Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 107 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

MA TH THM

KHởI Tố Vụ áN HìNH Sự THEO YÊU CầU CủA NGƯờI Bị HạI
TRONG LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM

LUN VN THC S LUT HC

[

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

MA TH THM

KHởI Tố Vụ áN HìNH Sự THEO YÊU CầU CủA NGƯờI Bị HạI
TRONG LUậT Tố TụNG HìNH Sự VIệT NAM

Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. TRN THU HNH
[


H NI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Ma Thị Thắm


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN
HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI....................... 7
1.1.
Khởi tố vụ án hình sự ......................................................................... 7

1.1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự .......................................................... 7
1.1.2. Nhiệm vụ, ý nghĩa của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ...................... 9
1.2.
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại ................... 13
1.2.1. Khái niệm, ý nghĩa khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người
bị hại ................................................................................................... 13
1.2.2. Cơ sở việc thiết lập chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại .................................................................................. 19
1.3.

Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của Luật tố tụng
hình sự Việt Nam về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại ....................................................................................... 22

1.4.

Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại theo
kinh nghiệm của một số nước trên thế giới ................................... 24

Chương 2: KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA
NGƯỜI BỊ HẠI TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VÀ THỰC TIẾN ÁP DỤNG................................................. 33
2.1.

Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong
Luật tố tụng hình sự Việt Nam ....................................................... 33
2.1.1. Các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người
bị hại................................................................................................... 33



2.1.2. Chủ thể, nội dung, hình thức khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại .................................................................................. 41
2.1.3. Hậu quả pháp lý của việc yêu cầu và rút đơn yêu cầu khởi tố vụ
án hình sự ........................................................................................... 46
2.2.
Thực tiễn áp dụng khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại ....................................................................................... 53
2.2.1. Thực tiễn áp dụng về các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo
yêu cầu của người bị hại..................................................................... 53
2.2.2. Thực tiễn áp dụng về chủ thể yêu cầu khởi tố vụ án.......................... 61
2.2.3. Thực tiễn áp dụng về quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong
trường hợp yêu cầu khởi tố vụ án ...................................................... 64
2.2.4. Thực tiễn áp dụng về việc rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
của người bị hại .................................................................................. 68
2.2.5. Một số vấn đề khác............................................................................. 71
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN CHẾ ĐỊNH KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU
CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI ............................................................... 73
3.1.
Định hướng hoàn thiện chế định khởi tố vụ án hình sự theo
yêu cầu của người bị hại .................................................................. 73
3.2.
Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật ........................................... 76
3.2.1. Hoàn thiện quy định về các trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại ............................................................. 76
3.2.2. Hoàn thiện quy định về chủ thể yêu cầu khởi tố vụ án ...................... 78
3.2.3. Hoàn thiện quy định về quyền của người bị hại ................................ 81
3.2.4. Hoàn thiện quy định việc rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án ................... 85
3.2.5. Quy định về hình thức thể hiện và nội dung của yêu cầu khởi tố
vụ án ................................................................................................... 87

3.3.
Một số giải pháp khác ...................................................................... 88
3.3.1. Nâng cao trình độ pháp luật, nghiệp vụ của người tiến hành tố tụng........ 89
3.3.2. Nâng cao trình độ hiểu biết và thực thi pháp luật của người dân ............ 91
KẾT LUẬN .................................................................................................... 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 96


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS:

Bộ Luật dân sự

BLHS:

Bộ Luật hình sự

BLTTHS:

Bộ Luật tố tụng hình sự

CQTHTT:

Cơ quan tiến hành tố tụng

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao


TNHS:

Trách nhiệm hình sự

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Số hiệu bảng,
biểu đồ

Tên bảng, biểu đồ

Trang

Bảng 2.1: Các vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại
giai đoạn 2009 - 2014

54

Biểu đồ 2.1: Tỉ lệ các vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị
hại giai đoạn 2009 - 2014

