ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***
Nguyễn Thị Hường
Các nước đang phát triển và cơ chế giải
quyết tranh chấp thương mại của WTO
Chuyên ngành : Luật
Mã số : 60 38 60
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Người hướng dẫn: TS. Dương Thị Thanh Mai
HÀ NỘI - 2007
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 3
1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài 3
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4
4. Phƣơng pháp nghiên cứu 5
5. Bố cục của luận văn 5
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƢƠNG MẠI CỦA WTO 6
1.1 Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO – những vấn đề cơ bản 6
1.1.1 Lịch sử hình thành và nền tảng pháp lý 6
1.1.2 Đối tượng và phạm vi áp dụng, các bên tham gia 7
1.1.3 Cơ quan giải quyết tranh chấp 8
1.1.4 Thủ tục giải quyết tranh chấp 10
1.2 Đánh giá chung về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO 15
CHƢƠNG 2. CÁC NƢỚC ĐANG PHÁT TRIỂN TRONG CƠ CHẾ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO – TỪ LÝ THUYẾT ĐẾN THỰC TẾ 21
2.1 Vị thế của các nƣớc đang phát triển trong WTO 21
2.2 Đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nƣớc đang phát triển theo quy định
của DSU . 23
2.2.1 Các ưu đãi chung 23
2.2.2 Đối xử đặc biệt và khác biệt trong các giai đoạn tố tụng 25
2.3 Thực tế giải quyết tranh chấp của WTO liên quan đến các nƣớc đang phát triển 27
2.3.1 Thống kê chung 27
2.3.2 Những tranh chấp liên quan đến Trung Quốc và một số nước ASEAN 30
2.4 Một số vụ kiện điển hình 31
2.4.1 Vụ DS 122: Thái Lan - Thép rầm hình chữ H (Chống bán phá giá) 32
2.4.2 Vụ DS 207: Chilê -Hệ thống đai giá (Nông nghiệp) 39
2.4.3 Vụ DS231: Pê-ru - cá mòi (Các biện pháp thương mại liên quan đến xuất
khẩu) 45
2.4.4 Vụ DS 273: Hàn Quốc – tàu thương mại (Trợ cấp) 48
2.4.5 Vụ DS 309: Trung Quốc - mạch tích hợp (IC) (thuế) 55
2.5 Nhận xét về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO từ góc độ các nƣớc đang
phát triển 56
CHƢƠNG 3. VIỆT NAM VÀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG
MẠI CỦA WTO 64
3.1 Việt Nam trong các tranh chấp thƣơng mại quốc tế trƣớc khi vào WTO 64
3.2 Thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO 69
3.3 Bài học kinh nghiệm về giải quyết tranh chấp theo WTO 76
KẾT LUẬN 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO 83
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DSB
Hội đồng giải quyết tranh chấp
DSU
Thoả thuận về giải quyết tranh chấp
EC/EU
Cộng đồng Châu Âu/Liên minh Châu Âu (sau 11/11/1993)
GATT
Hiệp định chung về thuế quan và thƣơng mại
Hiệp định AD
Hiệp định về Chống bán phá giá
Hiệp định SCM
Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng
Hiệp định TBT
Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật đối với thƣơng mại
WTO
Tổ chức thƣơng mại Thế giới
3
LỜI NÓI ĐẦU
1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
Tổ chức thƣơng mại thế giới với tên gọi tắt quen thuộc bằng tiếng Anh -
WTO là một tổ chức quốc tế mà hoạt động của nó có ảnh hƣởng sâu sắc tới nền
kinh tế toàn cầu. Với số lƣợng thành viên cho đến thời điểm tháng 7 năm 2007
là 151 nƣớc tham gia, WTO xứng đáng là một tổ chức mang tính đại diện rộng
rãi nhất trong lĩnh vực kinh tế, thƣơng mại của thế giới. Thực hiện hai chức năng
cơ bản là tổ chức diễn đàn cho các cuộc đàm phán giữa các thành viên về
thƣơng mại đa biên và hỗ trợ cho việc thực thi các Hiệp định thƣơng mại thông
qua cơ chế giải quyết tranh chấp đa phƣơng, WTO có thể mang lại cho bất kỳ
thành viên nào, dù là quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát triển và kém
phát triển những lợi ích nhất định về kinh tế, thƣơng mại.
Hoạt động của WTO dựa trên nền tảng một hệ thống các quy định, các
cam kết do chính các thành viên xây dựng nên, trong đó, cơ chế giải quyết tranh
chấp đóng vai trò là một bộ phận trụ cột của các cam kết trong WTO, làm nền
tảng cho việc giải quyết các tranh chấp thƣơng mại quốc tế - một trong những
chức năng quan trọng của WTO, góp phần làm ổn định kinh tế thế giới.
Việt Nam, sau những nỗ lực vƣợt bậc đã trở thành thành viên chính thức
của WTO vào ngày 11/1/2007. Trở thành thành viên của WTO cũng đồng nghĩa
với việc Việt Nam, cùng với những thành viên khác trở thành đối tƣợng có khả
năng chịu ảnh hƣởng trực tiếp từ các quy định về giải quyết tranh chấp thƣơng
mại của WTO. Hơn lúc nào hết, tìm hiểu về hệ thống các quy định của WTO nói
chung, các quy định về giải quyết tranh chấp thƣơng mại của WTO nói riêng là
một việc làm cần thiết.
Là một nƣớc đang phát triển, nằm trong nhóm các nƣớc có vị thế yếu hơn
trong WTO, Việt Nam cần phải có những chiến lƣợc và chính sách phù hợp để
chủ động ứng phó với các tranh chấp thƣơng mại quốc tế đang đƣợc xem là có
nguy cơ diễn ra theo chiều hƣớng ngày càng tăng. Những chiến lƣợc và chính
sách này có thể bắt đầu từ việc tìm hiểu về cơ chế giải quyết tranh chấp của
4
WTO. Lợi ích thiết thực từ việc tìm hiểu, nghiên cứu về cơ chế giải quyết tranh
chấp của WTO từ góc độ các nƣớc đang phát triển là giúp cho một nƣớc đang
phát triển nhƣ Việt Nam chủ động trong việc đối phó với những vụ kiện của các
nƣớc thành viên khác theo WTO cũng nhƣ chủ động trong việc quyết định đƣa
các tranh chấp ra giải quyết theo hệ thống của WTO dựa trên sự cân nhắc về các
lợi ích cũng nhƣ bất lợi của hệ thống này đối với quốc gia.
Trên cơ sở những nhận định nêu trên, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài
nghiên cứu và triển khai Luận văn thạc sĩ của mình là “Các nƣớc đang phát triển
và cơ chế giải quyết tranh chấp thƣơng mại của WTO”.
Đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu, nhiều bài viết đề cập đến cơ chế giải
quyết tranh chấp của WTO, trong đó có bao gồm cả những phân tích nhìn nhận
từ góc độ các nƣớc đang phát triển, vì vậy, để tránh lặp lại và phù hợp với điều
kiện thực tế là Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO, trong Luận văn này,
tôi tập trung phân tích về thực tiễn áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO đối với các đang phát triển, đồng thời đi sâu phân tích về những thuận lợi
và khó khăn đối với Việt Nam khi trở thành thành viên của WTO trong việc giải
quyết các tranh chấp thƣơng mại quốc tế theo cơ chế của tổ chức này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn là đƣa ra những nhận
định chính xác, khoa học và thực tiễn về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
nhằm làm nổi bật đƣợc những thuận lợi và khó khăn đối với một nƣớc đang phát
triển, đặc biệt là đối với Việt Nam khi tham gia vào cơ chế này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Phục vụ cho mục đích nêu trên, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của
Luận văn là các cam kết, các quy định của WTO về giải quyết tranh chấp
thƣơng mại quốc tế với nền tảng là các quy định có liên quan của GATT 1947,
các vụ kiện mang tính điển hình đối với các nƣớc đang phát triển.
