Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Vai trò của viện kiểm sát trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN BÁ PHÙNG




VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG VIỆC ÁP DỤNG
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN: BẮT, TẠM GIỮ, TẠM GIAM
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM









LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC













HÀ NỘI - 2010

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN BÁ PHÙNG



VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG VIỆC ÁP DỤNG
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN: BẮT, TẠM GIỮ, TẠM GIAM
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM




Chuyên ngành : Luật Hình sự
Mã số : 60.38.40






LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC






Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Ngọc Quang





HÀ NỘI - 2010
LỜI CAM ĐOAN

Tên tôi là : Nguyễn Bá Phùng
Học viên lớp Cao học Luật hình sự khoá 13 Khoa Luật Đại học Quốc Gia
Hà Nội.
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN




Nguyễn Bá Phùng








MỤC LỤC


Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU

1




1.1

1.1.1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG VIỆC ÁP DỤNG CÁC
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN BẮT, TẠM GIỮ, TẠM
GIAM.
Khái quát về các biện pháp ngăn chặn bắt người, tạm giữ,
tạm giam.
Sự cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người,
tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự.
6



6

6

1.1.2
Căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng biện pháp ngăn chặn
bắt người, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự.
13
1.2



1.2.1
1.2.2
Thẩm quyền và trách nhiệm của Viện Kiểm sát trong việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn bắt người, tạm giữ, tạm giam
trong tố tụng hình sự.
Thẩm quyền.
Trách nhiệm.
24


24
27

Chương 2: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN
KIỂM SÁT TRONG VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP
BẮT NGƯỜI, TẠM GIỮ, TẠM GIAM
36
2.1.
Tình hình chung về việc bắt người, tạm giữ, tạm giam từ
năm 2005 đến 2008.
36
2.1.1.
Tình hình bắt người
36
2.1.2
Tình hình tạm giữ người
40
2.1.3
Tình hình tạm giam người

46
2.2
Tình hình Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát việc
bắt người, tạm giữ, tạm giam.
51
2.2.1
Tình hình Viện kiểm sát phê chuẩn các quyết định bắt
người, tạm giữ, tạm giam.
51
2.2.2
Tình hình Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tạm giữ, tạm giam.
59
2.2.3.
Nguyên nhân làm phát sinh những tồn tại trong hoạt động
của Viện kiểm sát liên quan đến bắt người, tạm giữ, tạm
giam.
66

Chương 3: NHỮNG KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN
KIỂM SÁT TRONG VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP
BẮT NGƯỜI, TẠM GIỮ, TẠM GIAM
72
3.1.
Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự.
72
3.2.
Hoàn thiện tổ chức Viện Kiểm sát.
78

3.3.
Hoàn thiện về trình độ, năng lực Kiểm sát viên.
80
3.4
Những kiến nghị khác
83

KẾT LUẬN
87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
90









DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Tình hình bắt tạm giữ từ năm 2005 đến 2008
40

2.2
Tình hình bị can bị khởi tố và bắt tạm giam từ năm
2005 – 2008
47
2.3
Tình hình Viện kiểm sát không phê chuẩn: lệnh bắt
khẩn cấp; gia hạn tạm giữ; lệnh bắt tạm giam và
lệnh tạm giam từ 2004 – 2005
52
2.4
Tình hình VKS kiểm sát việc tạm giam của từ năm
2005 đến 2008
61
2.5
Tình hình kiểm sát việc tạm giam từ năm 2005 đến
năm 2008
63











1
MỞ ĐẦU


1. Tình thế cấp thiết của đề tài.
Quán triệt Chỉ thị số 53- CT/TW ngày 21/3/2000 của trung ương Đảng
cộng sản Việt Nam về một số công vệc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần
thực hiện trong năm 2000 đã nêu rõ:
“Tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân đối với
công tác bắt, giam giữ. Việc bắt, giam phải được xem xét phê chuẩn đối
với từng trường hợp, từng đối tượng cụ thể. Đối với trường hợp bắt
giam cũng được hoặc không bắt giam cũng được thì không bắt giam.
Sai sót trong việc bắt, giam, giữ ở địa phương nào thì trước hết Viện
kiểm sát nhân dân ở địa phương đó chịu trách nhiệm”.
Quan điểm chỉ đạo rõ ràng là đối với trường hợp bắt giam cũng được
hoặc không bắt giam cũng được thì không bắt giam. Sai sót trong việc bắt,
giam, giữ ở địa phương nào thì trước hết Viện kiểm sát nhân dân ở địa
phương đó chịu trách nhiệm.
Nghị Quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới cũng chỉ rõ:
“… Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ bảo đảm
đúng pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì
kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và
xử lý kịp thời các trường hợp oan sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát các
cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm
giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình…”.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định cụ thể về quyền và nghĩa
vụ, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng và trình tự, thủ tục tố tụng cần được học tập nghiên

2
cứu một cách có hệ thống để vận dụng đúng vào thực tế giải quyết các vụ án
tránh được các oan, sai đáng tiếc xảy ra trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam.