56


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của các chủ thể tố tụng hướng
tới việc giải quyết vụ án khách quan, công bằng, góp phần đấu tranh phòng
chống tội phạm, bảo vệ quyền con người. Tố tụng hình sự là một quá trình giải
quyết vụ án, trong đó có nhiều chủ thể, nhiều giai đoạn khác nhau phù hợp với
tính chất, đặc điểm của các cơ quan tiến hành tố tụng, là cơ chế mà qua đó tội
phạm được điều tra làm rõ, bị truy tố, xét xử và hình phạt được áp dụng.
Theo quan điểm truyền thống ở nước ta khởi tố vụ án hình sự là giai
đoạn đầu tiên và là một trong những giai đoạn có ý nghĩa quan trọng trong
quá trình tố tụng hình sự. Trong giai đoạn này các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền có trách nhiệm xác định sự việc có hay không có dấu hiệu của tội phạm
để quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình
sự nhằm khẳng định về mặt pháp lý có hay không có tội phạm xảy ra để làm
cơ sở cho các hoạt động tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án hình
sự. Có thể nói khởi tố vụ án hình sự không chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý là
giai đoạn đầu và có tính định hướng cho các giai đoạn tố tụng tiếp theo mà
còn có ý nghĩa thiết thực trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Để
đạt được điều đó khởi tố vụ án hình sự đòi hỏi phải có căn cứ, đúng thẩm
quyền và đúng trình tự theo quy định của pháp luật.
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự là một trong những quy định quan
trọng để việc khởi tố vụ án hình sự đạt hiệu quả. Trong đó, quyền yêu cầu
khởi tố vụ án hình sự của người bị hại là một trong những vấn đề đáng được
quan tâm. Người bị hại tham gia tố tụng với tư cách là chủ thể của tố tụng
hình sự bên cạnh Cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) và người tiến hành tố
tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án để đòi hỏi khôi phục lại những thiệt
hại của họ do hành vi phạm tội gây ra. Người bị hại có thể là người đã bị thiệt

1



hại, nhưng cũng có thể là người bị đe dọa nghiêm trọng gây thiệt hại trong
những trường hợp phạm tội nhưng chưa gây hậu quả theo quy định của Bộ
luật hình sự (BLHS).
Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp,
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền tự do dân chủ của
công dân đã được ghi nhận trong Nghị quyết 48 –NQ/TW ngày 24/5/2005 của
Bộ chính trị và tiếp tục được khẳng định tại Nghị quyết 49 - NQ/TW ngày
02/6/2005 như: “tôn trọng và bảo vệ quyền con người”, “tạo điều kiện thuận
lợi cho người dân tham gia tố tụng...”, việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự
2003 thì việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
hiện hành về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại để làm sáng tỏ
về mặt khoa học và đưa ra những giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của
việc áp dụng quy định đó không chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý
quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho sự cần thiết để tôi chọn đề tài:
“Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong Luật Tố tụng hình
sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là một chế định
không mới, được áp dụng khá phổ biến trong pháp luật các nước, nên đã có
nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở các mức độ khác nhau về khởi tố vụ
án hình sự, người bị hại, trong đó có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo
yêu cầu của người bị hại.
Ở Việt Nam có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
Về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau:
PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, Chương thứ bảy – người tham gia tố tụng,
Chương mười – khởi tố vụ án hình sự, giáo trình luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2013; Giáo trình luật tố tụng hình sự

2



Việt Nam, Trường đại học Luật Hà Nội; PGS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên)
Bình luận khoa học bộ luật tố tụng hình sự, nxb CAND, 2004; Viện nhà nước
và Pháp luật, Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb
chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994; Trường Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa
Luật (2009), Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb Chính
trị quốc gia.
Một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có đề cập đến
vấn đề khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại như: ThS. Lê Thị
Thúy Nga, “Một số vấn đề về người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam 2003”; Lê Tiến Châu, “Mô hình, hình thức tố tụng hình sự và việc
bảo vệ quyền con người”, tạp chí Nhà nước và pháp luật, 2008; Phạm Mạnh
Hùng, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc khởi tố vụ án và kiểm sát
việc khởi tố vụ án”, tạp chí Kiểm sát, 2007; Phạm Thanh Trung (2003),
“Người đại diện hợp pháp hoàn toàn có quyền rút đơn khởi tố, Dân chủ và
pháp luật, (4). Tạp chí kiểm sát: số 03 tháng 2/2008; số 9 tháng 5/2009v.v...
Ở cấp độ luận văn thạc sĩ thực hiện ở Khoa luật – ĐHQGHN có các đề
tài của các tác giả Hoàng Lan Phương, Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, 2009. Thịnh Quang Thắng,
Người bị hại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, 2009; Nguyễn Trương Tín,
Một số vấn đề về sự tham gia tranh tụng của người bị hại và nguyên đơn dân
sự tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo yêu cầu của cải cách tư pháp, 2010;
Phạm Văn Huân, Những cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình sự trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam, 2013;
Còn ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các đề tài của tác giả Lê Lan Chi,
Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình
sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khoa luật – ĐHQGHN, 2010.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên cho thấy, ở nước ta đã có