5
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài, tôi đã sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp nghiên cứu:
thống kê, phân tích - tổng hợp, phƣơng pháp diễn giải-quy nạp, phƣơng pháp đối
chiếu - so sánh và phƣơng pháp mô tả - khái quát, đặc biệt là phƣơng pháp
nghiên cứu theo trƣờng hợp điển hình (case study). Việc tiếp cận và xử lý các
trƣờng hợp điển hình về giải quyết tranh chấp thƣơng mại của WTO đƣợc lựa
chọn phù hợp từ góc độ các nƣớc đang phát triển giúp ngƣời viết rút ra đƣợc
những nhận định khách quan, xác thực theo đúng mục đích nghiên cứu đã đề ra.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm ba chƣơng chính nhƣ sau:
Chƣơng 1 – Tổng quan về cơ chế giải quyết tranh chấp thƣơng mại của
WTO
Chƣơng 2 – Các nƣớc đang phát triển trong cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO - từ lý thuyết đến thực tế
Chƣơng 3 – Việt Nam và cơ chế giải quyết tranh chấp thƣơng mại của
WTO
Do thời gian và sự hiểu biết còn có hạn chế nên Luận văn không tránh
khỏi những thiếu sót nhất định, tôi rất mong nhận đƣợc ý kiến đóng góp của các
Thầy giáo, Cô giáo và các học giả đi trƣớc để hoàn thiện thêm nghiên cứu của
mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Dƣơng Thị Thanh Mai đã tận tình
hƣớng dẫn tôi hoàn thành Luận văn này.
6
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƢƠNG MẠI CỦA WTO
1.1 Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO – những vấn đề cơ bản
1.1.1 Lịch sử hình thành và nền tảng pháp lý
Cơ chế giải quyết tranh chấp WTO đƣợc hình thành trên nền tảng pháp lý
là Thoả thuận về quy tắc và thủ tục điều chỉnh về giải quyết tranh chấp, thƣờng
đƣợc gọi là Thoả thuận về giải quyết tranh chấp (viết tắt là DSU- Dispute
Settlement Understanding), một trong những kết quả chính của diễn đàn WTO
tại vòng đàm phán Uruguay.
Cùng với các Hiệp định đa phƣơng chuyên ngành khác có quy định về
việc giải quyết tranh chấp thƣơng mại phát sinh trong việc thực thi các Hiệp
định của WTO (các “Hiệp định có liên quan”), DSU là một phần của Hiệp định
Marrakesh về việc thành lập WTO ("Hiệp định WTO") - Phụ lục 2 [2]. DSU có
lịch sử hình thành và phát triển trên cơ sở các điều khoản về tham vấn và giải
quyết tranh chấp quy định tại Điều XXII, XXIII của Hiệp định chung về thuế
quan và thƣơng mại (GATT) 1947. Nội dung của DSU bao gồm 27 điều và 4
Phụ lục quy định về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh các tranh chấp phát sinh
trên cơ sở các Hiệp định của WTO. Điều II:2 của Hiệp định WTO quy định:
“DSU là một phần không thể tách rời của Hiệp định này, ràng buộc tất cả các
nƣớc thành viên”. DSU đóng vai trò là một nhân tố trung tâm trong việc tạo ra
sự an toàn và khả năng dự đoán trƣớc cho hệ thống thƣơng mại đa phƣơng (đảm
bảo an ninh và tính đoán định của hệ thống thƣơng mại đa biên WTO), có chức
năng "bảo toàn các quyền và nghĩa vụ của các thành viên theo các Hiệp định có
liên quan và làm rõ những điều khoản hiện hành của những Hiệp định đó trên cơ
sở phù hợp với các quy tắc tập quán giải thích công pháp quốc tế"[12].
Mục tiêu của DSU là đảm bảo duy trì một hệ thống dựa trên cơ sở các quy
định pháp luật, đáng tin cậy, hiệu quả và nhanh chóng nhằm giải quyết các tranh
chấp liên quan đến việc thực thi các quy định của Hiệp định WTO (đƣợc hiểu là
bao gồm Hiệp định Marrakesh về việc thành lập WTO ngày 14/4/1994, DSU và
7
tất cả các Hiệp định có liên quan). Bằng việc tăng cƣờng nguyên tắc pháp quyền,
các quy định về giải quyết tranh chấp trong DSU giúp cho hệ thống thƣơng mại
đa phƣơng trở nên an toàn hơn và có khả năng dự đoán trƣớc.
1.1.2 Đối tƣợng và phạm vi áp dụng, các bên tham gia
Chủ thể của cơ chế giải quyết tranh chấp là các quốc gia thành viên của
WTO. Tranh chấp thuộc đối tƣợng điều chỉnh của DSU là các tranh chấp phát
sinh trong quan hệ thƣơng mại giữa các quốc gia thành viên WTO với nhau chứ
không phải là tranh chấp giữa các chủ thể là cá nhân công dân hoặc tổ chức
mang quốc tịch của các nƣớc thành viên WTO mặc dù họ chính là những đối
tƣợng trực tiếp thực hiện các giao dịch thƣơng mại quốc tế. Các quốc gia thành
viên của WTO là chủ thể duy nhất có thể tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp
WTO. Ban thƣ ký của WTO, các nƣớc chƣa phải là thành viên WTO, các tổ
chức quốc tế khác, các chính quyền địa phƣơng và khu vực, các cá nhân, pháp
nhân của mỗi quốc gia thành viên đều không đƣợc tham gia khởi kiện theo thủ
tục giải quyết tranh chấp WTO. Để đảm bảo quyền tham gia vào hệ thống này,
các quốc gia thành viên thƣờng quy định trong pháp luật nƣớc mình cho phép
các chủ thể là cá nhân, pháp nhân - những đối tƣợng chịu ảnh hƣởng trực tiếp
(với tƣ cách là những ngƣời xuất khẩu, nhập khẩu) bởi các hành vi đƣợc cho là
vi phạm Hiệp định WTO có thể đệ đơn lên Chính phủ của họ đề nghị đƣa tranh
chấp ra WTO.
Tranh chấp thuộc đối tƣợng điều chỉnh của cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO xuất hiện khi một nƣớc thành viên WTO cho rằng một nƣớc thành
viên khác đã vi phạm các quy định của WTO làm ảnh hƣởng đến lợi ích của họ
hoặc ảnh hƣởng đến việc thực hiện các mục tiêu của các cam kết WTO. Hành vi
vi phạm của một nƣớc thành viên có thể là việc không thực hiện nghĩa vụ đã
cam kết, hoặc việc áp dụng bất kỳ biện pháp nào bất kể biện pháp đó có vi phạm
quy định của Hiệp định hay không, hoặc việc tồn tại của bất kỳ tình huống nào
khác gây ra hậu quả nêu trên. Theo đó, nếu một nƣớc thành viên cho rằng nƣớc
thành viên khác không thực hiện nghĩa vụ hoặc cam kết theo Hiệp định thì có
8
thể áp dụng DSU để giải quyết. Nếu cơ quan giải quyết tranh chấp cho rằng
hành vi đó là nghiêm trọng thì cơ quan giải quyết tranh chấp có thể cho phép
thành viên bị vi phạm tạm hoãn thi hành nghĩa vụ hoặc cam kết đối với bên kia
phù hợp với các quy định của WTO. Nhƣ vậy, một nƣớc thành viên có thể viện
dẫn đến DSU để giải quyết tranh chấp khi cho rằng bên kia không thực hiện
nghĩa vụ hoặc cam kết theo Hiệp định mà không cần xem xét đến lợi ích có
đƣợc một cách trực tiếp hoặc gián tiếp theo Hiệp định có bị vô hiệu hay suy
giảm hay không.
