Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Các nước đang phát triển với cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức Thương mại Thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 128 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





LÊ THỊ HÀ






CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VỚI CƠ CHẾ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI
THẾ GIỚI



LUÂN VĂN THẠC SỸ LUẬT





Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Xuân Nhự






Hà nội – 2005




iii
MỤC LỤC

Trang
LỜI CAM ĐOAN.…… ………………………………………………… ………………
i
LỜI CẢM ƠN.……… ………………………………………………… ………………
ii
MỤC LỤC…………………………………………………………………………….……
iii
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT……………………… ………………………
v
DANH MỤC CÁC BẢNG, ĐỒ THỊ………………………………………………………
vi
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………
1
CHƯƠNG 1 CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC
THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
4
1.1. KHÁI NIỆM CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC
THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
……………………………………………………

4

1.1.1. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế
…………………
4
1.1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp trong Hiệp định chung về Thuế
quan và thương mại…………………………………………………….………

8
1.1.3. Những hạn chế của cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT và
sự cần thiết ra đời một cơ chế giải quyết tranh chấp thiết thực và hữu
hiệu - cơ chế của WTO…………………………………………………………


16
1.2. CƠ QUAN VÀ NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ
CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ
GIỚI……………………………………………….

20
1.2.1. Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO……………………… …….
20
1.2.2. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp của
WTO…….…………… …
28
1.3. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI
THẾ GIỚI ………………… ……………………………………………………

30
1.3.1. Giai đoạn tham vấn và hoà
giải……………………….……………….
30

1.3.2. Giai đoạn giải quyết tranh chấp tại Ban hội thẩm
…………………
34

iii
1.3.3. Giai đoạn kháng cáo, phúc thẩm……………….……………………
40
1.3.4. Giai đoạn thi hành phán quyết và khuyến nghị……………….……
42
CHƯƠNG 2 TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA CÁC NƯỚC
ĐANG PHÁT TRIỂN THEO CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI


49
2.1. VỊ TRÍ CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN TRONG
WTO…………….
49
2.2. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
THEO CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG
MẠI THẾ GIỚI……………….………………………………………………….


54
2.3. MỘT SỐ VỤ TRANH CHẤP CỤ THỂ CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT
TRIỂN ĐƯỢC GIẢI QUYẾT THEO CƠ CHẾ CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG
MẠI THẾ GIỚI …………………………………………………………………


66

CHƯƠNG 3 ĐÁNH GIÁ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ
CHỨC
THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT
TRIỂN -
KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM


86
3.1. ĐÁNH GIÁ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC
THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN….

86
3.1.1. Ưu điểm của cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO……………
87
3.1.2. Hạn chế của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO………………
92
3.2. KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM ……………….………………………….
98
3.2.1. Xác định rõ cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO….
98
3.2.2. Điều chỉnh chính sách, pháp luật kinh tế - thương mại cho phù
hợp với các quy định của WTO……………….………………………………

102
3.2.3. Nghiên cứu, vận dụng thành công những ưu đãi của WTO dành
cho các nước đang phát triển……………….………………………………

103
3.2.4. Chuẩn bị tốt về luật sư, tài liệu, tài chính và tâm lý khi theo

kiện
104
3.2.5. Tuyên truyền ý thức pháp luật thương mại quốc tế cho các
doanh nghiệp và công chúng để hạn chế xảy ra tranh chấp…………….

107

iii
3.2.6. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước
109
3.2.7. Thực hiện tốt các cam kết quốc tế……………….……………………
110
3.2.8. Đào tạo đội ngũ chuyên gia giỏi để tham gia quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế……………….…………………………………………………

111
KẾT LUẬN……………….………………………………………………………………
113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……….…………………………………………
116



1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơ chế giải quyết tranh chấp của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được
coi là một định chế có đặc thù và là điểm nổi bật của hệ thống thương mại toàn cầu.
Cơ chế đó không chỉ đơn thuần giải quyết êm thấm các tranh chấp mà nó cũng là
công cụ bảo đảm sự tin cậy về mặt pháp lý đối với các cam kết của các chính phủ.

Nếu một nước vi phạm những quy định của WTO, nước đó có thể phải đối mặt rất
nhiều những trừng phạt thương mại.
Về mặt lý thuyết, bất kể nước thành viên nào cũng có thể đưa các tranh chấp
ra WTO để giải quyết nhưng trên thực tế, cơ chế này chủ yếu có lợi cho các nước
giàu. Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO cho phép các bạn hàng đơn phương
trừng phạt các nước vi phạm. Đây chính là cơ hội để các cường quốc thương mại
thể hiện sức mạnh của mình. Mỹ, EU hoặc Nhật Bản có thể không sợ nếu một nước
nhỏ ở Thế giới thứ ba đe doạ trừng phạt họ, nhưng các nước đang phát triển có thể
sẽ bị mất nhiều nếu bị các cường quốc thương mại cấm vận.
Tuy nhiên, trên thực tế, một số nước đang phát triển đã thành công trong việc
thách thức các nước lớn (thí dụ điển hình là vụ Costa Rica kiện Mỹ về quy chế hạn
chế nhập khẩu hàng dệt cotton và vụ Venezuela và Brazil kiện Mỹ về quy định xăng
dầu, Argentina kiện Mỹ về các biện pháp chống bán phá giá ống dẫn dầu).
Các nước đang phát triển cũng tích cực nhờ tới cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO để giải quyết các tranh chấp thương mại giữa họ với nhau và giải thích
quy phạm của WTO. Ví dụ, các vụ kiện giữa Brazil và Philippines (về quy chế nhập
khẩu dừa khô); Guatemala và Mexico (chống bán phá giá đối với xi-măng); Ấn Độ
và Thổ Nhĩ Kỳ (hàng dệt may); Indonesia và Argentina (quy chế phòng vệ thương
may đối với hàng giày dép); Argentina và Chile (các biện pháp phòng vệ liên quan
đến sản phẩm nông nghiệp)…
Việt Nam là một nước đang phát triển và đang chủ động hội nhập kinh tế khu
vực và quốc tế và nỗ lực đàm phán để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO)

2
vào cuối năm 2005. Để gia nhập WTO, Việt Nam phải nghiên cứu cơ cấu tổ chức,
chức năng của tổ chức này, các hiệp định đa phương của WTO, những quyền lợi,
nghĩa vụ, những ưu đãi mà Việt Nam phải gánh vác và được hưởng. Hơn thế nữa,
Việt Nam phải tìm hiểu kỹ cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để vận dụng
nhằm giải quyết các tranh chấp khi nước ta trở thành viên của tổ chức này, đồng
thời cũng chứng minh xem cơ chế giải quyết tranh chấp này có hiệu quả không, có

đảm bảo khôi phục được quyền lợi của nước bị vi phạm hay không? Từ đó xem xét
có nên đưa các tranh chấp ra giải quyết theo cơ chế của WTO hay không và cần
phải làm gì khi tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp đó. Chính vì vậy, tác
giả đã chọn đề tài: “Các nước đang phát triển với cơ chế giải quyết tranh chấp
của tổ chức thương mại thế giới” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đánh thực trạng giải quyết tranh chấp của các nước đang phát triển
theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, từ đó rút ra bài học đối với Việt Nam.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa những nguyên tắc, quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp
theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
- Phân tích thực trạng một số tranh chấp của các nước đang phát triển được
giải quyết theo cơ chế của WTO trong thời gian vừa qua.
- Đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp của các nước đang phát triển theo
cơ chế của WTO, từ đó rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài đặt ra đối tượng nghiên cứu là những nguyên tắc, quy trình, thủ tục
giải quyết tranh chấp theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là giới hạn trong việc phân tích, đánh giá
thực trạng giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thương mại hàng hoá giữa các nước
đang phát triển với các nước phát triển và giữa các nước đang phát triển với nhau

3
theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO thông qua một số vụ tranh chấp đã được
giải quyết.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với phương pháp tổng
hợp, phân tích, đánh giá, so sánh và quy nạp.