3



một số công trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về vấn đề khởi tố vụ án, địa
vị pháp lý của người bị hại cũng như xung quanh vấn đề bảo đảm quyền và
nghĩa vụ của người bị hại khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên những nghiên cứu
đó mới chỉ dừng lại ở các công trình nghiên cứu chung hoặc được thể hiện
một phần trong kết quả của các công trình nghiên cứu khác về khởi tố vụ án
hình sự, địa vị pháp lý của người bị hại, có luận văn đã triển khai nghiên cứu
độc lập chế định này nhưng thời gian nghiên cứu cách đây đã khá lâu, khi
chưa có dự thảo của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Như vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan,
cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các quy
định của pháp luật về yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại dưới
khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng chế định trong thực tiễn, cũng như đề
xuất những kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả của chế định này trong
thực tiễn áp dụng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết vấn đề xung quanh chế định khởi tố
vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong Luật tố tụng hình sự, kết
hợp với việc nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng chế định trong thực tiễn
khởi tố vụ án, truy tố, xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng và nguyên nhân
của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện pháp luật
thực định và nâng cao hiệu quả của chế định trong thực tiễn.
Luận văn cũng có tham khảo những bài học kinh nghiệm lập pháp một
số nước trong khi nghiên cứu chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại.


4


Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng chế định khởi tố
vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại từ 2009 đến năm 2014.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận Mác – Lênin về Nhà
nước và pháp luật, các quan điểm đổi mới của Đảng nhất là trong lĩnh vực cải
cách tư pháp. Các phương pháp luận chung để nghiên cứu đề tài là phép duy
vật biện chứng và phép duy vật lịch sử, chú trọng các phương pháp kết hợp
giữa lý luận và thực tiễn.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: các phương pháp nghiên cứu đặc
thù của khoa học xã hội như phương pháp logic; phương pháp lịch sử, so
sánh; phương pháp phân tích quy nạp, diễn dịch; phương pháp thống kê và
một số phương pháp khác.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện
lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu mà trong đó giải quyết
nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới chế định khởi tố
vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong Luật tố tụng hình sự Việt
Nam. Trên cơ sở kết nghiên cứu, luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề chung
về chế định khởi tố vụ án như: khái niệm, đặc điểm, cơ sở của việc thiết lập
chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại; khái quát lịch sử
hình thành và phát triển của Luật tố tụng hình sự Việt Nam về khởi tố vụ án
hình sự theo yêu cầu của người bị hại cũng như tìm hiểu việc thực thi chế
định này theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới; Nghiên cứu thực
tiễn quy định và thực tiễn áp dụng chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, từ đó rút ra những tồn
tại, hạn chế trong luật thực định, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn
chế xung quanh việc áp dụng và nguyên nhân của nó; Từ đó đề xuất những


5


định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về chế định khởi tố vụ án
hình sự theo yêu cầu của người bị hại hiện hành và nâng cao hiệu quả áp dụng
của chế định này trong thực tiễn.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
bảng, biểu, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại trong
Luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chế định
khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
1.1. Khởi tố vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự
Quan hệ pháp luật hình sự là quan hệ giữa Nhà nước và người phạm

tội, trong đó với tư cách là người bảo vệ lợi ích của toàn xã hội, Nhà nước có
quyền khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án với người phạm tội,
buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm tương ứng với tính chất, mức độ
nguy hiểm của tội phạm mà họ đã gây ra.
Mục tiêu của tố tụng hình sự được xác định tại Điều 1 Bộ luật tố tụng
hình sư (BLTTHS), đó là "... phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công
minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội" [32]. Thể hiện các yêu cầu của nguyên tắc này, BLTTHS hiện
hành đã có những quy định, chế định, những công cụ pháp lý hữu hiệu để bảo
đảm cho quá trình khởi tố vụ án và truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) được
vận hành với hiệu suất cao. BLTTHS năm 2003 quy định quy trình để giải
quyết một vụ án hình sự phải theo một trình tự, thủ tục nhất định gồm: khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu
tiên của quá trình tố tụng và là giai đoạn tố tụng độc lập bởi giai đoạn này có
đầy đủ các dấu hiệu của một giai đoạn tố tụng với những mục tiêu và nhiệm vụ
riêng mang đặc thù về chủ thể tố tụng, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng. Tuy
nhiên, tính độc lập của giai đoạn khởi tố vụ án cũng như các giai đoạn khác
trong quá trình tố tụng chỉ mang tính tương đối, giữa chúng có mối quan hệ qua
lại, tác động lẫn nhau; giai đoạn trước là tiền đề cần thiết cho việc thực hiện
nhiệm vụ của giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước.