1.1.3 Cơ quan giải quyết tranh chấp
Các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong WTO bao gồm:
Hội đồng giải quyết tranh chấp (viết tắt là DSB – Dispute Settlement Body), các
Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm thƣờng trực, Ban thƣ ký WTO, các trọng tài,
các chuyên gia độc lập và một số tổ chức chuyên môn.
Trong đó, DSB là cơ quan cao nhất, bao gồm đại diện của tất cả các thành
viên WTO chịu trách nhiệm quản lý thực hiện và áp dụng các quy định của DSU
thông qua việc giám sát toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp. DSB có thẩm
quyền thành lập Ban hội thẩm, thông qua các báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ
quan phúc thẩm, duy trì giám sát việc thực hiện các phán quyết và khuyến nghị,
cho phép tạm đình chỉ việc áp dụng các Hiệp định có liên quan đối với một nƣớc
thành viên, cho phép áp dụng các biện pháp trừng phạt.
Ban hội thẩm (theo Điều 8 DSU), đƣợc thành lập cho từng vụ việc cụ thể
gồm có ba hội thẩm viên hoặc trƣờng hợp đặc biệt có thể có năm hội thẩm viên
là những chuyên gia đƣơc tuyển chọn từ danh sách các cá nhân thuộc tổ chức
chính phủ, phi chính phủ có năng lực và độc lập chịu trách nhiệm xét xử các
tranh chấp giữa các thành viên thông qua việc rà soát các dữ liệu thực tế và các
lập luận do các bên tranh chấp trình lên. Nhiệm vụ của Ban hội thẩm là xem xét
các khía cạnh về tình tiết và pháp lý của vụ kiện để lập báo cáo có kết luân về vụ
việc trình lên DSB. Nếu đƣợc DSB thông qua thì Báo cáo của Ban hội thẩm
9
đƣợc xem nhƣ là phán quyết của DSB về vụ khiếu kiện và có giá trị ràng buộc
thi hành đối với các bên.
Để đảm bảo cho Ban hội thẩm có thể làm việc một cách linh hoạt, hiệu
quả và nhanh chóng, DSU quy định cụ thể về thời gian cho từng giai đoạn tố
tụng cũng nhƣ thời gian làm việc cụ thể của Ban hội thẩm nhằm tránh tình trạng
trì trệ trong giải quyết tranh chấp có thể làm ảnh hƣởng đến lợi ích của các bên.
Một thời gian biểu chi tiết cho lịch làm việc của Ban hội thẩm đƣợc quy định
trong Phụ lục 3 mục 12 của DSU. Trong quá trình xem xét vụ việc, Ban hội
thẩm có quyền tìm kiếm thông tin từ mọi nguồn và trƣng cầu ý kiến giám định
của các chuyên gia bên ngoài về những vấn đề kỹ thuật.
Cơ quan phúc thẩm là một cơ quan thƣờng trực của WTO gồm 7 thành
viên là những ngƣời có uy tín đƣợc công nhận, có kinh nghiệm chuyên môn đã
đƣợc chứng minh về pháp luật, thƣơng mại quốc tế và những nội dung của các
Hiệp định có liên quan nói chung. Cơ quan phúc thẩm có nhiệm vụ rà soát
kháng cáo về các vấn đề luật đã đƣợc Ban hội thẩm giải quyết. Cơ quan phúc
thẩm cũng có một ban thƣ ký để hỗ trợ về hành chính và pháp lý. Ban thƣ ký
này hoàn toàn tách biệt với Ban thƣ ký của WTO ngoại trừ các liên hệ về hành
chính.
Tổng Giám đốc WTO có vai trò hỗ trợ thiện chí, hòa giải hoặc trung
gian, bổ nhiệm Hội thẩm viên, bổ nhiệm trọng tài.
Ban Thƣ ký WTO đóng một vai trò quan trọng trong cơ chế giải quyết
tranh chấp của WTO, chịu trách nhiệm trợ giúp về mặt thủ tục, lịch sử, pháp lý
cho Ban hội thẩm. Một trong những vai trò đặc biệt quan trọng của Ban thƣ ký
WTO là ghi nhớ các vụ việc để tạo ra sự liên tục và nhất quán giữa các Ban hội
thẩm qua các vụ việc đƣợc giải quyết. Nhờ vai trò này của Ban Thƣ ký, DSU có
thể đảm bảo đƣợc mục tiêu là tạo ra sự an toàn và khả năng dự đoán trƣớc đối
với hệ thống thƣơng mại đa biên. Do đƣợc thƣờng xuyên cọ sát trong các vụ giải
quyết tranh chấp, Ban thƣ ký đã tích luỹ đƣợc chuyên môn thậm chí chuyên sâu
hơn thành viên Ban hội thẩm [12].
10
1.1.4 Thủ tục giải quyết tranh chấp
Thủ tục giải quyết tranh chấp thông thƣờng gồm ba bƣớc chính là (i) tham
vấn giữa các bên; (ii) quá trình xét xử của Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm
(nếu có); và (iii) thực thi các phán quyết, bao gồm cả áp dụng biện pháp trả đũa
trong trƣờng hợp bên thua kiện không thực thi phán quyết.
1.1.4.1 Tham vấn
Tham vấn là thủ tục bắt buộc đầu tiên phải tiến hành đối với mỗi tranh
chấp đƣợc giải quyết theo DSU (Điều 4 DSU). Cũng nhƣ dƣới thời GATT, cơ
chế giải quyết tranh chấp của WTO dựa trên mục đích chính là nhằm bảo vệ các
quyền và nghĩa vụ của các thành viên theo các quy định của Hiệp định WTO, ƣu
tiên giải quyết tranh chấp theo cách thức phù hợp với các quy định của Hiệp
định WTO (Điều 3.7 DSU). Theo đó, tham vấn là việc các bên tranh chấp tiến
hành đàm phán với nhau để đƣa ra một thoả thuận thống nhất về giải quyết tranh
chấp. Mục đích của tham vấn là tạo điều kiện để các bên chủ động tìm kiếm
mang tính xây dựng một giải pháp thoả đáng cho các bên, nhanh chóng giải
quyết đƣợc tranh chấp mà không phải tranh tụng. Giải pháp đƣợc thoả thuận
trong giai đoạn này phải phù hợp với các quy định trong các Hiệp định có liên
quan, không làm vô hiệu hoặc suy giảm lợi ích thành viên hay cản trở việc đạt
đƣợc mục tiêu của Hiệp định WTO. Thời hạn tối đa của quá trình tham vấn là 60
ngày. Chỉ sau khi thủ tục tham vấn bắt buộc này không mang lại đƣợc một giải
pháp thoả đáng cho các bên trong thời hạn trên thì bên khiếu kiện mới có thể đề
nghị tiến hành quy trình xét xử của Ban hội thẩm.
Theo quy trình này, đề nghị tham vấn đƣợc coi nhƣ là việc chính thức đƣa
một tranh chấp ra WTO và khởi động quá trình giải quyết tranh chấp theo các
quy định của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Theo quy định tại Điều 4.4
DSU, thành viên khiếu kiện đƣa ra đề nghị tham vấn với thành viên bị kiện đồng
thời thông báo đề nghị này với DSB, các Hội đồng và Uỷ ban giám sát Hiệp
định liên quan. Một đề nghị tham vấn phải đƣợc đệ trình bằng văn bản và phải
11
đƣa ra đƣợc các lý do đề nghị, xác định các vấn đề gây tranh cãi và chỉ ra các cơ
sở pháp lý của bên khiếu kiện.