6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn có những đóng góp mới về khoa học sau đây:
- Hệ thống hóa những nguyên tắc, quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp
theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
- Đánh giá thực trạng một số tranh chấp của các nước đang phát triển được
giải quyết theo cơ chế của WTO trong thời gian vừa qua.
- Rút ra kinh nghiệm với Việt Nam trong quá trình gia nhập và trở thành
thành viên của WTO .
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức thương mại thế giới
Chƣơng 2: Tình hình giải quyết tranh chấp của các nước đang phát triển
theo cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức thương mại thế
giới
Chƣơng 3: Đánh giá cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức Thương
mại thế giới đối với các nước đang phát triển - kinh nghiệm
đối với Việt Nam



4
CHƢƠNG 1
CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG
MẠI THẾ GIỚI
1.1. KHÁI NIỆM CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI
THẾ GIỚI
1.1.1. Cơ chế giải quyết tranh chấp thƣơng mại quốc tế
1.1.1.1. Tranh chấp thương mại quốc tế
Tranh chấp theo giải thích trong nhiều từ điển được hiểu là sự giành giật,
giằng co nhau cái không rõ thuộc về bên nào, là "bất đồng, trái ngược nhau".

Thông thường khi nói đến tranh chấp, người ta hay liên tưởng đến mâu
thuẫn, bất đồng hoặc xung đột giữa các chủ thể của quan hệ pháp luật. Nguyên nhân
cụ thể của tranh chấp có nhiều và đa dạng, phong phú như bản thân các quan hệ xã
hội của con người vậy. Tuy nhiên, nguồn gốc của hầu hết mọi tranh chấp đều có thể
được nhìn nhận dưới góc độ kinh tế. Nói cách khác, đa số các tranh chấp phát sinh
đều có mối liên hệ chặt chẽ tới lợi ích kinh tế.
Trong từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thuộc Viện khoa học Xã hội
Việt Nam xuất bản năm 1992, giải thích rõ ở điểm 2 của nghĩa từ tranh chấp là: đấu
tranh giằng co khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên.
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin về quy luật thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập, thì bất kỳ một hiện tượng xã hội nào cũng có mâu thuẫn
tiềm ẩn. Do đó, tranh chấp là một hiện tượng khách quan và sự tồn tại của nó có
tính chất tất yếu trong mọi xã hội vốn không ngừng vận động phát triển. Cũng với
sự vận động của xã hội loài người, các tranh chấp cũng phát sinh ngày càng nhiều
hơn, đa dạng hơn, ở mọi nơi, mọi lúc, dưới mọi hình thức và trong mọi lĩnh vực.
Theo tác giả luận văn, có thể hiểu: tranh chấp là sự bất đồng về quyền lợi,
lợi ích, quan điểm mà trong đó yêu cầu hay đòi hỏi của một bên bị bên kia từ chối
hay khiếu kiện lại.

5
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các tranh chấp không chỉ
dừng lại trong phạm vi một quốc gia, mà xuất hiện ngày càng nhiều các tranh chấp
ở phạm vi quốc tế.
Theo giáo trình luật quốc tế Ấn Độ do tiến sĩ S.K.Kapoor chủ biên tái bản
năm 1994 thì khái niệm tranh chấp quốc tế được nêu rõ [26,724]:
- Thứ nhất, là sự tranh chấp giữa các quốc gia. Trường hợp có hành vi sai trái
với một dân tộc hay với một quốc gia nào đó nhưng nếu chính phủ của quốc gia đó
không có hành vi phản ứng lại thì cũng không được coi đó là tranh chấp quốc tế.
- Thứ hai, tranh chấp phải xảy ra những hành vi cụ thể từ phía quốc gia gây sự.
- Thứ ba, sự tranh chấp phải liên quan đến các đối tượng tranh chấp cụ thể

của quốc gia bị hại.
Giáo trình về công pháp quốc tế của Mỹ xuất bản năm 1900 nêu rõ: Việc giải
quyết các tranh chấp quốc tế là việc giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia.
Trong thực tiễn, “tranh chấp quốc tế” được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa
hẹp. Theo nghĩa rộng tranh chấp quốc tế bao hàm không chỉ tranh chấp mà cả các
tình thế (trạng thái) xung đột giữa các chủ thể của luật quốc tế, mà chủ yếu là các
quốc gia; theo nghĩa hẹp thì tranh chấp quốc tế chỉ bao gồm các quan hệ xung đột
giữa các chủ thể của luật quốc tế được biểu hiện qua các bên tham gia cụ thể đối với
các đối tượng tranh chấp nhất định.
Theo Hiến chương Liên hợp quốc có hai loại tranh chấp quốc tế là: các tranh
chấp có thể đe doạ hoà bình và an ninh thế giới; và các tranh chấp khác. Tất cả các
tranh chấp đều có thể dẫn đến chiến tranh, đe dọa đến hoà bình và an ninh thế giới.
Tuy nhiên trên thực tế cho thấy các tranh chấp về biên giới lãnh thổ là loại tranh
chấp có nguy cơ đe dọa hoà bình và an ninh thế giới cao hơn. Trong khi đó, các
tranh chấp trong lĩnh vực thương mại quốc tế có ít nguy cơ gây ra chiến tranh hơn
và được xem là loại tranh chấp nằm ở nhóm thứ hai.
Như vậy, theo nhận xét ở trên, có thể kết luận tranh chấp thương mại quốc tế
là một loại tranh chấp quốc tế, phát sinh trên cơ sở xung đột về mặt quyền lợi hay
mâu thuẫn về lợi ích trong các quan hệ thương mại quốc tế.

