Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Hoàn thiện pháp luật về thủ tục hải quan trong quá trình thực hiện Công ước Kyoto sửa đổi về đơn giản và hài hòa thủ tục hải quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 86 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







NGUYỄN HỒNG HẠNH




HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC HẢI QUAN TRONG
QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÔNG ƢỚC KYOTO SỬA ĐỔI VỀ ĐƠN
GIẢN VÀ HÀI HÒA THỦ TỤC HẢI QUAN






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC











Hà Nội - 2009


2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






NGUYỄN HỒNG HẠNH



HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC HẢI QUAN TRONG QUÁ
TRÌNH THỰC HIỆN CÔNG ƢỚC KYOTO SỬA ĐỔI VỀ ĐƠN GIẢN
VÀ HÀI HÒA THỦ TỤC HẢI QUAN



Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60.38.60





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Lan Nguyên






Hà Nội - 2009


3

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thực sự bắt đầu cùng với sự
nghiệp đổi mới được Đại hội Đảng lần thứ VI khởi xướng. Đây là quá trình
từng bước tiến hành tự do hoá các hoạt động kinh tế, mở cửa thị trường và
tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam đã lần lượt
tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế như: Hiệp hội các
nước Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương (APEC), Tổ chức thương mại thế giới (WTO)…Việt Nam từng bước
tháo gỡ những trói buộc và cản trở đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh,
xây dựng cơ chế kinh tế mới dựa trên những nguyên tắc của thị trường có

định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này có nghĩa sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động, giảm và đi đến xoá bỏ các hàng rào thuế
quan, phi quan thuế và các rào cản khác để việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ,
công nghệ giữa Việt Nam và các nước phù hợp với những quy định của các
tổ chức kinh tế mà Việt Nam tham gia.
Hoà chung với xu thế hội nhập của đất nước, Hải quan Việt Nam đã gia
nhập Tổ chức hải quan thế giới (WCO), từng bước đẩy mạnh cải cách thủ tục
Hải quan, hiện đại hoá hoạt động của mình nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới
của nền kinh tế, phục vụ tốt cho phát triển xuất nhập khẩu, đầu tư, du lịch
Công ước Kyoto sửa đổi về đơn giản và hài hoà thủ tục hải quan đã có
hiệu lực từ ngày 03/02/2006. Việc thực hiện Công ước sửa đổi sẽ mở rộng
phạm vi việc đơn giản hoá và hài hoà hoá các thủ tục hải quan hiện tại nhằm

4
hoàn thiện hơn nữa các hoạt động hải quan, đóng góp tích cực vào nỗ lực tạo
thuận lợi cho thương mại toàn cầu.
Ngày 08/3/2008, Nghị định thư sửa đổi Công ước Kyoto chính thức có
hiệu lực đối với Việt Nam sau ba tháng kể từ ngày lưu chiểu văn kiện gia
nhập. Theo quy định của Công ước, Việt Nam sẽ có 3 năm để thực hiện đầy
đủ các Chuẩn mực của Công ước và 5 năm để thực hiện các Chuẩn mực
chuyển tiếp. Mặc dù có 3 - 5 năm để nội luật hóa các quy định của Công ước
và để chuẩn bị cơ sở hạ tầng cho việc tuân thủ Công ước nhưng công việc
trước mắt của Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan và các bộ, ngành là rất lớn.
Tác giả chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về thủ tục hải quan trong
quá trình thực hiện Công ước Kyoto sửa đổi về đơn giản và hài hoà thủ tục
hải quan” làm đề tài luận văn thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu
Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu về pháp luật hải quan tương
đối phong phú như luận án luật học “Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về hải

quan ở nước ta hiện nay” của tiến sĩ Vũ Ngọc Anh, luận án luật học “Nghiên
cứu, so sánh pháp luật Việt Nam và Trung Quốc về hiện đại hóa hải quan”
của tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sơn, luận án kinh tế “Tiếp tục cải cách hiện đại hóa
hải quan Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế” của tiến sĩ
Nguyễn Ngọc Túc, hay một số bài nghiên cứu trên Tạp chí Luật học, một số
chuyên đề giảng dạy môn thủ tục hải quan của Tổng cục Hải quan có đề cập
đến pháp luật về thủ tục hải quan nhưng ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên,
công trình nghiên cứu này sẽ tập trung đề cập đến thủ tục hải quan trong quá
trình thực hiện Công ước Kyoto sửa đổi về đơn giản và hài hoà thủ tục hải
quan mà Việt Nam vừa ký kết nhằm:

5
- Đưa ra, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về thủ
tục hải quan;
- Đề xuất hướng hoàn thiện, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục
hải quan trong quá trình thực hiện Công ước Kyoto sửa đổi.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
Luận văn có mục đích làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục
hải quan trước yêu cầu đổi mới và hoàn thiện các quy định pháp luật hiện
hành về thủ tục hải quan tại Việt Nam. Đánh giá thực trạng áp dụng trong
những năm qua, chỉ ra những khiếm khuyết, tồn tại, đồng thời đối chiếu với
các cam kết trong Công ước Kyoto sửa đổi về đơn giản và hài hoà thủ tục hải
quan. Từ đó đưa ra phương hướng, biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
hải quan trong quá trình thực hiện Công ước Kyoto sửa đổi.
Để thực hiện những mục đích đó luận văn có nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu, phân tích và làm rõ những quy định của pháp luật Việt
Nam về thủ tục hải quan.
- Đối chiếu, so sánh với quy định trong Công ước Kyoto sửa đổi về đơn
giản và hài hoà thủ tục hải quan nhằm đánh giá đầy đủ, chính xác pháp luật

Việt Nam trong lĩnh vực này.
- Thông qua việc nghiên cứu nhằm chỉ ra những bất cập, vướng mắc
trong quá trình áp dụng pháp luật về thủ tục hải quan tại Việt Nam từ đó đề
xuất phương hướng hoàn thiện.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của một luận văn cao học và với tất cả khả năng cho
phép, người viết cố gắng nghiên cứu một cách tổng quát về những vấn đề cơ

6
bản liên quan tới thủ tục hải quan được quy định trong Luật Hải quan và các
văn bản hướng dẫn thi hành trong những năm qua ở Việt Nam.
Pháp luật về thủ tục hải quan là một lĩnh vực có phạm vi rộng, điều
chỉnh các khâu nghiệp vụ hải quan như khai hải quan, kiểm tra hải quan, giám
sát hải quan, xác định trị giá tính thuế, quy trình thu thuế, kiểm tra sau thông
quan… đối với phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh và nhiều loại hình
hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu khác nhau. Trong khuôn khổ của một luận văn
cao học, với thời gian và khả năng nghiên cứu còn hạn chế, người viết luận
văn xin chủ yếu tập trung vào nghiên cứu pháp luật về thủ tục hải quan đối
với loại hình xuất nhập khẩu phổ biến, điển hình đó là hàng hoá xuất nhập
khẩu theo hợp đồng thương mại.
Bên cạnh đó, luận văn tập trung nghiên cứu những quy định của Công
ước Kyoto sửa đổi và trong quá trình thực hiện Công ước này tại Việt Nam
trên các phương diện sau:
- Nội luật hoá các chuẩn mức của Công ước Kyoto sửa đổi;
- Yêu cầu đối với việc rà soát, đối chiếu các quy định của pháp luật hải
quan với Công ước Kyoto sửa đổi về đơn giản, hài hòa hóa thủ tục hải quan.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt
Nam, pháp luật của nhà nước, chính sách của nhà nước về xây dựng nhà nước
pháp quyền.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên
cứu của triết học Mác – Lênin và kết hợp với các phương pháp như: phương

7
pháp tổng hợp, so sánh, phân tích, thống kê và đối chiếu đề giải quyết những
vấn đề đã được xác định trong đề tài.

6. Những điểm mới của luận văn
Đây là công trình khoa học nghiên cứu tương đối đầy đủ và hệ thống
các quy định của pháp luật hải quan trong quá trình thực hiện Công ước
Kyoto sửa đổi về đơn giản, hài hoà hoá thủ tục hải quan. Về mặt lý luận, luận
văn là công trình đầu tiên nghiên cứu tương đối, đầy đủ, toàn diện về các quy
định của pháp luật hải quan với mục đính đưa ra các lý giải mang tính lý luận
nhằm hoàn thiện pháp luật hải quan trong quá trình thực hiện Công ước Kyoto
sửa đổi. Về mặt thực tiễn, luận văn đưa ra những đề xuất cụ thể nhằm góp
phần từng bước hoàn thiện pháp luật về thủ tục hải quan.
Do vậy, với kết quả đạt được, luận văn sẽ góp phần giải quyết một số
vấn đề về mặt lý luận và thực tiễn lý của pháp luật về thủ tục hải quan, góp
phần hoàn thiện những nội dung cơ bản nhất của pháp luật về thủ tục hải quan
trong quá trình thực hiện Công ước Kyoto sửa đổi.

7. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 03 chương, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo.
Chương I. Một số vấn đề lý luận về thủ tục hải quan
Chương II. Pháp luật về thủ tục hải quan tại Việt Nam và Công ước
Kyoto sửa đổi về đơn giản và hài hòa thủ tục hải quan

Chương III. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về thủ tục hải quan tại
Việt Nam trong quá trình thực hiện Công ước Kyoto sửa đổi.