Trừ trƣờng hợp có các thỏa thuận khác, bên bị khiếu kiện phải trả lời đề
nghị tham vấn trong vòng 10 ngày và phải tiến hành tham vấn với thiện chí
trong khoảng thời gian không quá 30 ngày sau ngày nhận đƣợc đề nghị tham
vấn. Nếu bên bị khiếu kiện không đáp ứng thời hạn trên, bên khiếu kiện ngay lập
tức có thể tiến hành các bƣớc để có thể xét xử giải quyết tranh chấp và đề nghị
thành lập một Ban hội thẩm (Điều 4.3 của DSU). Ngay cả trong trƣờng hợp bên
bị khiếu kiện cam kết tham vấn thì bên khiếu kiện vẫn có thể tiến hành đề nghị
thành lập một Ban hội thẩm trong khoảng thời gian sớm nhất là 60 ngày kể từ
ngày nhận đƣợc đề nghị tham vấn, với điều kiện là vẫn chƣa tìm đƣợc một giải
pháp thỏa đáng nào trong quá trình tham vấn. Tuy nhiên, bƣớc tham vấn có thể
kết thúc sớm hơn nếu các bên cũng cân nhắc thấy rằng các cuộc tham vấn không
giải quyết đƣợc tranh chấp (Điều 4.7 của DSU). Trong thực tế, các tranh chấp
thƣờng cho phép các bên có một khoảng thời gian đáng kể dài hơn mức tối thiểu
là 60 ngày. Trong trƣờng hợp khẩn cấp bao gồm các vấn đề liên quan tới hàng
hóa dễ hƣ hỏng, các thành viên phải tham gia vào tham vấn trong khoảng thời
gian không quá 10 ngày sau ngày nhận đƣợc đề nghị tham vấn. Nếu các cuộc
tham vấn không giải quyết đƣợc tranh chấp trong khoảng thời gian 20 ngày kể
từ ngày nhận đƣợc đề nghị thì bên khiếu kiện có thể đề nghị thành lập một Ban
hội thẩm (Điều 4.8 của DSU). Một thành viên của WTO không phải là bên
khiếu kiện, không phải là bên bị khiếu kiện có thể quan tâm đến vấn đề mà các
bên tranh chấp đang thảo luận trong các cuộc tham vấn của họ. Trong trƣờng
hợp đó, thành viên nói trên đƣợc coi là bên thứ ba trong các cuộc tham vấn.
Thành viên đó có thể đề nghị tham gia các cuộc tham vấn nếu thấy lợi ích của họ
bị tác động bởi các cuộc tham vấn này.
Với mục tiêu xuyên suốt là giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng,
hiệu quả, tránh sự đối đầu giữa các thành viên, DSU cho phép các bên tranh
chấp có thể áp dụng các phƣơng thức trung gian, hòa giải hoặc môi giới vào bất
12
kỳ thời điểm nào trong quá trình giải quyết tranh chấp. Việc sử dụng các biện
pháp này là hoàn toàn do các bên tự nguyện, có thể bắt đầu hoặc chấm dứt bất
kỳ lúc nào, đƣợc tiến hành không công khai nhằm đảm bảo tính bí mật đồng thời
không làm ảnh hƣởng đến các bƣớc tố tụng khác. Thông thƣờng, Tổng Giám
đốc WTO, với khả năng và thẩm quyền của mình, sẽ đứng ra làm trung gian,
hòa giải. Ngoài môi giới, trung gian, hoà giải, các thành viên WTO có thể thỏa
thuận sử dụng trọng tài nhƣ một phƣơng thức thay thế để giải quyết tranh chấp.
Trong trƣờng hợp đó, các bên tranh chấp có thể xác định vấn đề và thủ tục cần
tuân thủ. Thoả thuận sử dụng trọng tài phải đƣợc thông báo nhanh chóng cho tất
cả các thành viên để đảm bảo việc tham dự thích đáng vào quá trình phân xử
trọng tài. Mọi phán quyết trọng tài khi đó đều có hiệu lực thông qua DSB và
chế tài WTO có thể đƣợc áp dụng nếu có bên không tuân thủ phán quyết.
1.1.4.2 Quy trình Ban hội thẩm và Xét xử phúc thẩm
Nếu việc tham vấn không mang lại đƣợc một giải pháp thỏa đáng cho các
bên tranh chấp và do đó tranh chấp không đƣợc giải quyết trong vòng 60 ngày
(hoặc 20 ngày trong những trƣờng hợp khẩn cấp), bên khiếu kiện có thể yêu cầu
lập Ban hội thẩm. Ban hội thẩm phải đƣợc thành lập chậm nhất là tại cuộc họp
của DSB tiếp theo cuộc họp mà tại đó yêu cầu này lần đầu tiên đƣợc đƣa ra nhƣ
một mục của chƣơng trình nghị sự DSB trừ khi có quyết định đồng thuận không
thành lập Ban hội thẩm. Các bên tranh chấp sẽ có 20 ngày để thống nhất lựa
chọn hội thẩm viên; nếu họ không nhất trí, Tổng Giám đốc sẽ chỉ định hội thẩm
viên. Công dân các nƣớc tham gia tranh chấp (kể cả công dân của cùng một liên
minh thuế quan hoặc thị trƣờng chung) không đƣợc làm hội thẩm viên. Các bên
tranh chấp cũng có 20 ngày kể từ khi thành lập Ban hội thẩm để thống nhất "quy
chế làm việc" của Ban hội thẩm; nếu không, quy chế làm việc chuẩn sẽ đƣợc áp
dụng. Trƣờng hợp có nhiều thành viên cùng đề nghị lập Ban hội thẩm và một vụ
tranh chấp liên quan đến quyền lợi của nhiều thành viên, một Ban hội thẩm có
thể xem xét tranh chấp của nhiều bên khiếu nại, và các bên thứ ba có quyền lợi
cũng có quyền đƣợc trình bày với Ban hội thẩm.
13
Ban hội thẩm làm việc theo một thời gian biểu chặt chẽ đƣợc quy định cụ
thể tại Phụ lục 3 của DSU, thông thƣờng không quá 6 tháng (3 tháng trong
trƣờng hợp khẩn cấp). Ban hội thẩm sẽ xem xét các giải trình bằng văn bản cũng
nhƣ họp để nghe trình bày của các bên tranh chấp và các bên thứ ba. Ban hội
thẩm có thể tìm kiếm thông tin và tƣ vấn kỹ thuật từ các nguồn thích hợp hoặc
có thể yêu cầu báo cáo tƣ vấn của Nhóm Rà soát Chuyên môn để lập dự thảo
báo cáo. Dự thảo báo cáo sẽ đƣợc gửi cho các bên tranh chấp lấy ý kiến. Sau khi
các bên có ý kiến, Ban hội thẩm chuẩn bị một báo cáo tạm thời gồm có các số
liệu, trích dẫn điều luật. Báo cáo tạm thời đƣợc gửi cho các bên và các bên có
thể yêu cầu triệu tập cuộc họp với Ban hội thẩm để thảo luận các vấn đề nêu ra.