6
Chủ thể tham gia vào tranh chấp thương mại quốc tế có thể là thể nhân, pháp
nhân, các tổ chức liên chính phủ hoặc các quốc gia. Như vậy có thể phân chia tranh
chấp thương mại quốc tế thành 3 nhóm: thứ nhất là các tranh chấp giữa các chủ thể
của luật quốc tế (chủ yếu là các quốc gia); thứ hai là tranh chấp giữa chủ thể của luật
quốc tế với pháp nhân hoặc thể nhân; thứ ba là tranh chấp giữa các thể nhân và pháp
nhân với nhau. Luận văn này chỉ giới hạn ở việc xem xét tranh chấp giữa các quốc
gia thành viên của WTO (tức là tranh chấp thuộc nhóm thứ nhất) liên quan đến việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo các hiệp định và thoả thuận của WTO. Điều này
cũng phù hợp với đặc điểm của WTO với tư cách là tổ chức quốc tế có các thành viên

là các quốc gia độc lập có chủ quyền, cùng nhau đàm phán, nhất trí thành lập, thông
qua hoặc ký các hiệp định của WTO.
Với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thế giới, cũng như quá trình
toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới thì hoạt động của các công ty không chỉ còn
giới hạn trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia, hình thành nên những công ty đa
quốc gia có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế của các nước. Bên cạnh đó, trong quá
trình này, các nước cũng muốn bảo hộ nền sản xuất trong nước, mà thực chất là các
công ty trong nước, để phát triển nền kinh tế của mình. Chính vì vậy, trên thực tế
khi xem xét về các tranh chấp thuộc nhóm thứ nhất, chúng ta có thể đi đến nhận xét
là mặc dù các Bên trong tranh chấp là các quốc gia, nhưng thực chất đó là các tranh
chấp giữa các pháp nhân với nhau.
Trong tranh chấp thương mại quốc tế, các bên có thể sử dụng rất nhiều biện
pháp khác nhau để giải quyết. Các biện pháp giải quyết tranh chấp trong Luật quốc
tế hiện đại đã được nêu rất rõ trong Điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc đó là:
- Đàm phán trực tiếp, có các biện pháp hỗ trợ (môi giới, trung gian hoà giải).
- Giải quyết tranh chấp bằng các Uỷ ban điều tra và Uỷ ban hoà giải.
- Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
- Giải quyết tranh chấp bằng toà án.
- Giải quyết tranh chấp tại các tổ chức quốc tế.

7
Các biện pháp này có thể chia thành hai nhóm lớn:
Nhóm thứ nhất, gồm những biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua đàm
phán, thương lượng. Những biện pháp này chủ yếu do các bên tự thực hiện, có thể có
sự tham gia giúp đỡ của bên thứ ba không liên quan đến tranh chấp. Trong nhiều tài
liệu, các phương pháp giải quyết tranh chấp này còn được gọi là các biện pháp tuỳ
chọn.
Nhóm thứ hai, gồm những biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua việc sử
dụng các cơ quan tư pháp. Việc giải quyết tranh chấp theo các biện pháp này phải
có sự tham gia của bên thứ ba. Những quyết định và phán xét của bên thứ ba có tính

chất bắt buộc đối với các bên trong tranh chấp.
1.1.1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế
Trong Đại từ điển Tiếng Việt (Nhà xuất bản Văn hoá thông tin xuất bản năm
1998) đã định nghĩa cơ chế là cách thức sắp xếp tổ chức để làm đường hướng, cơ sở
theo đó mà thực hiện và có đưa ví dụ: cơ chế thị trường, cơ chế điều chỉnh pháp
luật,…[15,368]. Có thể hiểu cơ chế là một phương thức, một hệ thống các yếu tố
làm cơ sở, đường hướng cho sự vận động của sự vật hay hiện tượng [10,58]. Nói
đến cơ chế của một sự vật hiện tượng nào đó, bao giờ cũng gồm hai mặt: bên ngoài
(thể hiện ở cách thức tổ chức nên nó) và bên trong (sự tổ chức và hoạt động ngay
trong nội tại của sự vật và hiện tượng). Nói cách khác, cơ chế là hệ thống các mối
quan hệ hữu cơ, liên quan đến cách thức tổ chức, hoạt động, cách thức tồn tại và
phát triển của sự vật, hiện tượng. Cơ chế là một quá trình, một hệ thống, là tổng thể
các yếu tố tạo nên sự hoạt động của sự vật, hiện tượng.
Trên cơ sở khái niệm cơ chế nói chung, chúng ta tìm hiểu khái niệm về cơ
chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Có thể nói cơ chế giải quyết tranh
chấp thương mại quốc tế là tổng hợp các yếu tố làm cơ sở, đường hướng cho việc
giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Khi nghiên cứu cơ chế giải quyết tranh
chấp thương mại quốc tế cần xem xét từ hai góc độ: mặt động của cơ chế (là những
trình tự, thủ tục, nguyên tắc để vận hành cơ chế); mặt tĩnh của cơ chế (là các
phương thức tác động vào hay còn gọi là các thiết chế, các cơ quan tham gia vào

8
vận hành cơ chế đó theo những nguyên tắc, thủ tục, quy trình đã được luật định,
nhằm mục đích cuối cùng là khôi phục lại quyền và lợi ích bị vi phạm và trật tự xã
hội).
Như vậy, một tranh chấp phát sinh, dù đó là tranh chấp loại gì cũng cần được
giải quyết. Để giải quyết tranh chấp cần có cơ quan giải quyết tranh chấp (như toà án,
trọng tài chẳng hạn), các nguyên tắc giải quyết tranh chấp, phương pháp, cách thức
giải quyết tranh chấp (như thương lượng, hoà giải, phương pháp trọng tài ), các quy
trình, thủ tục giải quyết tranh chấp (như trình tự tiến hành, các giai đoạn giải quyết

tranh chấp ), các biện pháp bảo đảm thi hành quyết định về việc giải quyết tranh
chấp (như bản án, phán quyết). Tất cả những yếu tố này được thể chế hoá thành
những quy phạm pháp luật, căn cứ vào đó để tiến hành giải quyết tranh chấp.
Như vậy, cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế là hệ thống các
cơ quan, các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật về phương pháp, quy trình, thủ
tục giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế và bảo đảm thi hành quyết định của
cơ quan giải quyết tranh chấp.
Từ khái niệm trên, cơ chế giải quyết tranh chấp bao gồm các yếu tố cấu thành
sau:
- Các cơ quan giải quyết tranh chấp: Cơ quan giải quyết tranh chấp có thể
do Nhà nước thành lập ra, hoặc là do các bên tranh chấp thành lập ra để giải quyết
tranh chấp. Thiếu cơ quan giải quyết tranh chấp thì cơ chế giải quyết tranh chấp
không thể vận hành được.
- Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp: Đây là những quy tắc cơ bản, quan
trọng làm cơ sở, làm căn cứ cho việc thành lập cơ quan giải quyết tranh chấp và cho
việc ban hành các quy phạm pháp luật cụ thể điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp.
- Hệ thống các quy phạm pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp: Đó là
các quy định pháp luật về cách thức giải quyết tranh chấp, về quy trình, thủ tục tiến
hành giải quyết tranh chấp.
- Tổng thể các quy phạm pháp luật về đảm bảo thi hành quyết định giải
quyết tranh chấp: Đây là những quy định pháp luật về các biện pháp, cách thức đảm