7


Trong khoa học luật tố tụng hình sự, khởi tố vụ án hình sự có nhiều
cách hiểu khác nhau khác nhau. Thứ nhất, có thể hiểu đó là một chế định của
luật tố tụng hình sự, tập hợp những quy định về trình tự và thủ tục khởi tố vụ
án hình sự; thứ hai, khởi tố vụ án hình sự được hiểu là một hành vi tố tụng mở
đầu cho giai đoạn điều tra; thứ ba khởi tố vụ án hình sự được hiểu là một giai
đoạn tố tụng độc lập trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cách hiểu thứ

ba là cách hiểu thông thường và phổ biến hiện nay.
Tựu trung lại:
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng đầu tiên mà trong đó
cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự tiến hành việc xác định việc có (hay không)
các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội đã
được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố (hoặc
không khởi tố) vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó [6, tr.26].
Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự nên cũng có thời
điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc. Thời điểm bắt đầu của giai đoạn khởi tố
vụ án hình sự được xác định kể từ khi các CQTHTT tiếp nhận thông tin về tội
phạm như: Tố giác của công dân; tin báo của cơ quan tổ chức; tin báo trên các
phương tiện thông tin đại chúng; Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, Bộ
đội biên phòng, Cơ quan Hải quan, Cơ quan Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát
biển và các cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu
của tội phạm; người phạm tội tự thú. Thời điểm kết thúc của giai đoạn khởi tố
vụ án hình sự là khi các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố hoặc
không khởi tố vụ án hình sự. Từ khái niệm chung nhất về khởi tố vụ án hình
sự cho thấy giai đoạn này có đặc điểm chính sau đây:
Một là, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên, được bắt

8


đầu với việc cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền tiếp nhận tin báo, tố
giác…hoặc trực tiếp phát hiện về tội phạm và thời điểm kết thúc của giai đoạn
này là việc cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố hoặc quyết định
không khởi tố vụ án hình sự.
Hai là, với tính chất là một giai đoạn độc lập và đầu tiên của tố tụng

hình sự, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ
cụ thể để xác định các tiền đề pháp luật về nội dung (vật chất) và pháp luật về
hình thức (tố tụng) của việc điều tra vụ án hình sự.
Ba là, kết quả quả giai đoạn này là quyết định của cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc có hay không khởi tố vụ án hình sự. Nó làm tiền đề cho các
giai đoạn tố tụng tiếp theo.
1.1.2. Nhiệm vụ, ý nghĩa của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới đặt ra những nhiệm vụ
mới về kinh tế, chính trị, trong đó có nhiệm vụ về đấu tranh, phòng chống tội
phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và trật tự pháp chế Xã
hội chủ nghĩa mà trong đó các cơ quan tư pháp hình sự giữ vai trò rất quan
trọng. Các cơ quan tư pháp hình sự với tư cách là các cơ quan đứng trên đầu
chiến tuyến của cuộc đấu tranh chống tội phạm đã, đang và sẽ trực tiếp thực
hiện các nhiệm vụ này. Mà một trong những nhiệm vụ của các cơ quan này là
khởi tố vụ án hình sự khi có đủ các căn cứ nhằm phát hiện và xử lý kịp thời
tội phạm và người phạm tội.
Nhiệm vụ chung của tố tụng hình sự là chủ động phòng ngừa, ngăn
chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời
mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội góp
phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

9


Nhiệm vụ cụ thể của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là xác định có hay
không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định
không khởi tố vụ án. Thể hiện ở việc ghi nhận những thông tin ban đầu về tội
phạm được phát hiện do tin báo tố giác tội phạm, kiểm tra xác minh nguồn tin

đó để xác định những căn cứ cần thiết cho việc khởi tố hay không khởi tố vụ
án hình sự. Giai đoạn này có nhiệm vụ làm rõ các tình tiết loại trừ tố tụng đối
với vụ việc, phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm, bảo quản các dấu vết khách
quan của vụ án theo những quy định chung của luật tố tụng hình sự. Có thể
nói đây là giai đoạn tạo ra các điều kiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ xác
định người phạm tội và hành vi phạm tội ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo.
Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý cũng có ý kiến cho rằng khởi tố vụ án hình
sự là bước đầu của giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Ý kiến này theo chúng tôi
là không có căn cứ vì nếu được quy định và thực hiện trong thực tiễn sẽ dẫn
đến cách hiểu cho rằng thời điểm bắt đầu của giai đoạn điều tra là thời điểm
tiếp nhận tố giác và tin báo về tội phạm và điều này sẽ loại trừ việc cấm thực
hiện các hành vi tố tụng điều tra trước khi khởi tố vụ án hình sự, và thời hạn
điều tra sẽ không được tính từ ngày khởi tố vụ án hình sự mà sẽ được tính từ
ngày tiếp nhận tin báo tố giác về tội phạm.
Với nhiệm vụ quan trọng trên đây nên giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
có ý nghĩa cả trên phương diện pháp lý cùng như ý nghĩa trên phương diện
chính trị - xã hội.
Về ý nghĩa pháp lý, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu cho các
giai đoạn tố tụng tiếp theo. Khi các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi
tố vụ án hình sự là lúc bắt đầu áp dụng các quy định của pháp luật hình sự. Và
cũng chính thời điểm áp dụng các quy định của luật hình sự thì cũng là lúc các
quan hệ pháp luật hình sự được thực hiện. Nếu không có giai đoạn khởi tố vụ
án hình sự thì sẽ không có các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Thêm vào đó, khởi tố