Tại giai đoạn cuối của quá trình rà soát tạm thời, Ban hội thẩm soạn ra một báo
cáo cuối cùng và gửi đến DSB. DSB có thể xem xét báo cáo 20 ngày sau khi báo
cáo đƣợc gửi đến các thành viên. Nếu có điểm không đồng tình, các bên phải
nêu ra ít nhất 10 ngày trƣớc phiên họp của DSB để xem xét báo cáo của Ban hội
thẩm. Trong vòng 60 ngày sau ngày chuyển báo cáo đến các bên, DSB phải
thông qua trừ khi một bên tranh chấp chính thức thông báo cho DSB về quyết
định kháng nghị của mình hoặc DSB quyết định trên cơ sở đồng thuận không
thông qua báo cáo này.
Các bên tranh chấp (không tính các bên thứ ba) có thể kháng nghị báo cáo
của Ban hội thẩm lên một Cơ quan Phúc thẩm gồm 7 thành viên đƣợc lập ra để
tiếp nhận kháng nghị. Cơ quan Phúc thẩm chia thành nhóm 3 ngƣời. Các thành
viên Cơ quan Phúc thẩm đƣợc bổ nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm và không đƣợc liên
quan tới bất kỳ chính phủ nào. Cơ quan Phúc thẩm có quyền ủng hộ, sửa đổi
hoặc bác bỏ những diễn giải pháp lý của Ban hội thẩm. Nói chung, quá trình
kháng nghị phải hoàn thành trong vòng 60 ngày kể từ ngày một bên tranh chấp
chính thức thông báo quyết định kháng nghị của mình. Khi Cơ quan Phúc thẩm
thấy mình không thể đƣa ra báo cáo trong vòng 60 ngày thì phải thông báo cho
DSB bằng văn bản lý do trì hoãn cùng với một khoảng thời gian dự kiến phải
trình báo cáo nhƣng không vƣợt quá 90 ngày trong mọi trƣờng hợp. Trong vòng
14
30 ngày sau khi báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm đƣợc gửi cho các thành viên,
báo cáo này phải đƣợc DSB thông qua và "đƣợc các bên tranh chấp chấp nhận
không điều kiện", trừ khi DSB đồng thuận không thông qua báo cáo.
Nhƣ vậy, trừ khi các bên tranh chấp có thoả thuận khác, thời hạn tính từ
ngày DSB thành lập Ban hội thẩm đến ngày DSB xem xét báo cáo của Ban hội
thẩm hoặc của Cơ quan Phúc thẩm để thông qua là không quá 9 tháng (nếu báo
cáo của Ban hội thẩm không bị kháng cáo) hoặc 12 tháng (nếu báo cáo bị kháng
cáo). Các báo cáo về việc xét xử vụ kiện một khi đã đƣợc DSB thông qua sẽ có
giá trị pháp lý ràng buộc các bên tranh chấp và các bên tranh chấp có nghĩa vụ
thực thi các phán quyết.
1.1.4.3 Thực thi phán quyết
Sau khi DSB thông qua các báo cáo về việc xét xử vụ kiện (báo cáo của
Ban hội thẩm hoặc Cơ quan xét xử phúc thẩm trong trƣờng hợp kháng nghị),
trong vòng 30 ngày, bên thua kiện phải thông báo cho DSB về dự định thực hiện
các khuyến nghị và phán quyết của DSB. Bên thua kiện có nghĩa vụ tuân thủ các
khuyến nghị và phán xử của DSB trong một khoảng "thời gian hợp lý". Khoảng
“thời gian hợp lý” đƣợc xác định tại Điều 21.3 của DSU theo một trong ba
phƣơng pháp sau: (i) Khoảng thời gian do DSB định ra theo đề nghị của thành
viên có liên quan; (ii ) Khoảng thời gian do các bên tranh chấp thống nhất; và
(iii) Khoảng thời gian do trọng tài xác định trong vòng 90 ngày sau khi thông
qua báo cáo. Trong trƣờng hợp này, thời gian đề xuất sẽ không quá 15 tháng kể
từ ngày thông qua báo cáo nhƣng có thể ngắn hơn hoặc dài hơn tùy theo hoàn
cảnh.
Nếu các khuyến nghị và phán xử của DSB không đƣợc thực hiện trong
khoảng thời gian hợp lý, có hai chế tài có thể áp dụng: bồi thƣờng và trả đũa
(hay ngừng ƣu đãi). Cả hai lệnh trừng phạt đều tạm thời. Không có trừng phạt
nào đƣợc coi là sự thay thế cho việc thực thi một khuyến nghị hay một quy định
của các Hiệp định WTO. Trong trƣờng hợp thành viên vi phạm quy định của
WTO không có các biện pháp sửa chữa theo nhƣ quyết định của DSB, DSB có
15
thể ủy quyền cho thành viên đi kiện áp dụng các “biện pháp trả đũa” (trừng phạt
thƣơng mại). Những biện pháp nhƣ vậy có ý nghĩa rất lớn khi chúng đƣợc áp
dụng bởi một thành viên có tiềm lực kinh tế mạnh nhƣ Mỹ hay Liên minh châu
Âu. Ngƣợc lại, ý nghĩa của chúng giảm đi nhiều khi thành viên đi kiện có tiềm
lực kinh tế yếu trong khi thành viên vi phạm có tiềm lực kinh tế mạnh hơn.
1.2 Đánh giá chung về cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
Đƣợc hình thành và phát triển trên nền tảng các quy định về giải quyết
tranh chấp của GATT, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đã có những thay
đổi tích cực góp phần nâng cao hiệu lực và tác dụng của cơ chế này với mục
đích giải quyết ổn thoả các tranh chấp thƣơng mại quốc tế, duy trì ổn định và
phát triển hệ thống thƣơng mại đa phƣơng theo Hiệp định WTO. Ngoài việc tiếp
tục kế thừa những ƣu điểm của phƣơng thức giải quyết tranh chấp theo GATT
nhƣ cân bằng quyền và nghĩa vụ, giải quyết tích cực các tranh chấp, cấm đơn
phƣơng áp dụng các biện pháp trả đũa khi chƣa đƣợc phép, cơ chế giải quyết
tranh chấp của WTO đã có những thay đổi tích cực, mang lại những hiệu quả to
lớn trong quá trình giải quyết tranh chấp thƣơng mại giữa các nƣớc thành viên
WTO. Bên cạnh những thay đổi hết sức quan trọng, tạo bƣớc đột phá cho cơ
chế giải quyết tranh chấp của WTO nhƣ áp dụng nguyên tắc đồng thuận phủ
quyết, rút gọn thời gian, đẩy nhanh tiến độ giải quyết tranh chấp, bổ sung thủ tục
kháng cáo và xét xử phúc thẩm và cho phép mở rộng lĩnh vực trả đũa, so với
GATT, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, nhìn chung về tổng thể mang
tính hệ thống thống nhất và tính pháp lý cao hơn. Tính hệ thống thống nhất của
cơ chế giải quyết tranh chấp thể hiện trƣớc hết bởi nền tảng pháp lý của cơ chế
là DSU với các quy định toàn diện và nhất quán về đối tƣợng, phạm vi áp dụng,
cơ quan giải quyết tranh chấp, trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp. Sự thống
nhất này của DSU cho phép các nƣớc thành viên có quyền tiến hành khiếu nại
bất kỳ nƣớc thành viên nào vi phạm bất cứ một Hiệp định có liên quan nào
thuộc diện điều chỉnh của DSU. Khi có sự khác nhau giữa các quy tắc và thủ tục
của DSU và các quy tắc, thủ tục trong các Hiệp định riêng biệt có liên quan, thì
16
các quy tắc và thủ tục đặc biệt sẽ đƣợc ƣu tiên áp dụng. Bên cạnh đó, tính thống
nhất của cơ chế thể hiện qua cơ quan giải quyết tranh chấp đứng đầu là DSB,
qua trình tự thống nhất hai cấp xét xử. Tính pháp lý của cơ chế giải quyết tranh
chấp của WTO cũng đƣợc thể hiện ở việc các cơ quan có quyền ra phán quyết
trong việc giải quyết tranh chấp gồm những thành viên độc lập và chỉ dựa vào
các quy tắc đã đƣơc thỏa thuận trƣớc đó, các quy trình tố tụng từ bƣớc thành lập
Ban hội thẩm, thông qua báo cáo Ban hội thẩm, báo cáo Cơ quan phúc thẩm hầu
nhƣ mang tính tự động, không một quốc gia thành viên nào có thể cản trở quá
trình này theo ý chí chủ quan của mình. Ngoài ra, cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO, với mục tiêu ƣu tiên là khuyến khích các bên tranh chấp tìm kiếm
đƣợc biện pháp thích hợp, thỏa đáng, tránh đối đầu nhằm nhanh chóng giải
quyết tranh chấp vẫn duy trì quy định cho phép tiến hành song song thủ tục đàm
phán thƣơng lƣợng (môi giới, trung gian, hòa giải) vào bất kỳ thời điểm nào
trong quá trình tố tụng. Điều này giúp cho cơ chế hoạt động có hiệu quả hơn,
phù hợp với mục đích đảm bảo an toàn cho hệ thống thƣơng mại đa phƣơng.