Đảm bảo cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đạt kết quả cao nhất,
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần vào việc tăng
cường pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Các biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự
bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử thi hành án được khách quan,
thuận lợi. Nhưng hiện nay việc hiểu và vận dụng các quy định pháp luật về
căn cứ, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn vẫn có không ít
những trường hợp không đúng pháp luật, như việc bắt, tạm giữ hình sự sau đó
chuyển xử lý hành chính; bắt, tạm giữ, tạm giam, oan sai xâm phạm đến các
quyền cơ bản của công dân. Ngược lại, có trường hợp cần thiết phải bắt
nhưng không bắt tạm giam dẫn đến nhiều vụ án không được điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án do người phạm tội bỏ trốn, đã gây nên sự hoài nghi của
quần chúng nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật, làm giảm sút uy
tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Những sai sót, hạn chế nêu trên không
thể không nhắc tới hạn chế về chất lượng công tác thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
bắt, tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát, đảm bảo cho việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn phát huy được tác dụng trong ngăn ngừa tội phạm và đảm bảo
các hoạt động tố tụng về điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được tiến hành
thuận lợi, nhanh chóng, giải quyết dứt điểm các vụ án, không để xảy ra oan
sai. Thực hiện tốt công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp sẽ phản ánh đích thực về vị trí, vai trò của cơ quan Viện Kiểm sát trong
bộ máy Nhà nước và trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam.
Tình hình trên cho thấy việc nghiên cứu có hệ thống các quy định pháp
luật về bắt, tạm giữ, tạm giam cũng như vai trò của Viện kiểm sát trong vấn

3
đề này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Chính vì lý do đó tác giả quyết
định chọn đề tài: “Vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn: bắt, tạm giữ, tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” cho

luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Luận văn nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về các biện pháp ngăn
chặn: bắt, tạm giữ, tạm giam và vai trò của Viện kiểm sát trong việc bắt, tạm
giữ, tạm giam trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Từ đó làm sáng tỏ những
cơ sở pháp lý của hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ,
tạm giam nhằm bảo đảm cho các cơ quan bảo vệ pháp luật áp dụng các biện
pháp ngăn chặn được đúng pháp luật. Trên cơ sở đó làm sáng tỏ vị trí, vai trò,
trách nhiệm, quyền hạn của Viện kiểm sát và kiểm sát viên trong việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn: bắt, tạm giữ, tạm giam.
- Về nhiệm vụ: luận văn có các nhiệm vụ phân tích cơ sở lý luận và
thực tiễn công tác áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam; phân tích vai trò và trách nhiệm của
Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt,
tạm giữ, tạm giam trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam; và đề xuất những giải
pháp nhằm nâng cao vai trò và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam.
Trên cơ sở phân tích những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, các văn bản pháp luật khác và thực tiễn công
tác áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam và hoạt động
thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn. Đề tài sẽ nêu ra những điểm hợp lý, những thuận lợi
và khó khăn khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam
cũng như vai trò của Viện Kiểm sát trong lĩnh vực này. Từ đó đưa ra một số

4
đề xuất kiến nghị để đảm bảo và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan
tư pháp hoạt động theo đúng trình tự, thủ tục, quy định của pháp luật, đồng
thời bảo vệ các quyền cơ bản của công dân và nâng cao vai trò, uy tín của các
cơ quan bảo vệ pháp luật. Xây dựng hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện

và đồng bộ hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật về vai trò
của Viện kiểm sát trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, những mặt tích cực cũng
như những mặt hạn chế trong quá trình thực hiện và thực tiễn thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát trong việc bắt,
tạm giữ, tạm giam ở các giai đoạn tố tụng hình sự từ năm 2005 đến năm 2008.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống các quan điểm của Chủ nghĩa Mác
– Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; các quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam về tăng cường Pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; nhất
là quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp trong Nghị Quyết 08/NQ-
TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính Trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm của
công tác tư pháp trong thời gian tới”.
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp một số phương pháp khác như Phương
pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp điều tra xã hội học; Phương pháp
nghiên cứu và xử lý thông tin; Phương pháp thống kê; Phương pháp lôgic;
Phương pháp khảo sát thực tế; Phương pháp dùng biểu đồ minh họa; Phương
pháp so sánh, đối chiếu; Phân tích, dẫn giải các quy định của pháp luật về
hoạt động của Viện kiểm sát và các cơ quan tiến hành tố tụng khác, tổng kết