9
bảo thi hành phán quyết, quyết định giải quyết tranh chấp do cơ quan giải quyết
tranh chấp đưa ra.
1.1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp trong Hiệp định chung về Thuế quan và
Thƣơng mại
1.1.2.1. Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại - GATT
GATT là một trong những công cụ thương mại đa phương có quy mô lớn
đầu tiên trên thế giới, có các thành viên là các quốc gia và vùng lãnh thổ. Phạm vi

của GATT chỉ bao gồm các vấn đề liên quan đến thương mại hàng hoá, hướng tới
việc cắt giảm thuế quan đối với hoạt động thương mại quốc tế. GATT ra đời đã
đánh dấu một sự thay đổi lớn trong quan hệ kinh tế toàn cầu, thúc đẩy và đảm bảo
cho quá trình tự do hoá thương mại thế giới. Đồng thời GATT cũng đã tạo cơ sở
cho sự ra đời của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), một tổ chức quốc tế có quy
mô lớn về cơ cấu tổ chức và phạm vi điều chỉnh.
Năm 1944, trong khi cuộc Chiến tranh thế giới Thứ hai vẫn diễn ra ác liệt,
các phái đoàn của các quốc gia đồng minh cùng nhau họp tại Bretton Woods, New
Hampshire (Mỹ) để bàn bạc việc hình thành một hệ thống kinh tế quốc tế mới sau
khi chiến tranh kết thúc. Các cuộc họp này đã quyết định thành lập Quỹ tiền tệ quốc
tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB). Cả hai tổ chức quốc tế này đều không có
chức năng giải quyết các vấn đề thương mại quốc tế.
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Mỹ chủ động thành lập một tổ chức
quốc tế quy định nội quy thương mại quốc tế (các hoạt động thương mại của Mỹ
vào thời điểm này chiếm một nửa giá trị thương mại thế giới). Đây là đề xuất thành
lập Tổ chức thương mại quốc tế (ITO) trực thuộc Liên hợp quốc. Một bản hiến
chương chi tiết được gọi là Hiến chương ITO được soạn thảo và đã được các nước
đàm phán sửa đổi qua các hội nghị quốc tế tổ chức luân phiên tại London, New
York, Geneva và Havana từ năm 1946 đến năm 1947. Dự thảo cuối cùng được hoàn
thiện tại La Havana (Cuba) có tên gọi là “Hiến chương La Havana”. Hiến chương
La Havana về việc thành lập ITO đã được 53 nước ký, chủ yếu là các quốc gia
giành được độc lập sau chiến tranh, trừ các nước Đức, Italia và Nhật Bản.

10
Mặc dù Hiến chương ITO đã được nhất trí, nhưng việc phê chuẩn Hiến
chương này ở một số nước đã không thực hiện được. Phản ứng mạnh nhất là từ phía
Quốc hội Mỹ do sự chỉ trích trong nội bộ nước Mỹ, mặc dù Chính phủ Mỹ là một
trong các Chính phủ tham gia tích cực trong việc xây dựng và hoàn thiện Hiến
chương này. Vì vậy, việc một số quốc gia (trong đó có Mỹ) không phê chuẩn Hiến
chương này nên trên thực tế ITO không được thành lập.

Khi nhận thấy việc xây dựng Hiến chương ITO là không thể thành công, Mỹ
lại một lần nữa đặt ra kế hoạch đàm phán một Hiệp định tạm thời để làm cơ sở cho
các đàm phán về thuế quan và các nguyên tắc cơ bản của thương mại quốc tế. Có 23
quốc gia tham gia cuộc đàm phán này, và kết quả là một hiệp định gọi là Hiệp định
chung về Thuế quan và Thương mại (gọi tắt là GATT) được hình thành vào năm
1947. Do vậy, GATT được coi như một Hiệp định tạm thời chỉ có hiệu lực cho đến
khi Hiến chương ITO được phê chuẩn. Tuy nhiên, Hiến chương ITO không bao giờ
trở thành hiện thực và GATT đã có hiệu lực cho đến tận cuối năm 1994. Trong
khoảng gần 50 năm, GATT vẫn được coi như là một Hiệp định "tạm thời".
Mục đích ngay từ ngày đầu của GATT là từng bước xoá bỏ các rào cản thuế
quan và phi thuế quan cho sự lưu chuyển của hàng hoá (những thoả thuận này chỉ
là tạm thời trong khi ITO chưa ra đời). Việc cắt giảm hàng rào thuế quan và phi
thuế quan của GATT được thực hiện thông qua lộ trình thoả thuận giữa các quốc
gia. GATT thiết lập nên các nghĩa vụ đa phương cho thương mại hàng hoá, bao gồm
đãi ngộ tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia, tính công khai, chống phá giá và thuế đối
kháng, các biện pháp tự vệ,
Không giống như phần lớn các hiệp định có hiệu lực pháp lý bắt buộc khác,
GATT không phải là một hiệp định đơn nhất. GATT bao gồm hàng loạt các Thoả
thuận khác nhau, trong đó có Hiệp định chung, các Nghị định thư, Thoả thuận kết
nạp các thành viên mới và các Bộ luật của GATT được thông qua tại các vòng đàm
phán Kennedy và Tokyo.
GATT được xây dựng dựa trên hai nguyên tắc cơ bản là: nguyên tắc Đãi ngộ
tối huệ quốc (MFN) được quy định tại Điều I của GATT; nguyên tắc Đãi ngộ quốc

11
gia (NT) được quy định tại Điều III của GATT. Hai nguyên tắc này đã đóng vai trò
quan trọng và trở thành các nguyên tắc cơ bản của pháp luật thương mại quốc tế.
Việc sử dụng hai nguyên tắc này nhằm mục đích xoá bỏ sự phân biệt đối xử đã
được áp dụng lâu dài trong quan hệ thương mại quốc tế. Chính vì vậy chúng đã
được tiếp tục sử dụng làm nguyên tắc cơ bản của WTO.