10


vụ án hình sự cũng góp phần loại trừ một thái cực khác trong hoạt động tư pháp
hình sự, ngăn chặn kịp thời việc thông qua quyết định khởi tố vụ án hình sự
một cách thiếu cân nhắc, vội vàng và do vậy sẽ kéo theo một loạt hậu quả tiêu

cực trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự trong các giai đoạn tố tụng hình sự
tiếp theo như điều tra không có căn cứ đối với những hành vi không chứa đựng
dấu hiệu của tội phạm hoặc không diễn ra trong thực tế khách quan, khám xét,
bắt, giam giữ, buộc tội, xét xử một cách vô căn cứ, trái pháp luật. Việc khởi tố
thiếu căn cứ pháp lý là hành vi vi phạm nghiêm trọng luật tố tụng hình sự và
cũng gây ra những thiệt hại không nhỏ cho công dân trong xã hội. Mặt khác,
khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng để
tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trước khi khởi tố
bị can và áp dụng các biện pháp nghiệp vụ của giai đoạn điều tra, cùng với các
giai đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng
và chống tội phạm trong toàn xã hội.
Bên cạnh quy định về căn cứ khởi tố vụ án hình sự là khi xác định có
dấu hiệu tội phạm, BLTTHS cũng quy định những căn cứ không được khởi tố
vụ án hình sự nhằm tránh sự tùy tiện xâm phạm quyền và lợi ích của người
dân. Việc không khởi tố vụ án hình sự khi có những căn cứ mà pháp luật quy
định cũng sẽ tạo niềm tin cho quần chúng nhân dân vào sự công bằng của
pháp luật, đồng thời cũng tiết kiệm sức người, sức của cho Nhà nước, bởi các
cơ quan tiến hành tố tụng sẽ không phải tiến hành tố tụng một cách lãng phí.
Về mặt chính trị - xã hội, khởi tố vụ án hình sự là biện pháp quan trọng
nhằm ngăn chặn và phòng ngừa hành vi phạm tội, thể hiện sự phản ứng nhạy
cảm và kịp thời của các cơ quan có thẩm quyền nhằm xác định sự thật khách
quan của vụ án và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có tội. Khởi tố
vụ án hình sự không chỉ thực hiện chức năng quan trọng trong hoạt động tư
pháp hình sự mà còn là phương tiện cơ bản để thực hiện nguyên tắc không

11


tránh khỏi trách nhiệm trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự. Việc
khởi tố, điều tra và xét xử kịp thời các vụ án hình sự sẽ tạo ra trong công

chúng niềm tin vào việc thực thi pháp luật. Tội phạm gây ra nhiều hành vi
nguy hiểm cho xã hội, tình hình tội phạm là một hiện tượng tiêu cực nhất cho
xã hội bởi lẽ nó xâm phạm đến các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội.
Gây ra hậu quả rất lớn về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tác động
tiêu cực đến các hiện tượng xã hội khác, đến tiến trình phát triển xã hội nói
chung. Vì vậy đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm luôn là một bức xúc,
đòi hỏi sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, các cấp, các ngành cũng như của
mọi người trong xã hội, trong đó các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
giữ vai trò nòng cốt. Cũng bởi vì như vậy, khởi tố vụ án hình sự có một ý
nghĩa quan trọng trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự có căn cứ và kịp thời góp phần
bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công
dân, bảo đảm cho mọi hoạt động xâm phạm lợi ích chính đáng của Nhà nước,
công dân đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Nó còn có ý nghĩa giáo
dục mọi công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tránh những hành vi trái
đạo đức, trái pháp luật, đem lại cuộc sống bình yên cho mọi công dân, làm cơ
sở cho mọi công dân có môi trường lành mạnh cống hiến hết sức mình cho sự
nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Ngược lại, nếu các vụ án có dấu hiệu hình sự mà không được khởi tố kịp
thời hay không được khởi tố hoặc khởi tố thiếu căn cứ pháp lý thì sẽ dẫn đến tình
trạng bỏ lọt tội phạm, người phạm tội không bị phát hiện và xử lý, hoặc dẫn đến
việc chứng cứ bị tiêu hủy, mất mát, không còn giá trị chứng minh sự thật khách
quan của vụ án, vi phạm nghiêm trọng luật tố tụng hình sự, gây thiệt hại không
nhỏ đến lợi ích của người bị hại cũng như của toàn xã hội.
BLTTHS cũng có quy định về những căn cứ không được khởi tố vụ án