5
thực tiễn công tác kiểm sát hoạt động tư pháp trong bắt, tạm giữ, tạm giam và
hoạt động của các cơ quan tư pháp khác.
5. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài.
Việc nghiên cứu vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam mang một ý nghĩa về mặt lý luận và
thực tiễn rất sâu sắc; về lý luận đưa đến cho chúng ta một quan điểm pháp lý

chặt chẽ về vấn đề bắt, tạm giữ, tạm giam đó là các trình tự, thủ tục trong các
biện pháp cụ thể hay trường hợp nào thì thực hiện biện pháp ngăn chặn nào
cho đúng pháp luật, đúng người, đúng tội danh. Từ chỗ có lý luận chặt chẽ sẽ
đem lại cho quá trình áp dụng vào thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử được
đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Đối với Viện kiểm sát có vai trò đặc
biệt quan trọng trong việc kiểm sát các hoạt động tố tụng nói chung và kiểm
sát việc tiến hành các biện pháp ngăn chặn: bắt, tạm giữ, tạm giam nói riêng
theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật.
6. Kết cấu của đề tài
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận gồm có 3 chương.
Chương 1. Một số vấn đề chung về vai trò của Viện kiểm sát trong
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn: bắt, tạm giữ, tạm giam.
Chương 2. Thực tiễn hoạt động của Viện Kiểm sát trong việc áp dụng
biện pháp bắt người, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự.
Chương 3. Những kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
của Viện Kiểm sát trong việc áp dụng biện pháp bắt người, tạm giữ, tạm giam




6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT TRONG VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN
PHÁP NGĂN CHẶN BẮT, TẠM GIỮ, TẠM GIAM.

1.1. Khái quát về các biện pháp ngăn chặn bắt người, tạm giữ, tạm giam.
1.1.1. Sự cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người, tạm
giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự.
Bắt, tạm giữ, tạm giam người là các biện pháp ngăn chặn nhằm hạn

chế một số quyền của công dân, quyền con người của người bị bắt. Mục đích
của các biện pháp này là để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh chống và
phòng ngừa tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế. Các biện pháp
ngăn chặn nhằm bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân nhưng khi áp dụng chúng cũng rất dễ tạo ra những ảnh hưởng tiêu
cực đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bởi vì,
một số hoạt động tố tụng có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do, quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, quyền được thông tin của người bị bắt. Nắm
vững nội dung, thẩm quyền, thủ tục bắt, tạm giữ, tạm giam sẽ bảo đảm cho
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng áp dụng đúng pháp
luật, tránh vi phạm các quy định pháp luật về bảo đảm quyền con người,
quyền công dân khi thực thi công vụ.
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền con người, quyền
công dân Điều 71 Hiến pháp 1992 quy định:
“Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp
luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai
bị bắt nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn

7
của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc
bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hành vi
truy bức, nhục hình xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân”.
Điều 72 Hiến pháp 1992 cũng nhấn mạnh:
“Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có
quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự.
Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây
thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”.
Những quy định trên của Hiến pháp nhằm ngăn ngừa sự vi phạm quyền
con người, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ nhân

phẩm, danh dự của công dân từ phía các cơ quan, cán bộ nhà nước. Các quy
định tại Điều 71 và Điều 72 cũng là cơ sở để xây dựng Luật Tố tụng Hình sự
trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong thực tiễn.
Bắt, tạm giữ, tạm giam là những biện pháp cưỡng chế cần thiết do các
cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án áp dụng đối với bị can, bị cáo. Một số
trường hợp, có thể áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố (như người bị bắt
trong trường hợp phạm tội quả tang và trong trường hợp khẩn cấp) nhằm ngăn
chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm
tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động cản trở cho việc điều tra, truy tố,
xét xử hoặc thi hành án.
Trong thực tế nhiều vụ án xảy ra nếu không áp dụng các biện pháp
ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam đối với bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn rất
lớn cho công tác điều tra, truy tố và xét xử, cụ thể như người phạm tội có thể
bỏ trốn khỏi nơi cư trú sau khi gây án nhằm mục đích trốn tránh sự trừng phạt
của pháp luật; người phạm tội sau khi gây án có thể có những hành động gây
cản trở hoạt động điều tra của các cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến hoạt
động điều tra gặp nhiều khó khăn hơn; nhiều bị can, bị cáo lại không có nơi