Ngoài những qui định về sự không phân biệt đối xử nêu ở trên, trong GATT
còn có nhiều điều khoản khác về quy chế tối huệ quốc và nguyên tắc không phân
biệt đối xử, liên quan đến các quy định về số lượng hàng hoá nội địa (Điều III,
khoản 7), phim ảnh nghệ thuật (Điều IV (b)), quá cảnh hàng hoá (Điều V, khoản 5
và 6), nhãn hiệu xuất xứ hàng hoá (Điều IX, khoản 1), hạn chế về số lượng hàng
hoá (Điều XIII khoản 1), doanh nghiệp thương mại nhà nước (Điều XVII, khoản 1),
khuyến khích của nhà nước trong việc thành lập các ngành công nghiệp đặc biệt
(Điều XVIII, khoản 20), và các biện pháp cần thiết đối với việc nhập khẩu và phân
phối các loại hàng hoá khan hiếm (Điều 20, mục (j)).
Trong quá trình tồn tại của mình, GATT đã tổ chức 8 cuộc đàm phán quốc
tế, trong đó nổi bật là Vòng đàm phán Kennedy (1962-1967), Vòng đàm phán
Tokyo (1973-1979), Vòng đàm phán Uruguay (1986-1994). Sự hoàn thiện của
GATT trong quá trình hoạt động của mình là một kết quả đáng kể. Vòng đàm phán
Kennedy (62 nước tham gia) đã giải quyết được việc giảm thuế cho 30.000 loại sản
phẩm và mức giảm thuế trung bình là 35%. Vòng đàm phán Tokyo (102 nước) giải
quyết vấn đề hàng rào mậu dịch phi thuế quan và vấn đề giảm thuế và đã ký kết một
số hiệp định thương mại quan trọng, bao gồm Hiệp định chống phá giá, Hiệp định
trợ giá và thuế đối kháng, Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong thương mại, Hiệp định
về định giá Hải quan, Hiệp định về mua bán chính phủ. Còn kết quả của Vòng đàm
phán Uruguay là việc hình thành tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Vòng
Uruguay (123 nước) đàm phán về hầu hết tất cả các khía cạnh: từ những nội dung
truyền thống như cắt giảm thuế quan, các biện pháp phi thuế quan, cải cách hệ
thống pháp lý của GATT, cho đến những vấn đề hoàn toàn mới như thương mại
dịch vụ (GATS), bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs) và các biện pháp đầu tư liên

12
quan đến thương mại (TRIMs). Một trong những thành tựu quan trọng nhất mà
vòng đàm phán Uruguay đã đạt được chính là Hiệp định về việc thành lập một tổ
chức mới - Tổ chức thương mại thế giới (WTO) - một phiên bản mới của Tổ chức
thương mại quốc tế (ITO).

1.1.2.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT
GATT quy định dù nước lớn hay nước nhỏ, khi thấy quyền lợi của mình bị
nước thành viên khác đe doạ gây tổn hại hoặc gây tổn hại, có thể yêu cầu GATT
giải quyết tranh chấp một cách công bằng.
Cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT là một cơ chế giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế, được thiết lập nhằm mục đích giải quyết tranh chấp, tìm kiếm
các cuộc đàm phán mang tính tương hỗ, làm cho hai bên tranh chấp kiềm chế, hiểu
biết và thông cảm với nhau, tìm ra biện pháp giải quyết mà hai bên đều có thể chấp
nhận được và bảo đảm một phán quyết phải được đồng ý của Hội đồng chung.
Cơ chế giải quyết tranh chấp chung trong GATT được quy định chủ yếu
trong Điều XXII (thông qua tháng 11 năm 1958) và Điều XXIII của GATT (thông
qua tháng 5 năm 1966) và các Điều XIX, XXV và XXVIII. Điều XXII quy định về
thủ tục tham vấn giữa các bên liên quan đến việc thực thi GATT, đòi hỏi Hồi đồng
chung (đại diện là Ban thư ký) tham vấn cùng với mỗi thành viên trong các sự kiện
tranh chấp có liên quan đến bất kỳ một vấn đề nào có ảnh hưởng tới hoạt động của
GATT và đưa ra sự quan tâm đặc biệt tới lời phản kháng của mỗi bên. Hội đồng
chung theo yêu cầu của mỗi bên, sẽ hỗ trợ việc tham vấn. Điều XXIII đưa ra cơ chế
hoà giải giữa các bên trong trường hợp: “lợi ích có được một cách trực tiếp hay
gián tiếp theo Hiệp định này bị vô hiệu hay bị suy giảm hoặc việc đạt được bất kỳ
mục tiêu nào của Hiệp định này bị cản trở ”. Như vậy, GATT không quy định một
cơ quan thường trực, một cơ chế pháp lý hoàn chỉnh có chức năng giải quyết tranh
chấp giữa các nước thành viên.
Tiến trình giải quyết tranh chấp theo Hiệp định GATT được thực hiện theo
các bước như sau:

13
Bước 1: Thương lượng
Các nước ký kết Hiệp định chung tuyên bố quyết tâm tăng cường, cải tiến
trình tự thương lượng, bảo đảm hưởng ứng kịp thời yêu cầu thương lượng, có tinh
thần tích cực để thương lượng kết thúc nhanh chóng và đi tới kết luận thoả đáng đối

với cả hai bên. Trong trường hợp các bên tranh chấp không nhất trí với nhau thì
tranh chấp sẽ được chuyển sang bước tiếp theo.
Bước 2: Trình vụ kiện
Chỉ có các quốc gia thành viên (chứ không phải là các cá nhân hay các công
ty có tranh chấp liên quan) mới được trình vụ kiện ra GATT. Nước khiếu nại cần
chỉ ra các lợi ích có được hợp lý theo Hiệp định đã bị vô hiệu hay suy giảm bởi
hành động của nước bị kiện. Nếu vi phạm được chỉ ra, GATT sẽ coi như là có sự vô
hiệu hoá và suy giảm, nhưng nếu sau đó GATT tìm thấy không phải sự vô hiệu hóa
hay suy giảm thì GATT sẽ bác bỏ điều giả định của bên khiếu nại - tức là, nếu sự vi
phạm Hiệp định chưa được khẳng định thì bên khiếu nại sẽ không có quyền áp dụng
bất kỳ biện pháp trừng phạt nào đối với bên kia.
Bước 3: Tham vấn
Tham vấn được đề cập trong Điều XXII và Điều XXIII của Hiệp định GATT
và là một phần vô cùng quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp trong Hiệp
định GATT. Rất nhiều vụ kiện được giải quyết theo cách này trước khi được đưa đến
các bên ký kết. Tham vấn có thể rút ngắn được thời gian giải quyết tranh chấp và tiết
kiệm công sức của các bên. Tham vấn phải được lập ra bằng văn bản cùng với lý do
của tham vấn. Bản giải thích Vòng đàm phán Uruguay đã đề ra một số thời hạn trong
giai đoạn này. Trước đây, các bên ký kết sẽ trả lời yêu cầu tham vấn "ngay lập tức"
và cố gắng kết luận chúng một cách nhanh chóng. Về sau, các bên ký kết trả lời yêu
cầu tham vấn trong vòng 10 ngày và tham gia vào quá trình tham vấn liên quan tới
vấn đề khiếu nại trong vòng 30 ngày kể từ ngày yêu cầu đầu tiên của bên khiếu nại.
Thất bại trong việc tuân thủ thời hạn này sẽ cho phép bên khiếu nại quyền đề nghị
thành lập Ban hội thẩm mà không cần phải duy trì quá trình tham vấn. Nếu cả hai bên
đồng ý rằng, biện pháp tham vấn là không thích hợp thì bên khiếu nại có thể yêu cầu

14
thành lập một Ban hội thẩm. Nếu vấn đề khẩn cấp (bao gồm những tình huống có liên
quan đến hàng hoá dễ hỏng đang đi trên đường), thì theo Hiệp định GATT các bên
phải tham dự quá trình tham vấn trong vòng 10 ngày và một Ban hội thẩm có thể