Với những thay đổi tích cực nêu trên, mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhất
định, các quy định của DSU đã thể hiện đƣợc mục tiêu đặt ra đó là ngăn cản chủ
nghĩa đơn phƣơng trong giải quyết tranh chấp thƣơng mại quốc tế, tạo lập và
duy trì một hành lang pháp lý phù hợp để giải quyết tranh chấp phát sinh từ đó
giúp cho việc bảo đảm một sân chơi bình đẳng cho các quốc gia thành viên. Về
thực tế, hiệu quả của việc áp dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp WTO đƣợc
thể hiện qua số lƣợng các vụ khiếu kiện đƣợc thông báo tới WTO, số lƣợng các
vụ việc đã giải quyết và việc thi hành các phán quyết. Tuy nhiên, kết quả đánh
giá chỉ dựa vào thông báo của các bên gửi tới WTO. Kết quả giải quyết tranh
chấp cũng đƣợc coi là thành công khi WTO không tìm thấy những sai sót của
bên bị khiếu kiện và không đòi hỏi hành động nào của WTO [3].
Về số lƣợng, theo số liệu thống kê của WTO, từ ngày 1/1/1995 đến ngày
12/7/2007, trong hơn 10 năm, tổng số các vụ khiếu kiện thông báo tới WTO là
366 vụ, trong đó, có 31 vụ đang giải quyết, 102 báo cáo đã đƣợc thông qua, các
17
vụ tranh chấp đã đƣợc giải quyết hoặc không đƣa ra là 30 vụ và tổng số giải
pháp theo phƣơng thức đa biên là 58 vụ. Nhƣ vậy, chỉ trong hơn 10 năm, số
lƣợng các vụ tranh chấp đƣợc đƣa ra giải quyết theo WTO đã cao hơn hẳn so với
tổng số 344 vụ tranh chấp đã đƣợc giải quyết trong suốt gần 50 năm tồn tại của
GATT. Số lƣợng các vụ kiện đƣợc đƣa ra đạt đỉnh cao vào những năm 97, 98
sau đó giảm dần và đến nay trung bình khoảng trên dƣới 20 vụ mỗi năm. Tổng
số vụ tranh chấp đƣợc giải quyết theo cơ chế của WTO đƣợc thống kê trong
bảng sau (xem Bảng 1)
BẢNG 1- TỔNG SỐ VỤ TRANH CHẤP GIẢI QUYẾT THEO CƠ CHẾ
CỦA WTO ( TỪ NĂM 1995 ĐẾN NGÀY 12/7/2007)
Năm
„95
„96
„97
„98
„99
2K
01
02
03
04
05
06
7/07
Tổng
Số
vụ
25
39
50
41
30
34
23
37
26
19
12
20
10
366
Nguồn:
Về sự tham gia của các nƣớc thành viên, trong tổng số 366 vụ tranh chấp
đƣợc đƣa ra giải quyết theo cơ chế của WTO, các nƣớc phát triển tham gia với
tƣ cách là nguyên đơn trong 235 vụ chiếm 60%, các nƣớc đang phát triển khiếu
kiện trong khoảng 140 vụ, chiếm gần 30% . Với tƣ cách là bị đơn, các nƣớc phát
triển bị kiện trong 236 vụ chiếm khoảng 63% còn các nƣớc đang phát triển bị
kiện trong 135 vụ tƣơng ứng với 37%. Trong số các vụ tranh chấp đƣợc đƣa ra
giải quyết theo cơ chế của WTO, các nƣớc phát triển chiếm gần 2/3 cả về tổng
số lần bị kiện cũng nhƣ đi kiện và tập trung chủ yếu vào hai trung tâm kinh tế
lớn là Mỹ (82 vụ là nguyên đơn, 106 vụ là bị đơn) và Liên minh Châu Âu (72 vụ
là nguyên đơn, 67 vụ là bị đơn). Các nƣớc đang phát triển tham gia vào cơ chế
này chủ yếu tập trung vào một số nƣớc nhƣ Braxin 35 vụ (22 vụ là nguyên đơn
và 13 vụ là bị đơn), Ấn Độ 34 vụ (17 vụ là nguyên đơn và 17 vụ là bị đơn),
Mêxicô 30 vụ (16 vụ là nguyên đơn và 14 vụ là bị đơn) Các nƣớc đang phát
triển khác tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO còn hạn chế
khoảng gần 40% số vụ tranh chấp có bên khiếu kiện là các nƣớc đang phát triển.
18
Sự tham gia của từng nhóm nƣớc trong các vụ kiện đƣợc đƣa ra giải quyết theo
cơ chế của WTO đƣợc thể hiện trong bảng sau (Xem Bảng 2).
BẢNG 2 - SỐ VỤ TRANH CHẤP ĐƢA RA WTO THEO NHÓM NƢỚC
(TỪ 1995 ĐẾN NGÀY 12/7/2007)
Tƣ cách
Nƣớc
Nguyên đơn
Bị đơn
Số vụ
Tỷ lệ (%)
Số vụ
Tỷ lệ (%)
Các nƣớc đang phát triển
131
32%
140
37%
Các nƣớc phát triển
235
68%
226
63%
Tổng số
366
100%
366
100%
Nguồn:
Về tính chất, các tranh chấp đƣợc đƣa ra giải quyết theo WTO nhiều nhất
là các tranh chấp liên quan đến việc thực thi Hiệp định về thƣơng mại hàng hoá,
Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM), Hiệp định về nông
nghiệp và Hiệp định về chống bán phá giá (AD). Trong số các vụ tranh chấp,
cũng có một số trƣờng hợp nội dung tranh chấp không nằm trong phạm vi điều
chỉnh của Hiệp định WTO và do đó, Ban hội thẩm sau khi xem xét đã không thể
đƣa ra kết luận phán quyết.
Về chất lƣợng giải quyết tranh chấp, nhiều tranh chấp đã đƣợc giải quyết
ổn thoả ngay trong giai đoạn tham vấn, chiếm đến gần 50% trong tổng số các vụ
tranh chấp. Đối với các trƣờng hợp phải giải quyết thông qua Ban hội thẩm/Cơ
quan phúc thẩm thì các báo cáo phán quyết của Ban hội thẩm, Cơ quan phúc
thẩm đƣợc DSB thông qua ngày càng mang tính minh bạch và nhất quán hơn.