8
cư trú rõ ràng, hoặc luôn thay đổi chỗ ở, trong trường hợp này nếu không bắt,
tạm giữ, tạm giam bị can, bị cáo sẽ bỏ trốn gây khó khăn cho quá trình điều
tra, truy tố, xét xử, mặc dù phạm tội ít nghiêm trọng; người phạm tội sau khi
gây án có thể tẩu tán tài sản, tang vật do phạm tội mà có gây khó khăn cho
công tác thu hồi lại tài sản phạm tội, cũng như có những hành động nhằm che
dấu tội phạm; người phạm tội sau khi gây án xong nếu không bắt tạm giữ,
giam sẽ có thời gian để xóa dấu vết phạm tội, tiêu hủy chứng cứ, bịt đầu mối
hay tìm cho mình những chứng cứ ngoại phạm hòng trốn tránh tội; người
phạm tội có thể tiếp tục phạm tội mới nếu không áp dụng các biện pháp ngăn
chặn ngay đối tượng phạm tội sẽ gây nguy hiểm cho xã hội …như những tội
phạm trộm cắp chuyên nghiệp, nếu không tạm giữ, tạm giam những đối tượng

này có thể tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp của mình. Vì vậy, biện pháp
hữu hiệu nhất là bắt, tạm giữ, tạm giam.
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là biện pháp thường được áp dụng trong
đấu tranh chống tội phạm. Mục đích là để ngăn chặn hành vi phạm tội và việc
lẩn trốn pháp luật của bị can, bị cáo. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt
người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét
xử để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự.
Như vậy, đối tượng bị bắt để tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo.
Người chưa bị khởi tố với tư cách là bị can, hoặc người không bị Toà án đưa
ra xét xử không thể bị bắt để tạm giam. Nếu người chưa bị khởi tố với tư cách
là bị can, hoặc người không bị Toà án đưa ra xét xử mà vẫn bị bắt để tạm
giam thì có nghĩa các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện không đúng quy
định của pháp luật, quyền con người, quyền công dân của người bị bắt không
được đảm bảo. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam không phải là biện pháp duy
nhất để ngăn chặn, vì vậy không phải mọi bị can, bị cáo đều bị bắt để tạm
giam. Khi bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải căn cứ vào tính chất, mức độ

9
hành vi phạm tội, nhân thân của người phạm tội và thái độ của họ khi và sau
khi thực hiện hành vi phạm tội. Chỉ được bắt người để tạm giam khi có đủ căn
cứ để xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội và nếu xét thấy cần
phải bắt để tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, xử lý tội phạm.
Tuy nhiên, không phải trường hợp phạm tội nào cũng bắt, tạm giữ, tạm
giam, đối với những trường hợp khi có những điều kiện, dấu hiệu cho thấy
người phạm tội không có ý trốn tránh pháp luật, không gây khó khăn cho hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì không nên bắt (thậm chí không
được bắt) mà có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác. Chẳng hạn, người
phạm tội lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng hoặc phạm tội do vô ý, không có
hành động cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì không cần bắt để tạm
giam.

Với yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, việc bắt, giam
giữ cần phải được tiến hành kiên quyết, kịp thời, chính vì vậy, việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam là vô cùng quan trọng trong
tố tụng hình sự. Tuy nhiên, không thể vì bất cứ một lý do gì mà áp dụng các
biện pháp ngăn chặn tràn lan, sai tính chất, sai đối tượng, không đảm bảo các
yêu cầu của pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân.
Bắt người không phải là biện pháp trừng phạt đối với người phạm tội
mà là biện pháp ngăn chặn được áp dụng để tước bỏ điều kiện gây ra tội
phạm, ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật của người
thực hiện hành vi phạm tội, bảo đảm sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan
bảo vệ pháp luật.
Những năm gần đây bắt, giam, giữ là vấn đề thu hút sự chú ý của nhiều
cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, và đông đảo quần chúng nhân dân.
Việc bắt người tuỳ tiện, bắt oan người không có tội, tạm giữ, tạm giam người