được yêu cầu thành lập sau 20 ngày nếu như không có thoả thuận nào đạt được.
Bước 4: Hoà giải và trọng tài
Nếu quá trình tham vấn không đem lại một giải pháp tích cực cho các bên
tranh chấp, GATT sẽ cung cấp biện pháp hoà giải từ bên thứ ba. GATT cho phép
bất kỳ bên tranh chấp nào đều có thể tìm kiếm sự hoà giải của bên thứ ba. Bản tuyên
bố của các Bộ trưởng GATT năm 1982 đã chỉ rõ rằng bất kỳ một nước nào cũng có
thể yêu cầu vai trò hoà giải của Tổng giám đốc trong việc giải quyết tranh chấp.
Trên thực tế, phần lớn các bên tranh chấp không phải sử dụng đến biện pháp hoà
giải của bên thứ ba.
Trong trường hợp tham vấn thất bại, GATT đưa ra biện pháp trọng tài dựa
trên sự đồng ý sử dụng bên thứ ba như ở trên. Việc sử dụng trọng tài là hoàn toàn
phụ thuộc vào sự đồng ý của các bên tranh chấp và phải được thông báo cho tất cả
các bên ký kết Hiệp định GATT.
Bước 5: Thành lập Ban hội thẩm hoặc Nhóm công tác
Khi biện pháp tham vấn hoặc hoà giải bị thất bại thì bên khiếu nại có thể đưa
vấn đề ra trước Hội đồng GATT. Bên khiếu nại phải đệ trình yêu cầu bằng văn bản,
chuyển vấn đề tới Nhóm công tác hoặc Ban hội thẩm. Bên khiếu nại sẽ yêu cầu
Nhóm công tác hoặc đặc biệt hơn là Ban hội thẩm (sự lựa chọn được hiểu là phụ
thuộc vào bên khiếu nại). Ban hội thẩm phải được thành lập muộn nhất vào cuộc
họp tiếp theo của Chương trình nghị sự.
Việc cơ cấu Ban hội thẩm phải được sự đồng ý của các bên tranh chấp. Tổng
giám đốc GATT có thể thành lập Ban hội thẩm nếu thời hạn không được đáp ứng
nhưng chỉ sau khi đã tham khảo ý kiến cả hai bên. Bản giải thích vòng đàm phán
Uruguay cho phép Tổng giám đốc sau khi tham khảo ý kiến của Chủ tịch Hội đồng
chung được thành lập Ban hội thẩm nếu các thành viên không đạt được sự đồng ý
trong vòng 20 ngày kể từ thời điểm đáng lý nó phải được thành lập.

15
Sau khi được thành lập, Ban hội thẩm sẽ đưa ra lịch làm việc hay kế hoạch
cho các vụ kiện để khuyến khích các bên tranh chấp ngay lập tức đáp ứng thời hạn.

Sau đó, Ban hội thẩm thu thập các thông tin về vụ tranh chấp. Ban hội thẩm không
phụ thuộc toàn bộ vào thông tin về vụ tranh chấp mà họ nhận được từ các bên tranh
chấp. Bất kỳ một cá nhân hay tổ chức nào cũng có thể được hỏi về các thông tin,
hoặc thậm chí về các lời khuyên mang tính chất kỹ thuật.
Ban hội thẩm cũng sẽ yêu cầu các bản đệ trình phải được lập bằng văn bản,
đầu tiên từ bên nguyên đơn sau đó đến bên bị đơn và từ các bên thứ ba có liên quan.
Bên nguyên đơn sẽ thường xuyên được yêu cầu đưa ra bản đệ trình ban đầu, để bên
bị đơn có sự chuẩn bị tốt cho vụ kiện mà nó phải đối mặt. Trên thực tế, Ban hội
thẩm đặt vấn đề tranh chấp trước cả hai bên và mong muốn cả hai bên tranh luận
một cách mạnh mẽ và triệt để. Cuối cùng, vào cuối phiên họp, Ban hội thẩm sẽ nghe
các bên làm sáng rõ các bản tường trình, đôi khi, các bên bị đơn không thể tiến hành
bào chữa cho đến lần đối chất thứ hai. Trên thực tế, nguyên nhân của sự trì hoãn
thường là sự chậm chạp của các bên tranh cãi.
Ban hội thẩm phải đệ trình bản báo cáo không được quá 6 tháng (không được
quá 3 tháng trong trường hợp khẩn cấp) kể từ khi được thành lập hoặc từ khi các
điều khoản tham chiếu được đồng ý. Nếu Ban hội thẩm tiến hành nhiều hơn thời
gian cho phép, thì phải thông báo cho Hội đồng bằng văn bản nêu rõ lý do của sự trì
hoãn, đồng thời dự đoán khi nào Ban hội thẩm sẽ hoàn thành trách nhiệm.
Khi đủ thông tin cần thiết, Ban hội thẩm chỉ thị cho Ban thư ký để bắt đầu
soạn thảo bản báo cáo mà không có mặt các bên tranh chấp. Báo cáo này sẽ được sử
dụng như một nền tảng cho bản báo cáo cuối cùng tới các bên ký kết. Ban hội thẩm
sẽ đánh giá một cách khách quan về những thực tế và việc các bên có tuân theo
Hiệp định hay không. Trước khi Ban hội thẩm gửi Báo cáo tới các bên ký kết, bản
phác thảo của các phần phải được thông báo tới các bên tranh chấp để xin ý kiến
bằng văn bản. Sau đó, bản phác thảo của toàn bộ báo cáo bao gồm các quy tắc giải
quyết tranh chấp phải được thông báo cho các bên tranh chấp để xin ý kiến thêm.
Mục đích là các bên tranh chấp phải được biết tới Báo cáo của Ban hội thẩm và các

16
bên tranh chấp phải đạt được một giải pháp thoả đáng trước khi bản báo cáo được