8

CHƢƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC HẢI QUAN

1.1. Thủ tục hải quan và pháp luật về thủ tục hải quan
1.1.1. Khái niệm thủ tục hải quan
Để có thể hiểu rõ về thủ tục hải quan, chúng ta cần xem xét sự xuất
hiện của hoạt động hải quan trong lịch sử thế giới và bản chất của hải quan.
Tiền đề kinh tế của việc xuất hiện các loại thuế hải quan cũng như các
cơ quan thu thuế là sự phát sinh ra sản xuất hàng hoá - sản xuất ra các sản
phẩm với mục đích để trao đổi. Cùng với nền sản xuất hàng hoá đã xuất hiện
thương nghiệp và sự xuất hiện của những người chỉ làm công việc trao đổi
hàng hoá, đó chính là thương gia. Sự xuất hiện của tầng lớp thương gia đã tạo
ra các quan hệ thương mại vượt ra khỏi phạm vi của các địa bàn gần nhất mà
việc thực hiện nó phụ thuộc vào các phương tiện giao thông hiện có, vào tình
trạng an toàn xã hội và vào các nhu cầu ít hay nhiều tuỳ thuộc vào mức độ
phát triển tại các vùng mà các quan hệ đó có thể tới được. Thương mại dần
vượt ra khỏi giới hạn một vùng, quốc gia, châu lục.
Việc di chuyển của các thương đoàn thường là không an toàn, do vậy
duy trì một đội ngũ bảo vệ khá tốn kém đối với thương nhân là một gánh nặng
và không phải khi nào cũng hiệu quả, vì vậy thay vào đó người ta đã chi một
loại thuế đặc biệt - tiền thân của thuế hải quan. Thuế hải quan phát sinh từ các
khoản thu mà các lãnh chúa phong kiến thu của thương nhân đi qua lãnh địa
của họ, để bằng cách đó họ được bảo đảm an toàn, thoát khỏi việc bị cướp

bóc, các khoản thu này về sau cũng được thu bởi các thành phố và khi xuất
hiện các nhà nước hiện đại thì chúng trở thành phương tiện thuận tiện nhất để
thu tiền cho ngân khố.

9
Các điều kiện chính trị của việc xuất hiện chính sách hải quan là xã hội
phân chia thành các giai cấp và hình thành các quốc gia độc lập. Bên cạnh
thuế và các khoản thu khác, thuế hải quan đóng góp quan trọng vào việc củng
cố địa vị thống trị giai cấp bóc lột từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội tư
bản, do mục đích chính của các loại thuế này là vấn đề tài chính, tức là tiền
thu về cho ngân khố.
Có thể nói hoạt động hải quan ban đầu phát triển nhất ở Hy Lạp cổ đại
một phần do đặc điểm của đất nước này không có nhiều đất đai màu mỡ, hơn
nữa lại bị bao bọc bởi biển cả nên đa số dân chúng sống nhờ vào buôn bán.
Từ đầu thế kỷ VI trước công nguyên, người Aten đã nhập lúa mỳ từ Ai Cập,
Xixil và sau đó là vùng Hắc Hải. Ngay từ thời đó, Hy Lạp cổ đại đã áp dụng
chính sách ưu đãi thuế quan đối với các thuộc địa của mình ở ven bờ Hắc Hải,
tại đây suốt một thời kỳ dài không đánh thuế xuất nhập khẩu đối với hàng hoá
xuất đi hoặc nhập về từ Hy Lạp.
Hoạt động hải quan cũng diễn ra sôi động ở nhiều nước khác. Ở Ai Cập
cổ đại thế kỷ IV trước công nguyên, chính quyền quy định nghiêm ngặt việc
chở lương thực đến Alecsandria và xuất đi các sản phẩm của các thợ thủ công
Ai Cập. Việc làm thủ tục hải quan và thu thuế hải quan được tiến hành tại các
trạm hải quan ở Alecsandria, Peluxi… thậm chí có cả một trạm hải quan ở
trong nội địa tại Hermopol.
Việc các quốc gia Châu Âu và Châu Á chuyển từ chế độ chiếm hữu nô
lệ sang chế độ phong kiến diễn ra trong một quá trình lâu dài, không giống
nhau và không đồng thời nên quá trình phát triển chính sách thuế quan vào
thời kỳ trung cổ cũng rất phức tạp và mâu thuẫn. Mặc dù vẫn là một phương
tiện quan trọng để tăng thu cho ngân khố, thuế hải quan đã trở thành một công

cụ mềm dẻo để điều chỉnh thương mại.