10
không có lệnh đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân. Mặt khác, để nâng cao hiệu quả công tác và
bảo đảm được quyền con người, chủ thể tiến hành tố tụng phải nhận thức
được rõ ý nghĩa của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Phải hiểu rằng: áp
dụng các biện pháp bắt người, tạm giữ, tạm giam là nhằm bảo vệ trật tự pháp
luật, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, nhưng cần chú ý bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng. Bởi vì người bị áp dụng biện
pháp ngăn chặn chưa phải là tội phạm, họ mới chỉ tạm bị hạn chế một số
quyền như quyền tự do đi lại, quyền tự do cư trú. Những quyền khác của
người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn vẫn phải được bảo đảm và được tôn
trọng. Chẳng hạn, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo hộ
về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.
Việc áp dụng tùy tiện các biện pháp ngăn chặn như việc bắt oan người

vô tội, bắt không đúng thủ tục, bắt sai thẩm quyền, tạm giữ hoặc tạm giam
quá hạn đều làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Người thực hiện một trong các hành vi nói trên phải bị xử lí
nghiêm khắc, thậm chí có thể bị truy tố theo pháp luật để bảo đảm sự nghiêm
minh, công bằng xã hội, bảo đảm quyền con người của người bị bắt oan, sai,
bị tạm giữ, tạm giam quá hạn. Những hành vi bắt oan người vô tội, bắt không
đúng thủ tục, bắt sai thẩm quyền, tạm giữ hoặc tạm giam quá hạn, không chỉ
xâm hại hoạt động đúng đắn của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, xâm phạm
quyền bất khả xâm phạm thân thể và sinh mạng chính trị của con người, của
công dân mà còn làm suy giảm uy tín của Nhà nước ta, nhà nước của dân, do
dân và vì dân, làm giảm sút lòng tin của quần chúng đối với các cơ quan tiến
hành tố tụng.
Ví dụ dưới đây là một vụ án điển hình về tình trạng bắt người vô tội:
Cô Bùi thị Đức là giáo viên dạy thể dục (Sơn La) chồng chết cô có 02 cô con

11
gái: Bùi thị Hương (đang là sinh viên năm thứ 3 ĐH Luật Hà Nội) và Bùi H.V
sinh ngày 16/4/1997. Tối ngày 27/8/2010, Bùi H.V sang cửa hàng Tùng Bách
Plaza – Thành phố Sơn La chơi với Bách là bạn học cùng lớp. Tại đây, Bùi
H.V gặp Nguyễn Văn Hưởng (20 tuổi, quê Lào Cai) là người làm thuê cho
nhà Bách. Do biết nhau từ trước, V tin tưởng theo Hưởng lên phòng của hắn
chơi, nhưng vừa bước vào phòng ngay lập tức Hưởng đóng cửa lại lao bổ vào
V mặc cho cô bé van xin, kêu cứu. Sau đó V vội vã về nhà trong trạng thái
tinh thần hoảng loạn, mặc cho mẹ gặng hỏi nhưng V vẫn không nói. Đến ngày
hôm sau khi cô Đức vừa đi làm về nhận được một cuộc điện thoại với nội
dung: “V nhà cô vừa bị người ta hãm hại tại nhà thằng Bách đấy ”. Người mẹ
vội lên phòng hỏi con gái lúc này V mới trình bày lại sự việc với mẹ. Sau đó
cô Đức đã gặp Hưởng và ông bà chủ Thanh – Hạnh bắt Hưởng viết bản tường
trình sự việc xảy ra. Ông bà Thanh – Hạnh và Hưởng đã thuyết phục cô Đức
và V để được bồi thường cho V, giải quyết vụ việc bằng tình cảm với sự có

mặt của thượng úy Lê Minh Phương – cán bộ Công an phường Quyết Thắng.
Nghĩ Hưởng trẻ người non dạ, hành động nông nổi và nghĩ đến tương lai của
con gái không muốn làm to chuyện nên cô Đức đã đồng ý phương án thỏa
thuận bồi thường, giải quyết vụ việc bằng tình cảm. Nhưng không ngờ, thiện
chí của gia đình bị hại và tấm lòng nhân hậu của người mẹ đã bị người ta
“giăng bẫy” làm hại. Như thỏa thuận, sáng sớm ngày 30/8, mẹ Hưởng cùng
hai người anh trai đi taxi từ Lào Cai đến nhà cô Đức để thỏa thuận tiến hành
bồi thường sức khỏe và danh dự cho V với số tiền 130 triệu đồng. Tuy nhiên
họ mới đưa trước 50 triệu đồng, số còn lại 02 anh của Hưởng nói sẽ về quê
vay mượn sẽ gửi trả sau. Tin tưởng họ cô Đức đã cho họ số tài khoản của
mình tại ngân hàng để họ gửi tiền. Đêm hôm đó 30/8 Hưởng cùng mẹ hắn xin
được ngủ lại nhà cô Đức. Đột ngột dạng sáng ngày 31/8 lực lượng Công an
TP Sơn La với gần chục người đã tiến hành kiểm tra hành chính cô Đức và