trình lên các bên ký kết. Nếu không có sự phản đối nào thì Báo cáo của Ban hội
thẩm được chuyển tới các bên ký kết thông qua Hội đồng. Hội đồng tiến hành xem
xét bản báo cáo ngay sau đó, mặc dù nó có thể trì hoãn quá trình xem xét cho tới
chương trình nghị sự kế tiếp của Hội đồng nếu một bên tranh chấp yêu cầu như vậy.
Như vậy Báo cáo của Ban hội thẩm chưa có giá trị pháp lý ngay. Theo thông lệ, Báo
cáo của Ban hội thẩm phải được chấp nhận trên cơ sở đồng thuận, có nghĩa là Báo
cáo sẽ trở thành "quyết định" chỉ khi không có một bên ký kết nào phản đối.
Bước 6: Thực thi phán quyết
Các quy tắc giải quyết tranh chấp của Hội đồng sẽ hướng dẫn các bên ký kết
loại bỏ hoặc điều chỉnh biện pháp nếu biện pháp không hợp pháp theo Hiệp định
GATT, hoặc tiến hành các hành động khác để duy trì sự cân bằng của các nhượng
bộ nếu biện pháp tìm thấy là hợp pháp theo Hiệp định GATT nhưng đã làm vô hiệu
hoá những lợi ích được trông đợi một cách hợp lý từ Hiệp định GATT.
Thông thường, bên khiếu nại có trách nhiệm bảo đảm các vấn đề tranh chấp
phải có sự tham dự đều đặn của Hội đồng. Trong vòng 30 ngày kể từ ngày chấp
nhận Báo cáo, bên tranh chấp phải thông báo ngay cho Hội đồng về dự định của họ
có liên quan đến việc thực thi các quy tắc và phán quyết trong một thời hạn hợp lý
dành cho thành viên vi phạm phụ thuộc vào sự đồng ý của Hội đồng, hoặc các bên
tranh chấp, hoặc sẽ được quyết định bởi trọng tài. Thời hạn hợp lý này thông
thường không vượt quá 15 tháng kể từ khi chấp nhận bản báo cáo của Ban hội thẩm.
Sáu tháng sau khi đưa ra một khoảng thời hạn hợp lý cho việc thực thi, vấn
đề sẽ tự động được đưa vào chương trình nghị sự của Hội đồng và tiếp tục được duy
trì trong chương trình nghị sự của Hội đồng cho đến khi giải quyết ít nhất là 10
ngày trước mỗi cuộc họp của Hội đồng, thành viên vi phạm phải thông báo bằng
văn bản tới Hội đồng về tiến triển trong việc thực thi phán quyết.
1.1.3. Những hạn chế của cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT và sự cần thiết
ra đời một cơ chế giải quyết tranh chấp thiết thực và hữu hiệu - cơ chế của WTO

17
Không thể phủ nhận rằng hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT đã có

đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển của hệ thống giải quyết tranh chấp
kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, thực tế áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT
cũng cho thấy những hạn chế làm giảm tính hiệu quả và hiệu lực của nó, thể hiện:
- Trước hết, tiến trình giải quyết tranh chấp của GATT không ổn định, không
rõ ràng, dễ bị trì hoãn ở mọi giai đoạn. Một số quy định như sự vô hiệu hoá và suy
giảm hầu như không thể sử dụng được cho mục tiêu giải quyết tranh chấp. Nhiều quy
định của GATT về giải quyết tranh chấp chỉ mang tính quy tắc, hướng dẫn cho các
bên khi tham gia vào tiến trình trên. Kết quả là bên vi phạm không thực hiện hoặc
thực hiện nhưng không phù hợp với các phán quyết trong Báo cáo của Ban hội thẩm.
Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp theo quy định của GATT chỉ được tiến
hành ở một cấp, tức là chỉ được xem xét thông qua Ban hội thẩm. Các bên tranh
chấp không có quyền kháng cáo, GATT không có Cơ quan phúc thẩm để xem xét
lại vụ tranh chấp một cách thoả đáng. Do vậy, tính chính xác trong việc giải quyết
tranh chấp giữa các bên không được đảm bảo.
- Thứ ba, toàn bộ hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT được đặt trên cơ
sở ra quyết định đồng thuận, nghĩa là cần phải đạt được sự nhất trí của bên bị khiếu
nại trước khi tiến hành các quy trình thành lập Ban hội thẩm, xác định những điều
kiện tham chiếu, chỉ định thành viên Ban hội thẩm, thông qua phán quyết và cho
quyền trả đũa. Đây là nguyên nhân gây chậm trễ hoặc bế tắc trong việc thông qua
Báo cáo của Ban hội thẩm, bởi bất kỳ một bên ký kết nào (kể cả bên tranh chấp)
cũng có thể phản đối hay trì hoãn những việc làm này. Việc chấp nhận bản báo cáo
và thực thi cũng có thể bị ngăn chặn ở mọi bước bởi sự phản đối kiên quyết của các
bên tranh chấp. Và do vậy có thể gây thiệt hại cho quốc gia bị hại do thời gian giải
quyết tranh chấp kéo dài. Suy cho cùng, GATT vẫn là tổ chức dựa trên sự đồng
thuận và những biện pháp giải quyết tranh chấp chẳng khác gì gợi ý làm thế nào để
giải quyết tranh chấp nhanh chóng hơn. Do vậy, đây được xem là là nhược điểm lớn
nhất trong cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT.

18
- Thứ tư, việc thực thi phán quyết của Hội đồng GATT dễ bị thất bại vì có vô

số cách mà một nước thành viên có thể ngăn cản việc thực thi phán quyết, không có
một cơ quan đa phương để giám sát việc thực hiện các khuyến nghị và phán quyết
của GATT. Các khuyến nghị của GATT chủ yếu định hướng vào hành vi tương lai
của bên vi phạm mà không có quy định nào về biện pháp bồi thường thiệt hại. GATT
cũng không quy định khoảng thời gian hạn chế để bên vi phạm thi hành phán quyết,
điều này dẫn đến việc thi hành các phán quyết của GATT bị kéo dài nhiều năm.
Vũ khí chủ yếu của GATT để bảo đảm tuân thủ - đó là biện pháp trả đũa.
Nhưng ngay cả biện pháp này cũng rất mơ hồ và hiếm khi được sử dụng, chỉ duy
nhất vụ Hà Lan kiện Mỹ về các biện pháp hạn chế nhập khẩu sữa năm 1952 là được
Hội đồng GATT cho phép áp dụng các biện pháp trả đũa. Đây là lý do làm giảm giá
trị hiệu lực của các phán quyết của GATT trong việc giải quyết tranh chấp.
- Thứ năm, rất khó tìm thấy thành viên đủ năng lực của Ban hội thẩm.
Khoảng một phần năm các nước thành viên của GATT không duy trì đại biểu
thường xuyên của mình tại Giơnevơ, kết quả là họ hiếm khi có được cá nhân có đủ
năng lực để tham dự vào Ban hội thẩm. Thực tế cho thấy, Ban hội thẩm thường né
tránh hơn là đối đầu trực tiếp với khó khăn và những gì mà Ban hội thẩm tìm được
thường không có mấy giá trị trong việc kết thúc tranh chấp. Hơn thế nữa Ban hội
thẩm không phải là một cơ quan thường trực, không hỗ trợ sự phát triển của cơ chế
giải quyết tranh chấp của GATT.
- Thứ sáu, cơ chế giải quyết tranh chấp trong GATT chưa bảo vệ được lợi ích
của các nước đang phát triển và kém phát triển trong quá trình giải quyết tranh
chấp.
- Thứ bảy, việc áp dụng các biện pháp trừng phạt đơn phương ngày càng tăng
khi các yêu cầu cho phép đình chỉ nhượng bộ không được chấp thuận và trên thực tế
tình trạng này đã làm đau đầu Hội đồng GATT.
Tóm lại, hạn chế của cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT là trình tự tố
tụng thường bị kéo dài, dễ bị chi phối bởi các bên tranh chấp và thiếu hiệu quả, đặc
biệt là trong việc thi hành những khuyến nghị và phán quyết. Những hạn chế của cơ