12


hình sự. Nếu thấy có một trong bảy căn cứ được quy định tại Điều 107

BLTTHS năm 2003 thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định không khởi tố
vụ án hình sự. Quyết định không khởi tố vụ án hình sự là văn bản pháp lý của
người có thẩm quyền khởi tố xác định thông tin về tội phạm hoặc một sự việc
nào đó không có căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Các căn cứ đó bao gồm:
Không có sự việc phạm tội; hành vi không cấu thành tội phạm; người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ
án có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu TNHS; tội phạm được đại
xá; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần
tái thẩm đối với người khác. Đây là một biện pháp đảm bảo các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân không bị xâm phạm tùy tiện. Việc không khởi tố
vụ án hình sự khi không có đủ căn cứ theo pháp luật quy định cũng sẽ tạo
niềm tin cho nhân dân vào sự công bằng của pháp luật, đồng thời cũng tiết
kiệm sức người, sức của cho Nhà nước, tránh sự lãng phí không cần thiết.
Cuối cùng, việc khởi tố vụ án hình sự còn góp phần đấu tranh chống tội
phạm ẩn. Tình trạng tội phạm ẩn diễn biến rất phức tạp và có chiều hướng
ngày càng gia tăng. Vì vậy việc khởi tố kịp thời các vụ án hình sự cũng có tác
động tích cực đến việc làm giảm tội phạm ẩn trong xã hội.
1.2. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
1.2.1. Khái niệm, ý nghĩa khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại
Người bị hại là một trong những người tham gia tố tụng trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự . Việc tham gia tố tụng của người bị hại không chỉ nhằm
bảo vệ, khôi phục những quyền và lợi ích hợp pháp của họ đã bị hành vi phạm
tội xâm hại mà con góp phần quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan
của vụ án. Xác định đúng tư cách người bị hại, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp

13



của người bị hại trong quá trình tiến hành tố tụng là một trong những sự bảo đảm
cho việc giải quyết vụ án hình sự được chính xác, khách quan, toàn diện.
Pháp luật của các nước không có sự thống nhất trong việc sử dụng thuật
ngữ người bị hại. Chẳng hạn luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Pháp, Liên
Bang Nga, Việt Nam dùng thuật ngữ “người bị hại” thì luật tố tụng hình sự
Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa lại dùng thuật ngữ “người tố cáo”;
ngoài ra người bị hại còn được gọi là “người bị thiệt hại” hay gọi là “nạn
nhân”...Tuy có nhiều cách gọi như vậy nhưng việc sử dụng thuật ngữ nào cũng
đều phải thể hiện được bản chất, nội dung, điều kiện và sự chặt chẽ của thuật
ngữ. Theo quan điểm của chúng tôi, trong mối quan hệ mà luật tố tụng hình sự
Việt Nam điều chỉnh thì dùng thuật ngữ “người bị hại” là phù hợp hơn cả.
Theo từ điển tiếng Việt có thể hiểu người bị hại là con người cụ thể
trong xã hội, chịu sự tác động tiêu cực của việc, hành vi hoặc sự bất kỳ sự tác
động nào dẫn đến sự thiệt thòi, mất mát hay tổn thương đến chính họ. Tất
nhiên là tác động trái ý muốn của người bị hại và họ tiếp nhận một cách thụ
động. Thiệt hại xảy ra cho người bị hại có thể là thiệt hại về vật chất hoặc phi
vật chất và cũng cần phải giới hạn mức độ thiệt hại [15, tr.203].
Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì người bị hại là người bị
hại là người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm
gây ra. Người bị hại phải là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể
chất,về tinh thần hoặc về tài sản chứ không thể là pháp nhân [11, tr.98].
Từ các quan điểm trên cho thấy luật tố tụng hình sự Việt Nam và một
số nước đều có quan điểm người bị hại phải là đối tượng bị tội phạm gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại hay phải xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi
ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Thiệt hại ở đây có thể là thiệt hại về sức
khỏe (do bị gây thương tích, gây tai nạn hay bị người phạm tội vi phạm quy
tắc nghề nghiệp gây ra...) cũng có thể thiệt hại về tính mạng (bị giết, bị gây tai