12
mời cô lên trụ sở công an TP Sơn La để làm việc. Sau một ngày làm việc với
cơ quan điều tra cô Đức bị bắt tạm giam về hành vì “ cưỡng đoạt tài sản” với
chứng cứ là đoạn băng ghi âm nội dung thỏa thuận việc bồi thường giữa hai
bên. Cô Đức một mực kêu oan, bởi lẽ gia đình cô là người bị hại. Tuy nhiên,
đến ngày 01/9/2010 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã phê chuẩn
lệnh bắt tạm giam cô Đức về hành vi “cưỡng đoạt tài sản” cùng ngày Nguyễn
Văn Hưởng cũng bị khởi tố, bắt tạm giam về hành vi “giao với trẻ em”. Trước
sự việc đó, chị gái của V đã có nhiều lá đơn kêu oan gửi đến các cơ quan bảo
vệ pháp luật và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đến ngày 22/9/2010, cô Đức
được trả tự do sau 23 ngày bị bắt giam oan về hành vi “cưỡng đoạt tài sản”.
Ngày 29/9/2010 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã tiến hành công
khai xin lỗi, minh oan cho cô Bùi Thị Đức. Đến nay cô Đức đã được khôi
phục lại các quyền lợi mà trước đó đã bị đình chỉ. Đại diện Viện kiểm sát đã
thừa nhận đã có những sai lầm, nóng vội, tắc trách trong việc khởi tố, bắt
giam công dân. Được biết, hiện các cơ quan tiến hành tố tụng TP Sơn La cũng

đang điều tra vụ án theo hướng xử lý Nguyễn Văn Hưởng về tội “hiếp dâm trẻ
em” thay cho tội “giao cấu với trẻ em” trước đó đã khởi tố và có chính sách
bồi thường oan sai cho gia đình bà Đức theo đúng quy định của pháp luật.
Qua sự việc đáng tiếc nêu trên cho thấy việc hiểu đúng, hiểu đầy đủ và
thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về việc áp dụng các biện
pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự sẽ nâng cao hiệu
quả cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm; qua đó cũng góp phần
quan trọng và cần thiết để bảo đảm quyền con người.
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con
người, quyền tự do dân chủ của công dân vì vậy chỉ những người có thẩm
quyền mới có quyền ra lệnh bắt. Lệnh bắt nếu thiếu sự phê chuẩn của Viện
kiểm sát sẽ bị coi là không có giá trị và công dân có quyền không chấp hành.

13
Luật quy định sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp nhằm bảo đảm cho
việc bắt người đúng pháp luật và chỉ bắt những người thực sự cần phải bắt để
ngăn chặn tội phạm hoặc để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử, và thi
hành án hình sự.
Để bảo đảm quyền con người, quyền công dân, khi thực hiện bắt bị can,
bị cáo để tạm giam phải đảm bảo: lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm; họ,
tên; chức vụ của người ra lệnh; họ, tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt
phải thật rõ ràng, có cơ sở pháp lý. Lệnh bắt do người có thẩm quyền ký và
đóng dấu (không phải cứ cơ quan công an là có quyền ra lệnh bắt, chỉ cơ quan
hoặc người có thẩm quyền mới có quyền ra lệnh) nhằm tránh sự tùy tiện, giả
mạo khi thực hiện lệnh bắt người thi hành phải tôn trọng triệt để các quy
định của pháp luật. Phải đọc to lệnh bắt, giải thích cho người bị bắt rõ lý do
bắt, các quyền và nghĩa vụ của họ và phải lập biên bản. Biên bản phải có chữ
ký của người có thẩm quyền và người chứng kiến cùng ký vào biên bản khi
thi hành lệnh bắt. Khi bắt người phải có sự chứng kiến của đại diện chính
quyền cơ sở nơi tiến hành bắt, phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích

hợp pháp của người bị bắt.
Từ những lý do trên cho thấy sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp
ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự điều đó đảm bảo cho
công tác điều tra, truy tố, xét xử là hoàn toàn đúng, mặt khác đây cũng là biện
pháp ngăn ngừa, đấu tranh phòng, chống tội phạm hiệu quả đảm bảo được
tính nghiêm minh của pháp luật.
1.1.2. Căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng biện pháp ngăn chặn
bắt người, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự.
Căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung được quy định tại
điều 79 bộ luật tố tụng hình sự năm 2003:

14
“Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị
can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố xét xử hoặc sẽ
tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình
hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này có thể áp
dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau: bắt, tạm giữ, tạm
giam…”
Đối tượng có thể bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn bao gồm: người
đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng; người đang thực hiện tội phạm; người đã thực hiện tội phạm và
được người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông
thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm; người có dấu vết của
tội phạm ở người hoặc tại nơi ở của người bị nghi thực hiện tội phạm; bị can,
bị cáo và người đang có lệnh truy nã.
Bắt hiểu theo nghĩa rộng, không phải là biện pháp trừng phạt của pháp
luật đối với người phạm tội mà là biện pháp ngăn chặn của hoạt động tố tụng
hình sự. Bắt đúng người, bắt kịp thời có tác dụng ngăn chặn mọi âm mưu và
thủ đoạn chống đối của người phạm tội, không cho họ tiếp tục phạm tội, che

dấu, trốn tránh hoặc gây khó khăn cho việc xác định sự thật để giải quyết
quyết vụ án. Bắt hiểu theo nghĩa hẹp, đối với cá nhân người bị bắt là sự hạn
chế một số quyền tự do của cá nhân, là điểm khởi đầu của sự trừng phạt của
pháp luật nếu người đó là người thực hiện hành vi phạm tội, bởi vì khi thi
hành án, thời gian tạm giữ, tạm giam được khấu trừ vào thời gian thi hành án.
Từ những phân tích nêu trên, có thể hiểu bắt người là biện pháp cưỡng
chế được quy định trong luật tố tụng hình sự do cơ quan, người có thẩm
quyền do luật định áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố;
người đang có hành vi phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã khi có căn cứ

15
do bộ luật tố tụng hình sự quy định, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn
chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án .
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải tuân theo các căn cứ quy định tại
điều 79 Bộ luật tố tụng hình sự, bao gồm các căn cứ sau: khi có căn cứ chứng
tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử; có căn cứ
chứng tỏ bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội; khi có căn cứ rõ ràng bị can, bị cáo
sẽ gây khó khăn cho việc thi hành án hình sự. Các căn cứ này phải được thể
hiện bằng các tài liệu do các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập theo đúng
trình tự mà luật định, các căn cứ này được đánh giá trên cơ sở khách quan
toàn diện chứ không phải ý muốn chủ quan của một người, hay một cơ quan
nào đó. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam tức là người bị bắt sẽ bị tạm giam cho
nên ngoài căn cứ áp dụng chung cho các biện pháp ngăn chặn ở điều 79 còn
phải căn cứ vào điều kiện để tạm giam quy định ở điều 88 Bộ luật tố tụng
hình sự đó là:
“ Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất
nghiêm trọng; bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm
trọng mà BLHS quy định mức hình phạt trên 02 năm tù và có căn cứ để
cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử

hoặc có thể tiếp tục phạm tội.”
Như vậy, nếu dưới 02 năm tù mà có các điều kiện ở điều 79 Bộ luật tố
tụng hình sự thì cũng không được bắt giam. Ngoài ra, nếu không phải trường
hợp đặc biệt nghiêm trọng thì không bắt, không tạm giam đối với người già
yếu, bệnh nặng có nơi cứ trú rõ ràng, phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ
dưới 36 tháng.
Như trên đã nêu, đây là trường hợp bắt để tạm giam cho nên việc xem
xét căn cứ để bắt và căn cứ để tạm giam là rất quan trọng bởi vì nếu bắt xong

16
mà không tạm giam được thì rất khó xử lý. Nếu bắt tạm giam mà không đủ
căn cứ mặc dù họ là bị can, bị cáo, thì lệnh tạm giam đó vẫn là vi phạm pháp
luật, phải bị xử lý.
Để chấn chỉnh vi phạm này, Bộ chính trị đã có quan điểm chỉ đạo rõ
ràng tại Chỉ thị số 53/CT –TW ngày 21/3/2000 và Nghị Quyết 08/NQ-TW
ngày 02/01/2002:
"Trường hợp bắt giam cũng được, không bắt giam cũng được thì
không bắt giam; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì
kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện xử
lý kịp thời những trường hợp oan sai trong bắt giữ, khi xem xét căn cứ
để bắt giữ phải quán triệt đầy đủ các nguyên tắc quy định trong
BLTTHS, lấy các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng nêu trên làm cơ sở lý
luận, kết hợp nhuần nhuyễn với tình hình chính trị địa phương để ra
một quyết định đúng đắn có tính khả thi và có tính giáo dục trong việc
áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Khi có căn cứ để áp
dụng thì người có thẩm quyền phải xem xét và quyết định”.
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp được quy định tại điều 81 Bộ
luật tố tụng hình sự, khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực
hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng ; khi
người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy

và xác nhận đứng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn
ngay việc người đó trốn ; khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại
chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay
việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Trong quá trình phòng ngừa đấu
tranh chống tội phạm, các cơ quan chuyên môn có tài liệu khẳng định người
đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng cần phải bắt ngay, nếu không tội phạm sẽ xảy ra. Mục đích của