19

chế giải quyết tranh chấp của GATT đã được thảo luận tại Vòng đàm phán Uruguay
và một trong những kết quả của Vòng đàm phán này là sự ra đời của của Tổ chức
thương mại thế giới và cơ chế giải quyết tranh chấp của Tổ chức thương mại thế giới.
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) được thành lập ngày 1/1/1995 theo
Hiệp định Marrakesh thành lập Tổ chức Thương mại thế giới. WTO là một thiết chế
liên Chính phủ quy định cơ sở pháp lý và tổ chức cho việc thực hiện nghĩa vụ điều
chỉnh và thi hành pháp luật thương mại quốc tế của các thành viên. Tổ chức này
được xem là nền tảng cho sự phát triển quan hệ thương mại giữa các quốc gia thông
qua thảo luận, đàm phán và giải quyết các vấn đề có liên quan đến thương mại quốc
tế.
Sau khi kết thúc Vòng đàm phán Uruguay ngày 15/12/1993, các quan chức
cấp Bộ trưởng đại diện cho những nước tham gia đàm phán đã ký kết Văn kiện cuối
cùng tại cuộc họp ở Marrakesh, Marocco ngày 14/4/1994 (Tuyên bố Marrakesh).
Tuyên bố này khẳng định kết quả của Vòng đàm phán Uruguay trong khuôn khổ
của GATT là “tăng cường nền kinh tế thế giới, thúc đẩy phát triển trong các lĩnh
vực thương mại, đầu tư, việc làm và thu nhập trên phạm vi toàn thế giới”. Có thể
nói WTO là tổ chức kế thừa của GATT và là hiện thân các kết quả của vòng đàm
phán Uruguay. Cơ cấu tổ chức và các nguyên tắc của GATT tiếp tục được thể hiện
lại trong các qui định của WTO. Các lĩnh vực trước đây GATT chỉ khuyến cáo đã
được WTO chuyển hoá thành quy định, đó là những lĩnh vực về: các biện pháp đầu
tư liên quan đến thương mại, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, dịch vụ.
Cùng với việc thành lập WTO, thông qua các Hiệp định quan trọng cho việc
thành lập và tổ chức hoạt động của WTO, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
cũng đã được kế thừa và phát triển. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO không
chỉ bao gồm Điều XXII và XXIII của GATT mà còn có cả Thoả thuận về các Quy
tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp - DSU (Dispute Settlement
Understanding). DSU được thông qua và có hiệu lực thi hành từ tháng 12 năm
1996, gồm 27 điều và 4 phụ lục. Ngoài ra, trong các tranh chấp liên quan đến một
số vấn đề thương mại cụ thể, còn có các hiệp định đặc biệt hay bổ sung được quy


20
định tại một số hiệp định liên quan (được liệt kê tại Phụ lục 2 của DSU). Theo Điều
1.2 của DSU thì các quy định đặc biệt hay bổ sung này có giá trị ưu tiên áp dụng
trong trường hợp có sự khác nhau giữa các quy định này với các quy định của DSU.
Tuy nhiên, các quy định của DSU vẫn được coi là xương sống của cơ chế giải quyết
tranh chấp của WTO. DSU quy định các phương pháp, trình tự, thủ tục giải quyết
tranh chấp, bảo đảm tính công bằng, thống nhất, khách quan, đồng thời cũng đưa ra
các biện pháp bảo đảm thi hành các khuyến nghị, phán quyết của cơ quan giải quyết
tranh chấp.
Như vậy, bên cạnh việc kế thừa các giá trị của GATT, WTO đã xây dựng cơ
chế giải quyết tranh chấp mạnh hơn cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT trước
đây. Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO có quyền thành lập Ban hội thẩm,
thông qua báo cáo của Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm, có quyền giám sát thi
hành các khuyến nghị trong các Báo cáo đã được thông qua và có quyền áp đặt các
biện pháp trả đũa nếu một bên không chịu thi hành phán quyết. Phạm vi điều chỉnh
của WTO đã được mở rộng bao gồm hàng loạt các lĩnh vực thương mại như:
thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ, cơ chế rà soát chính sách
thương mại, giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế.
Cơ chế giải quyết tranh chấp WTO ra đời, đưa ra những quy định pháp lý
nhằm bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của các thành viên theo hiệp định có liên quan.
Tuyên bố của WTO nhấn mạnh rằng, việc xúc tiến nhanh chóng công việc giải
quyết tranh chấp là rất quan trọng đối với sự duy trì cân bằng giữa quyền, nghĩa vụ
của các thành viên và hiệu quả hoạt động của WTO. Mục tiêu của cơ chế giải quyết
tranh chấp theo Hiệp định WTO là "bảo đảm có được kết luận đúng cho việc tranh
chấp", vì vậy, việc tìm kiếm cách giải quyết mà hai bên cùng có lợi và có thể chấp
nhận được đồng thời phù hợp với điều khoản của WTO là được khuyến khích. Nếu
không đạt được một giải pháp mà các bên tranh chấp cùng nhất trí, thì cơ chế giải
quyết tranh chấp thường cố gắng thu hồi những biện pháp có liên quan nếu xem xét
những biện pháp này không phù hợp với những quy định trong bất kỳ hiệp định có
liên quan nào.


21
Từ những phân tích trên, có thể hiểu cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
là tổng hợp các quy định pháp lý của WTO về cơ quan giải quyết tranh chấp, các
nguyên tắc giải quyết tranh chấp, các quy định về thủ tục, trình tự giải quyết
tranh chấp và thi hành phán quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp.
Như vậy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO bao gồm các yếu tố sau:
Thứ nhất, Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO để tiến hành xem xét, xử
lý và đưa ra quyết định giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, các nguyên tắc giải quyết tranh chấp của WTO. Đó là những quy
định có tính cơ bản, quan trọng làm cơ sở, căn cứ cho việc đề ra các quy định cụ thể
về giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các nước thành viên của WTO.
Thứ ba, các quy định của WTO về phương pháp, quy trình, thủ tục tiến hành
giải quyết tranh chấp và bảo đảm thi hành phán quyết của cơ quan giải quyết tranh
chấp (những quy định này được ghi nhận trong DSU).
Đồng thời, dựa vào trạng thái vận động của các yếu tố nêu trên, có thể hiểu
cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO gồm yếu tố tĩnh và yếu tố động. Yếu tố tĩnh
bao gồm Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO và các cơ quan trực thuộc như
Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm, các nguyên tắc giải quyết tranh chấp. Yếu tố
động là các quy định về quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp do WTO đề ra, chủ
yếu được quy định trong DSU.
1.2. CƠ QUAN VÀ NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC
THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI
1.2.1. Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO
1.2.1.1. Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB)
Đóng vai trò trung tâm của cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO là Cơ
quan giải quyết tranh chấp (DSB), Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm.
WTO không thành lập một cơ quan giải quyết tranh chấp hoàn toàn độc lập
và tách rời khỏi cơ cấu tổ chức chung của WTO. Điều IV.3 - Hiệp định WTO quy
định về cơ cấu của WTO như sau: "Khi cần thiết Hội đồng chung sẽ được triệu tập

để đảm nhiệm phần trách nhiệm của cơ quan giải quyết tranh chấp được quy định

×