14



nạn...) thiệt hại về tinh thần (bị lăng nhục, bị xúc phạm danh dự nhân
phẩm...). Người bị hại không những bị thiệt hại về những vấn đề trên mà còn
bị thiệt hại về tài sản như bị đánh cắp, bị chiếm đoạt...
Để các CQTHTT có thể xác định đúng người bị hại thì cần phải xác
định thiệt hại mà tội phạm gây ra phải là thiệt hại trực tiếp. Điều đó thể hiện:
Thể chất, tinh thần hoặc tài sản phải là đối tượng của sự xâm hại. Trong các
tội có cấu thành vật chất, nếu đối tượng tác động chưa bị xâm hại thì không có
thiệt hại xảy ra đồng nghĩa với việc chưa có người bị hại. Đồng thời phải xác
định được mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hậu quả của hành vi
phạm tội mới được coi là thiệt hại trực tiếp. Trong trường hợp này sự thiệt hại
gây ra cho người bị hại phải là những thiệt hại cụ thể, phải có tính hiện tại và
xác định. Mọi thiệt hại có tính chất mơ hồ, không cụ thể, chưa xác định, chưa
hoặc sắp xảy ra thì cũng không được coi là thiệt hại trực tiếp. Điều cơ bản khi
xác định thiệt hại của người bị hại là sự thiệt hại do một hoặc nhiều tội phạm
được luật hình sự quy định, xâm hại trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp và
chính đáng của người bị thiệt hại, các quyền đó phải được pháp luật bảo vệ
bằng quy phạm của luật hình sự. Không chấp nhận quan điểm cho rằng thiệt
hại do tội phạm gây ra cũng có thể là thiệt hại gián tiếp, thiệt hại đó cũng có
thể có hoặc không có mối liên hệ nhân quả với hành vi phạm tội.
Đối với thiệt hại về tinh thần thì thường khó xác định hơn vì thiệt hại
không cụ thể, không định lượng được. Vì vậy, không chỉ trong trường hợp
phạm tội đã hoàn thành mà ngay cả trong trường hợp phạm tội chưa đạt, khi
chưa gây thiệt hại gì do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của
người phạm tội thì người có nguy cơ bị xâm hại cũng được coi là người bị
hại. Người bị hại được coi là bất kỳ người nào mà quyền và lợi ích hợp pháp
của họ là khách thể của tội phạm cho dù tội phạm đó chưa hoàn thành do
những nguyên nhân ngoài ý muốn của họ.

15



Cuối cùng, người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm
gây ra phải được CQTHTT xác định là người bị hại thì người đó mới được coi
là người bị hại. Còn nếu người bị thiệt hại trực tiếp không được CQTHTT xác
định là người bị hại thì người đó không là người bị hại, mà có thể là nguyên
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Từ việc xác
định người bị hại, người bị hại bắt đầu được tham gia vào tố tụng với tư cách
người tham gia tố tụng, được pháp luật quy định các quyền và nghĩa vụ tố
tụng như đưa ra yêu cầu, cung cấp các tài liệu chứng cứ để có thể giúp
CQTHTT xác định sự thật của vụ án, truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật hay họ có quyền thuê luật sư để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình, hay được kháng cáo bản án của Tòa án nếu họ không
nhất trí với bản án hay một phần của bản án về các vấn đề như hình phạt đối
với bị cáo, các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
Từ những phân tích trên, theo quan điểm của chúng tôi có thể đưa ra khái
niệm về người bị hại là: “Người bị hại là cá nhân bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản trực tiếp do tội phạm gây ra và được Cơ quan tiến hành tố tụng
công nhận”.
Khái niệm này bao gồm các đặc điểm của người bị hại sau:
Thứ nhất, về chủ thể người bị hại chỉ có thể là cá nhân;
Thứ hai, thiệt hại do tội phạm gây ra có thể là thiệt hại về vật chất, tinh
thần hoặc tài sản. Tuy nhiên cần lưu ý hậu quả của thiệt hại không phải là
điều kiện bắt buộc trong mọi trường hợp.
Thứ ba, thiệt hại của người bị hại phải là đối tượng tác động trực tiếp
của tội phạm, tức là phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với
hậu quả gây ra cho người bị hại.
Thứ tư người bị hại chỉ được tham gia tố tụng với địa vị pháp lý người
bị hại khi và chỉ khi được CQTHTT công nhận.