Nhiều vụ kiện phức tạp đã đƣợc giải quyết và mặc dù nhiều vụ việc còn bị trì
hoãn do những nguyên nhân nhất định song đã có những vụ việc đƣợc giải quyết
một cách nhanh chóng trong khoảng thời gian tƣơng đối ngắn (13-15 tháng).
Ngoài ra, các báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm cũng đã thể hiện
đƣợc vai trò trong việc làm rõ hơn các quyền và nghĩa vụ của các thành viên
trong các Hiệp định có liên quan đƣợc viện dẫn. Tỷ lệ Báo cáo của Ban hội thẩm
bị kháng cáo đƣợc thể hiện trong đồ thị sau:
19
ĐỒ THỊ 1: TỶ LỆ BÁO CÁO CỦA BAN HỘI THẨM BỊ KHÁNG CÁO
(1996-2005)
Nguồn:
Những số liệu trên cho thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đã tạo
đƣợc niềm tin ít nhất là đủ để các nƣớc thành viên sẵn sàng viện dẫn và áp dụng
cơ chế này trong giải quyết tranh chấp thƣơng mại. Có thể nói, những thay đổi
tích cực về cơ cấu và thủ tục của cơ chế giải quyết tranh chấp từ GATT đến
WTO đã đem lại hiệu lực và hiệu quả áp dụng các quy tắc trong giải quyết tranh
chấp. Những thay đổi này đang vẫn đƣợc tiếp tục thể hiện trong vòng đàm phán
Doha. Tại vòng đàm phán này có sự bổ sung những vấn đề mới, nhƣ nông
nghiệp, dịch vụ, các biện pháp đầu tƣ liên quan đến thƣơng mại và quyền sở hữu
trí tuệ mà cho đến nay, khoảng một phần ba các tranh chấp liên quan đến những
vấn đề “mới” này. Việc mở rộng quyền lực pháp lý của hệ thống thƣơng mại đa
phƣơng đã ảnh hƣởng đáng kể đến tính hiệu quả của thủ tục giải quyết tranh
chấp. Do dó các bên cũng đã nhất trí về việc đàm phán các cải tiến và làm rõ
DSU tại vòng đàm phán Doha. Mặc dù vậy, đến nay các kết quả đạt đƣợc cũng
chƣa rõ ràng.
Nhƣ vậy, trên cơ sở kế thừa những ƣu điểm và rút kinh nghiệm từ những
hạn chế của cơ chế giải quyết tranh chấp theo GATT, WTO đã xây dựng và duy
20
trì một cơ chế giải quyết tranh chấp thƣơng mại quốc tế mang nhiều ƣu điểm
hơn, một hệ thống mang tính định hƣớng quy tắc, xóa bỏ chủ nghĩa đơn phƣơng
và đảm bảo việc giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả, tin cậy hơn. Thực tế,
những thay đổi tích cực của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đã giúp cho
WTO thực hiện đƣợc chức năng của mình là giải quyết ổn thoả các tranh chấp,
đạt mục tiêu tạo ra một sân chơi công bằng hơn cho các quốc gia thành viên.
Quá trình giải quyết tranh chấp của WTO từ khi thành lập đến nay cho thấy bản
thân cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO đã trở thành một trong những định
chế có quyền lực nhất thế giới. Nhận định này đƣợc minh chứng bằng việc ngay
cả những siêu cƣờng quốc nhƣ Mỹ và EU cũng phải chấp nhận đƣa các tranh
chấp của họ ra giải quyết theo cơ chế của WTO và chấp nhận thực hiện các phán
quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp, một điều mà ngay cả Tòa án công lý
quốc tế của Liên hợp quốc không phải lúc nào cũng thực hiện đƣợc [11].
21
CHƢƠNG 2. CÁC NƢỚC ĐANG PHÁT TRIỂN TRONG CƠ CHẾ GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP CỦA WTO – TỪ LÝ THUYẾT ĐẾN THỰC TẾ
2.1 Vị thế của các nƣớc đang phát triển trong WTO
WTO không đƣa ra một định nghĩa cụ thể thế nào là một nƣớc đang phát
triển mà vị thế này do chính bản thân các nƣớc tự tuyên bố. Mặc dù chiếm đại
đa số trong WTO – 2/3 trong tổng số thành viên của WTO, thành viên là các
nƣớc đang phát triển vẫn luôn ở vị thế yếu so với các nƣớc công nghiệp phát
triển. Trƣớc đây, trong GATT, các nƣớc đang phát triển là một nhóm nƣớc có sự
phối hợp yếu ớt và chỉ đóng một vai trò rất nhỏ [14]. Khi đó, do không nhìn
nhận GATT nhƣ là một thể chế qua đó giúp họ các thể đạt đƣợc những lợi ích
trong thƣơng mại quốc tế, các nƣớc này không có sự tham gia năng động vào
các cuộc đàm phán và định hình các chƣơng trình nghị sự. Kết quả là, nhiều lợi
ích chính đáng của họ đã bị bỏ qua. Cho đến tận khi diễn ra vòng đàm phán
Uruguay, các nƣớc đang phát triển mới nhận thấy đƣợc những tiềm năng và nhu
cầu cần phải bảo vệ lợi ích của mình trong các tiến trình đàm phán đa phƣơng và
bắt đầu tham gia tích cực vào các tiến trình đó. Những kết quả của vòng đàm
phán Uruguay đã mang lại những lợi ích thực sự cho các nƣớc đang phát triển
trong WTO. Mặc dù vậy, do ở vị thế thấp kém hơn trong mối quan hệ với các
nƣớc phát triển, các nƣớc đang phát triển chỉ đƣợc hƣởng những kết quả của
vòng đàm phán Uruguay một cách hết sức hạn chế. Cho đến nay, sức mạnh đàm
phán trong WTO cũng vẫn luôn nghiêng về các quốc gia công nghiệp phát triển.
Nguyên nhân đặt các nƣớc đang phát triển vào vị thế bất lợi trong WTO
có nhiều, trong đó phải kể đến những nguyên nhân điển hình nhƣ: Thứ nhất, do
trình độ phát triển thấp nên cho các nƣớc đang phát triển không thể khởi xƣớng
và định hình các chƣơng trình nghị sự cũng nhƣ tham gia tích cực vào các cuộc
đàm phán; Thứ hai, sự khan hiếm các nguồn lực về con ngƣời và kỹ thuật của
các nƣớc nghèo đã ảnh hƣởng bất lợi tới vị thế của họ trong WTO dẫn đến tình
trạng bị động của họ trong các cuộc đàm phán (hiện tại, hơn 20 nƣớc kém phát
triển không có đại diện tại Geneva, mặc dầu có khoảng từ 40 đến 50 cuộc họp
22
của WTO diễn ra tại đó mỗi năm); Thứ ba, các nƣớc đang phát triển thƣờng im
lặng trong nhiều trƣờng hợp trong đó lợi ích chính đáng của họ bị xâm phạm, do
thiếu tinh thông về pháp luật WTO và không có khả năng theo đuổi các cuộc
tranh chấp tốn kém, kéo dài và nhiều sức ép chính trị theo cơ chế giải quyết
tranh chấp của WTO. Nguyên nhân cuối cùng, các cƣờng quốc lớn thƣờng tự coi
mình là những ngƣời chỉ huy hệ thống thƣơng mại thế giới, coi thƣờng vai trò
của các nƣớc đang phát triển. Các nƣớc giàu đã tạo ra một sân chơi không bình
đẳng bằng việc đƣa ra những Hiệp định có lợi cho bản thân họ mà không tính
đến các yêu cầu phát triển của các quốc gia nghèo hơn. Khoảng cách phát triển
giữa các nƣớc giàu và nghèo ngày càng rộng cũng làm yếu đi vị thế của các nền
kinh tế đang phát triển trong WTO [15].