17
bắt khẩn cấp trong trường hợp này là ngăn chặn, không để tội phạm xảy ra
gây hậu quả xấu cho xã hội.
Bắt người trong phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã được quy định
tại Điều 82 Bộ luật tố tụng hình sự : đối với người đang thực hiện tội phạm
hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng
như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải
ngay đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất.
Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều
tra có thẩm quyền. Khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy
nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt.
Ví dụ : Người vừa cướp giật túi sách của người khác bị người đó phát
hiện hô hoán nên bỏ chạy, bị đuổi bắt và bắt được ngay lúc đó. Nếu việc đuổi
bắt bị gián đoạn về thời gian so với hành vi chạy trốn thì không được xem là
bắt quả tang mà có thể bắt theo trường hợp khẩn cấp.
Tạm giữ người trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam được quy định tại
điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự: tạm giữ có thể được áp dụng đối với những
người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự
thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã. Trong thời hạn
12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho
Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc
không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và

người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Quyết
định tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải giao cho
người bị tạm giữ một bản.
- Có hai loại tạm giữ :
+ Tạm giữ theo tố tụng hình sự ;
+ Tạm giữ theo thủ tục hành chính.

18
Đối tượng tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự là những người thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Còn đối tượng tạm giữ theo thủ tục
hành chính là những người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hành chính.
Mục đích tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự là để xác định căn cứ khởi tố bị
can đối với người bị bắt hoặc giao người bị truy nã cho cơ quan đã ra lệnh
truy nã. Còn mục đích tạm giữ người theo thủ tục hành chính là ngăn chặn,
đình chỉ ngay những hành vi vi phạm hoặc để thu thập xác minh những tình
tiết quan trọng làm căn cứ để quyết định xử lý vi phạm hành chính. Tạm giữ
theo thủ tục tố tụng hình sự và tạm giữ người theo thủ tục hành chính đều
phải có quyết định tạm giữ của người có thẩm quyền, nhưng sau khi ra quyết
định tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự thì người có thẩm quyền phải gửi
quyết định tạm giữ cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 12 giờ, kể từ
khi ra quyết định tạm giữ. Viện kiểm sát có quyền xem xét và nếu xét thấy
việc tạm giữ là không có căn cứ thì Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định tạm giữ ;
khi đó người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Còn đối với quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính thì không phải
gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Người bị tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự
bị giam giữ ở nhà tạm giữ hoặc buồng giam giữ của trại tạm giam. Còn người
bị tạm giữ theo thủ tục hành chính không bị giữ ở nhà tạm giữ hoặc buồng
tạm giữ của trại tạm giam.
Tạm giam được quy định tại điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự khi Bị
can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng ; phạm tội rất nghiêm trọng ; Bị

can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà bộ luật hình
sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể
trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu
tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì

19
không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp,
Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã ; Bị can, bị cáo được áp dụng
biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở
nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử ; Bị can, bị cáo phạm tội xâm
phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với
họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Điều 71 Hiến pháp nước ta quy định, “Công dân có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng sức khỏe, danh dự và
nhân phẩm”. Vì vậy, để thực hiện nghiêm túc quyền Hiến định này, Điều 80
Bộ luật tố tụng hình sự quy định chỉ những người sau đây mới có quyền ra
lệnh bắt bi can, bị cáo để tạm giam: Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân và viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó chánh án Tòa
án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa,
phó chánh tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; hội đồng xét xử; Thủ
trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp. Trong trường họp này, lệnh
bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Thẩm quyền bắt người trong trường hợp khẩn cấp là Thủ trưởng, phó
thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp; Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập
cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và
biên giới; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi
sân bay bến cảng.
Theo quy định tại khoản 1 điều 82 Bộ luật tố tụng hình sự: Thẩm
quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì bất cứ công dân

nào cũng có quyền bắt người và giải ngay đến cơ quan công an, Viện kiểm sát
hoặc ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Đồng thời khi bắt người phạm tội quả
tang hoặc người đang bị truy nã, người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung
khí của người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã và giao vũ khí,

×