16


Để hiểu rõ hơn khái niệm người bị hại, cần phân biệt với một số khái
niệm đồng nghĩa hoặc giáp ranh như: người bị hại với nạn nhân; người bị hại
với đối tượng tác động của tội phạm. Theo chúng tôi, đây là những khái niệm
gần nhau nhưng không đồng nhất với nhau.
Thứ nhất, phân biệt khái niệm người bị hại với nạn nhân, có nhiều quan
điểm cho rằng người bị hại chính là nạn nhân của tội phạm. Theo quan điểm
của chúng tôi điều đó đúng nhưng chưa đủ. Nội dung khái niệm của người bị
hại có nội hàm hẹp hơn khái niệm nạn nhân của tội phạm. Như đã biết, hành
vi phạm tội luôn gây ra hoặc đe dọa gây ra những những thiệt hại đáng kể cho
xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Để gây ra những thiệt hại cho những quan
hệ này, hành vi phạm tội đã tác động gây thiệt hại cho một số cá nhân, tổ
chức. Trong khi đó:“Nạn nhân của tội phạm là những cá nhân, tổ chức bị
hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại, gây ra những thiệt hại về thể chất, về tinh
thần, tài sản hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp khác” [39, tr.8]. Như vậy, nạn
nhân của tội phạm ngoài cá nhân còn có thể là tổ chức, pháp nhân; thiệt hại
của nạn nhân không chỉ về thể chất, tinh thần, về tài sản mà còn có thể bao
hàm những thiệt hại về các quyền và lợi ích hợp pháp khác, thiệt hại đó có thể
bao gồm cả những thiệt hại gián tiếp; hơn nữa nạn nhân chỉ tham gia quan hệ
pháp luật tố tụng hình sự mới được coi là người bị hại [9, tr.7].
Thứ hai, phân biệt khái niệm người bị hại với đối tượng tác động của
tội phạm. Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận khách thể của tội
phạm bị hành vi phạm tội tác động đến, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại. Đối tượng tác động của tội phạm không chỉ là con người mà còn bao gồm
cả các đối tượng vật chất khác. Con người bị tội phạm xâm phạm về thể chất,
tinh thần và các quyền tự do dân chủ, họ chính là một trong số các đối tượng
tác động của tội phạm.
Như vậy có thể khẳng định, khái niệm người bị hại, nạn nhân, đối

tượng tác động của tội phạm mặc dù có những điểm tương đồng nhưng về bản

17


chất, đặc trưng của chúng là hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên, trong quá trình
áp dụng pháp luật cần phân biệt rõ các khái niệm này, tránh sự nhầm lẫn
không đáng có.
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là một chế định
của luật tố tụng hình sự. Theo đó người bị hại có quyền lựa chọn hoặc là yêu
cầu khởi tố vụ án hoặc là không yêu cầu khởi tố vụ án. Pháp luật quy định
như vậy nhằm tôn trọng sự thỏa thuận tự nguyện giữa họ trong các trường
hợp pháp luật cho phép đem lại các lợi ích lớn hơn là việc công tố truy cứu
TNHS đồng thời nó mang lại những ý nghĩa hết sức quan trọng.
Một là, các tội được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại đều được
quy định tại khoản 1 đó là các tội phạm ít nghiêm trọng (trừ tội hiếp dâm,
cưỡng dâm) có thể giải quyết bằng các con đường khác như bồi thường hay
hành chính, giảm bớt các vụ việc phải xét xử bằng án hình sự, tránh lãng phí
cho Nhà nước; thứ hai, trong một số trường hợp người bị hại cũng có lỗi như
trong trường hợp phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, do
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh…
Hai là, đối với những tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Người
bị hại muốn giữ bí quyết công nghiệp hoặc không muốn bỏ thời gian tham gia
tố tụng khi đã được bồi thường thỏa đáng.
Ba là, đối với các tội hiếp dâm, cưỡng dâm ảnh hưởng lớn đến danh dự,
nhân phẩm của người bị hại. Bản thân người bị hại cũng như thân nhân của họ
muốn giữ bí mật đời tư và danh dự cho sau này nên họ đã không yêu cầu khởi
tố, vụ việc không được truy cứu TNHS. Pháp luật dành cho họ quyền không
yêu cầu trong trường hợp này cũng là để bảo vệ danh dự cho người bị hại.
Bốn là, việc quy định chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của

người bị hại còn nhằm bảo vệ truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vụ việc xảy
ra đôi khi là giữa những hàng xóm láng giềng, anh em, họ hàng, những người

18


×