tuy có sự thay đổi về nội dung qua các thời kỳ lịch sử khác nhau xong chức
20
năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật vẫn là hai chức năng hiến
định của ngành, thể hiện: Hiến pháp năm 1959, ngoài chức năng công tố còn
thực hiện một chức năng thứ hai là kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Hiến
pháp năm 1980 tiếp tục khẳng định, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật. Hiến
pháp năm 1992 tuy có sửa đổi một số quy định về tổ chức và phạm vi hoạt
động của Viện kiểm sát nhưng chức năng công tố vẫn giao cho Viện kiểm sát
đảm nhiệm. Đến Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) và Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 thì Viện kiểm sát nhân dân có hai chức
năng: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Tại Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về "Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020" vẫn khẳng định: "Viện kiểm sát nhân
dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp" [15, tr 5].
Riêng ở giai đoạn giám đốc thẩm, vẫn là chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với các chủ
thể, nhưng có những điểm khác biệt đối với thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong các giai đoạn khác của tố tụng hình sự.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn
giám đốc thẩm chỉ có thể phát sinh khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu
lực pháp luật bị kháng nghị vì có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong
việc xử lý vụ án [3, tr 199].
Trong quá trình thực hành quyền công tố ở giai đoạn giám đốc thẩm,
thì Kiểm sát viên, Kiểm tra viên Viện kiểm sát là những người trực tiếp thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Thực hành quyền công tố thể hiện rõ nét nhất ở giai đoạn này chính là quyền
kháng nghị Giám đốc thẩm, quyền tham gia phiên tòa và phát biểu quan điểm
21
về việc giải quyết vụ án. Thông qua việc xem xét lại các bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng cấp hoặc cấp dưới gửi đến (được gọi là
nguồn án văn), thông qua việc giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của người bị
kết án, công dân hoặc kiến nghị của các cơ quan, tổ chức về bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật của Tòa án (nguồn đơn), thông qua các báo cáo đề
xuất kháng nghị xét xử lại theo thủ tục giám đốc thẩm của Viện kiểm sát cấp
dưới (nguồn thỉnh thị), thông qua kết quả kiểm tra công tác nghiệp vụ và cuối
cùng là các tin tức trên các phương tiện thông tin đại chúng [38, tr 17-18],
Viện kiểm sát sử dụng các quyền năng pháp lý để xác minh các căn cứ kháng
nghị giám đốc thẩm, qua đó đưa ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm
hoặc thông báo không có căn cứ giám đốc thẩm hay thể hiện quan điểm về
những trường hợp Tòa án kháng nghị. Ngoài ra, đối với những vụ án hình sự
mà những vi phạm pháp luật trong hoạt động xét xử chưa nghiêm trọng đến
mức phải dùng đến biện pháp "kháng nghị" thì Viện kiểm sát có thể "kiến
nghị" để yêu cầu Tòa án nhân dân khắc phục những vi phạm đó.
Đối tượng của công tác kiểm sát ở giai đoạn giám đốc thẩm là sự tuân
thủ pháp luật của Hội đồng giám đốc thẩm và những người tham gia tố tụng
khác trước, trong và sau phiên tòa giám đốc. Kiểm sát viên được giao giải
quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của Tòa án xét xử giám đốc thẩm về thời hạn xét xử, về việc triệu tập người bị
kết án, người bào chữa, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến việc kháng
nghị (nếu có); thành phần Hội đồng xét xử giám đốc thẩm; thủ tục xét hỏi
những người được Tòa án triệu tập đến phiên tòa (nếu có); việc Hội đồng xét
xử giám đốc thẩm biểu quyết và áp dụng thay đổi biện pháp ngăn chặn đối
với bị cáo; việc ra và gửi các quyết định giám đốc thẩm; việc chuyển hồ sơ vụ
án để điều tra, xét xử lại.
22
Tóm lại, ở giai đoạn giám đốc thẩm, Viện kiểm sát vẫn có hai chức
năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật như các
giai đoạn tố tụng trước. Viện kiểm sát vừa là chủ thể có trách nhiệm phát hiện
ra những vi phạm nghiêm trọng trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án và thực hiện quyền kháng nghị đối với những bản án, quyết
định đó; vừa là chủ thể đảm bảo cho hoạt động của phiên tòa giám đốc thẩm
được tiến hành đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, thông qua hoạt động
phát biểu quan điểm, kết luận về nội dung kháng nghị của đại diện Viện kiểm
sát, Hội đồng giám đốc thẩm đưa ra được những quyết định có căn cứ, đúng
pháp luật bảo đảm việc xét xử được đúng người, đúng tội, góp phần đấu tranh
phòng ngừa và chống vi phạm pháp luật, đảm bảo pháp chế Xã hội chủ nghĩa.
1.1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong thủ tục giám
đốc thẩm
Để thực hiện tốt chức năng Hiến định của ngành Kiểm sát nhân dân,
với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng, trong thực hiện thủ tục giám đốc
thẩm vụ án hình sự Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền sau:
- Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm;
- Tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định bị kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm;
- Tham gia phiên tòa, phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân
trong việc giải quyết vụ án.
Một là: thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm
Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là quyết định của người có
thẩm quyền đối với toàn bộ hay một phần bản án hoặc quyết định của Tòa án
23
đã có hiệu lực pháp luật để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xét lại theo thủ tục
giám đốc thẩm.
Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm là cơ sở phát sinh thủ tục giám
đốc thẩm, nếu không có kháng nghị giám đốc thẩm thì cho dù bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng, vụ án cũng không được xét xử lại theo thủ tục giám đốc thẩm.
Về chủ thể có quyền kháng nghị: Ngay từ khi mới có chế định giám đốc
thẩm hình sự, pháp luật đã quy định về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm của VKSND. Qua các lần sửa đổi BLTTHS, thẩm quyền
kháng nghị của Viện kiểm sát vẫn được khẳng định. Theo quy định tại Điều
275 BLTTHS năm 2003, ở hệ thống cơ quan Viện kiểm sát thì chỉ có Viện
trưởng Viện kiểm sát mới có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm. Điều
luật nêu rõ, Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án các cấp, trừ quyết định
giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TANDTC; Viện trưởng VKSND cấp
tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định có
hiệu lực của Tòa án cấp dưới.
So sánh với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 cho thấy, Điều 275
BLTTHS năm 2003 đã bỏ quy định tại khoản 2, Điều 244 BLTTHS năm 1988
quy định về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của Phó
Chánh án TANDTC và Phó Viện trưởng VKSNDTC đối với những bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa án cấp dưới. Quy định
này là phù hợp với Luật tổ chức TAND năm 2002 và Luật tổ chức VKSND
năm 2002.
Về nguồn để phát hiện ra căn cứ kháng nghị: Với tư cách là cơ quan
tiến hành tố tụng, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kháng nghị giám
24
đốc thẩm có thể xuất phát từ đơn đề nghị của người bị kết án, thông báo của
cá nhân, cơ quan, tổ chức khác; thông tin trên các phương tiện truyền thông;
do Viện kiểm sát cấp dưới đề nghị hay xuất phát từ cơ sở do chính người có
thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm phát hiện được vi phạm pháp luật.
Điều này có nghĩa là, pháp luật không quy định phạm vi kháng nghị giám đốc
thẩm phải dựa trên yêu cầu của người bị kết án hoặc có thông báo của người
phát hiện có vi phạm, trên cơ sở xem xét các căn cứ luật định, người có thẩm
quyền kháng nghị quyết định phạm vi, nội dung của việc kháng nghị. Khi có
kháng nghị của người có thẩm quyền, trong thời hạn luật định, Tòa án phải
xem xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm. Tính có căn cứ của
kháng nghị là cơ sở để Hội đồng giám đốc thẩm đưa ra quyết định chấp nhận
hay không chấp nhận kháng nghị chứ không phải là căn cứ để Tòa án xem xét
có mở thủ tục giám đốc thẩm hay không.
Về nội dung kháng nghị: Điều 285 BLTTHS năm 2003 quy định về
thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm. Đây cũng chính là nội dung kháng
nghị của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm. Xét trên phương diện
kháng nghị giám đốc thẩm, Viện kiểm sát nhân dân có thể kháng nghị theo
hai hướng:
Thứ nhất, trường hợp khi Kiểm sát viên được giao giải quyết vụ án
chứng minh được bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
có một trong những căn cứ được quy định tại Điều 107 BLTTHS, gồm: (1)
không có sự việc phạm tội; (2) hành vi không cấu thành tội phạm; (3) người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình
sự; (4) người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình
chỉ vụ án có hiệu lực; (5) đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; (6) tội
phạm đã được đại xá; (7) người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã
chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác thì báo cáo lãnh đạo
25
Viện kháng nghị theo hướng hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp
luật và đình chỉ vụ án.
Thứ hai, khi xác minh được bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án có một trong những căn cứ quy định tại Điều 273 BLTTHS,
cụ thể: (1) việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ; (2)
kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình tiết
khách quan của vụ án; (3) có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong
khi điều tra, truy tố hoặc xét xử; (4) có những sai lầm trong việc áp dụng
BLHS thì Viện kiểm sát kháng nghị theo hướng hủy bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án để điều tra lại hoặc xét xử lại.
Kháng nghị theo hướng hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật để điều tra lại là trường hợp trong quá trình điều tra có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc còn nhiều tình tiết chưa được làm sáng tỏ,
dẫn tới việc phán quyết của bản án, quyết định đó thiếu khách quan, toàn
diện.
Kháng nghị theo hướng hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật để xét xử lại thì tùy từng trường hợp có thể đề nghị hủy bản án hoặc
quyết định đó để xét xử lại từ cấp sơ thẩm hoặc phúc thẩm khi bản án sơ thẩm
hoặc phúc thẩm có những sai lầm nghiêm trọng khi áp dụng pháp luật hình sự
hoặc vi phạm thủ tục tố tụng nghiêm trọng trong quá trình xét xử.
Về quyền bổ sung, rút kháng nghị: Đây được coi là một quyền năng
pháp lý khác được trao cho Viện kiểm sát để đảm bảo quyền kháng nghị giám
đốc thẩm thực hiện một cách có hiệu quả, chính xác, hạn chế việc kháng nghị
thiếu căn cứ đó chính là quyền được bổ sung, rút kháng nghị. Khoản 3, Điều
277 BLTTHS quy định: "Trước khi bắt đầu phiên tòa giám đốc thẩm, người
đã kháng nghị có quyền bổ sung kháng nghị nếu chưa hết thời hạn kháng nghị