Mặc dù vậy, sức mạnh của các nƣớc đang phát triển đã đang ngày càng
đƣợc tăng cƣờng và vị thế của nhóm nƣớc này trong WTO đã dần đƣợc cải thiện.
Điều này đƣợc thể hiện thông qua việc ngày càng có nhiều nƣớc đang phát triển
trở thành những đối tác quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Vòng đàm phán
Doha với các vấn đề quan trọng liên quan đến lợi ích của các nƣớc đang phát
triển nhƣ tự do hoá thƣơng mại trong nông nghiệp và hàng dệt may, mặc dù tiến
triển rất chậm song đã cho thấy vai trò ngày càng tăng của các quốc gia đang
phát triển trong việc xây dựng chƣơng trình nghị sự đàm phán. Trong vòng
Uruguay cũng nhƣ trong các cuộc đàm phán gần đây của WTO, nhiều nƣớc
đang phát triển đã trở thành các bên tham gia tích cực. Họ đã thể hiện sự quyết
tâm trong việc thúc đẩy những đề xuất của mình và kiềm chế những mối đe doạ
đối với lợi ích của họ. Thực tế là các nƣớc đang phát triển chiếm số đông trong
WTO nên tiếng nói của họ sẽ không dễ dàng bị bỏ qua nếu họ biết đoàn kết lại.
Bên cạnh đó, sự gia nhập WTO của Trung Quốc, một quốc gia đang phát triển
có tiềm lực mạnh mẽ tại khu vực Châu Á cũng đem lại một động lực lớn khiến
tiếng nói của các nƣớc đang phát triển có trọng lƣợng hơn. Hiện nay, ngày càng
nhiều quốc gia nghèo sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để bảo vệ
lợi ích của mình và chủ động đƣa ra các đề nghị nhằm cải cách các quá trình của
23
WTO. Ví dụ, Jamaica đã đề xuất sáng kiến cho phép bên thứ ba quyền tranh
tụng và tham gia đầy đủ vào quá trình xét xử.
Cũng giống nhƣ tất cả các Hiệp định khác của WTO, DSU có các quy
định dành riêng cho các nƣớc đang phát triển và các nƣớc kém phát triển trong
quá trình giải quyết các tranh chấp thƣơng mại quốc tế. Đó là những quy định
mang tính ƣu đãi nhằm đảm bảo một cơ chế bình đẳng hơn cho các nƣớc ở vị
thế yếu hơn thông qua những đối xử đặc biệt và khác biệt.
2.2 Đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nƣớc đang phát triển theo
quy định của DSU
Thừa nhận điều kiện đặc biệt do vị thế yếu hơn của các nƣớc thành viên
đang phát triển và kém phát triển trong WTO, DSU đã dành những quy định đối
xử đặc biệt và khác biệt cho nhóm các nƣớc này trong quá trình giải quyết tranh
chấp. Tuy nhiên, đối xử đặc biệt và khác biệt mang tính ƣu đãi ở đây không phải
là giảm nhẹ nghĩa vụ hoặc làm tăng các quyền về mặt nội dung mà là những đối
xử đặc biệt và khác biệt về mặt thời hạn, về hạn chế những biện pháp có thể ảnh
hƣởng đến lợi ích kinh tế của các nƣớc thành viên đang phát triển và những ƣu
đãi về hỗ trợ, tƣ vấn pháp lý. Những ƣu đãi dành cho các nƣớc đang phát triển
đƣợc quy định tại các Điều 3.12, 4.10, 8.10, 12.10, 12.11, 21.2, 21.7, 21.8, 24 và
27.2 của DSU.
2.2.1 Các ƣu đãi chung
Điều 3.12 DSU quy định cho phép nƣớc thành viên đang phát triển khởi
kiện chống lại một nƣớc thành viên phát triển có thể áp dụng thủ tục giải quyết
tranh chấp đƣợc Đại hội đồng GATT thông qua theo Quyết định ngày 5/4/1966
(BISD 14S/18). Theo Quyết định này, thời hạn giải quyết vụ việc của Ban hội
thẩm ngắn hơn rất nhiều so với quy trình thông thƣờng mà DSU quy định. Khi
áp dụng trình tự theo quyết định này, Ban hội thẩm phải đệ trình báo cáo của
mình trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận đƣợc yêu cầu giải quyết tranh chấp,
trừ trƣờng hợp Ban hội thẩm cho rằng thời hạn theo quy định tại Quyết định nêu
24
trên không đủ để đƣa ra phán quyết và đƣợc sự đồng ý của nguyên đơn là nƣớc
đang phát triển, thời hạn trên mới có thể kéo dài.
Theo quy định tại Điều 12.11 của DSU, trong trƣờng hợp khi một bên
hoặc nhiều bên trong tranh chấp là nƣớc đang phát triển thì trong Báo cáo của
Ban hội thẩm sẽ chỉ ra một cách rõ ràng hình thức xem xét các điều khoản đãi
ngộ đặc biệt và khác biệt cho các nƣớc thành viên đang phát triển nhƣ là một
phần của những Hiệp định có liên quan và đƣợc các nƣớc đang phát triển nêu
lên trong quá trình giải quyết tranh chấp. Nội dung quy định này nghĩa là bất cứ
khi nào các nƣớc thành viên đang phát triển cũng có quyền viện dẫn đến những
quy định về đối xử đặt biệt và khác biệt trong các Hiệp định có liên quan của
WTO trƣớc Ban hội thẩm và khi đó, Ban hội thẩm phải chỉ ra rõ ràng trong báo
cáo của mình về việc xem xét đến các điều khoản đó.
Điều 24.1 DSU quy định điều kiện đặc biệt liên quan đến những thành
viên kém phát triển. Theo đó, tình hình đặc biệt của các nƣớc thành viên kém
phát triển cần đƣợc lƣu ý đặc biệt trong tất cả các giai đoạn xác định nguyên
nhân của một vụ tranh chấp và xác định thủ tục giải quyết tranh chấp. Các thành
viên đƣợc khuyến nghị cần kiềm chế một cách thích hợp việc khởi kiện theo các
thủ tục giải quyết tranh chấp, kiềm chế yêu cầu bồi thƣờng hoặc xin phép tạm
hoãn thi hành các nhƣợng bộ hoặc những nghĩa vụ khác theo những thủ tục quy
định trong DSU. Trong những trƣờng hợp giải quyết tranh chấp có liên quan đến
thành viên kém phát triển, nếu không đạt đƣợc một giải pháp thoả đáng trong
quá trình tham vấn, Tổng Giám đốc hoặc Chủ tich DSB phải, theo yêu cầu của
nƣớc thành viên kém phát triển, đƣa ra sáng kiến làm môi giới, trung gian và
hoà giải để giúp các bên giải quyết tranh chấp trƣớc khi có yêu cầu thành lập
Ban hội thẩm.
Ngoài ra, ƣu đãi dành cho các nƣớc thành viên đang phát triển còn đƣợc
thể hiện trong quy định tại Điều 27.2 của DSU về trách nhiệm của Ban thƣ ký
WTO. Theo đó, khi Ban thƣ ký giúp các thành viên về giải quyết tranh chấp
theo yêu cầu của họ thì cũng cần cung cấp thêm tƣ vấn pháp lý và hỗ trợ về giải