10
Luật lệ hải quan thời kỳ này phản ánh xu hướng chính quyền các thành
phố trung cổ ngày càng tìm cách dùng biện pháp thuế quan để ngăn chặn sự
tràn ngập của hàng hoá nước ngoài. Quy chế thành phố Parma năm 1211 quy
định tất cả đồ len dạ, vải vóc chở vào thành phố sẽ bị tịch thu và đốt hết.
Xu hướng mở rộng các quan hệ kinh tế giữa các thành phố và các quốc
gia bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ XII và XIII. Trong chính sách thuế quan củng
cố xu hướng tạo ra một hệ thống thuế quan chung trên biên giới phía ngoài
của quốc gia. Tuy nhiên, quá trình thống nhất hoá luật lệ hải quan ở các quốc
gia diễn ra trong một thời gian khá dài. Trong thời kỳ này các quốc gia can
thiệp rất tích cực vào ngoại thương, đặt ra các luật lệ thúc đẩy việc tích luỹ
tiền tệ cho ngân khố. Hàng hoá chỉ được đi qua một điểm nhất định. Theo quy
chế Henry thế kỷ XV ở nước Anh, các nhân viên hải quan phải theo dõi
nghiêm ngặt để không cho người nước ngoài mang tiền ra khỏi lãnh thổ.
Nói chung, luật lệ hải quan thời kỳ này hầu như chỉ mang tính chất tài
chính và thuế được đánh cả vào hàng nhập cũng như hàng xuất. Ở nước Pháp,
luật thuế quan năm 1664 gồm 700 điều quy định đối với việc nhập khẩu hàng
hoá và 900 điều đối với việc xuất khẩu hàng cho thấy luật lệ hải quan thời kỳ
này được quy định rất chi tiết.
Từ cuối thế kỷ XVII xuất hiện chủ nghĩa bảo hộ, nhiều đạo luật được
thông qua để hạn chế việc nhập khẩu hàng hoá của các nước khác và khuyến
khích việc xuất hàng hoá nội địa. Năm 1650 nước Anh ban hành luật cấm
người nước ngoài buôn bán tại các thuộc địa của Anh nếu không được Chính
phủ Anh cho phép [43, tr.7-9].
Quá trình hình thành, phát triển của hoạt động hải quan trên thế giới, có
thể thấy lịch sử hình thành của hoạt động hải quan gắn liền với việc thực hiện
thủ tục hải quan để kiểm tra, kiểm soát hàng hoá được đưa ra hay đưa vào
lãnh thổ quốc gia và chính sách hải quan của các nhà nước, vùng lãnh thổ


11
được đặt ra rất sớm nhằm phục vụ yêu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia, cộng đồng.
Đến nay, bên cạnh các chức năng truyền thống trong việc tiến hành thủ tục
hải quan như kiểm tra hàng hoá, thu thuế, cơ quan hải quan các nước nói
chung còn thực hiện nhiệm vụ khác như kiểm soát phương tiện vận tải xuất
nhập cảnh, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới, chống khủng bố, bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng, bảo đảm tuân thủ các quy định về tiêu chuẩn kỹ
thuật, vệ sinh, môi trường…
Theo pháp luật Việt Nam thì thủ tục hải quan bao gồm tất cả các công
việc cần thực hiện để thông quan cho hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, phương
tiện vận tải xuất nhập cảnh. Theo đó, thủ tục hải quan bao gồm: khai hải quan,
kiểm tra, giám sát hải quan, thu thuế và quản lý thuế. Mặc dù khoản 6 Điều 4
Luật Hải quan năm 2001 quy định chưa thật cụ thể: “Thủ tục hải quan là các
công việc mà người khai hải quan và công chức hải quan phải thực hiện theo
quy định của Luật này đối với hàng hoá, phương tiện vận tải” [4, tr.35]
nhưng Thông tư số 79/2009/TT-BTC ngày 20/4/2009 của Bộ Tài chính thì đã
hướng dẫn bao quát các vấn đề về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải
quan; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và quản lý thuế đối với hàng hoá xuất
khẩu, nhập khẩu.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về thủ tục hải quan: Thủ tục hải quan
là công việc mà người khai hải quan (chủ hàng hoá, chủ phương tiện vận tải
hoặc người được chủ hàng hoá, chủ phương tiện vận tải uỷ quyền) và công
chức hải quan thực hiện theo quy định của pháp luật đối với hàng hoá xuất
khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá
cảnh.





12
1.1.2. Đặc trƣng của pháp luật về thủ tục hải quan
Như trên đã phân tích, thủ tục hải quan là các công việc mà người khai
hải quan và công chức hải quan phải thực hiện theo quy định của pháp luật
hải quan đối với hàng hoá, phương tiện vận tải. Do đó, pháp luật về thủ tục
hải quan điều chỉnh tất cả các hoạt động của cơ quan hải quan và bên có liên
quan bao gồm người khai hải quan, người vận chuyển hàng hóa, đại lý làm
thủ tục hải quan…thực hiện trong quá trình làm thủ tục hải quan cho hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu. Pháp luật về thủ tục hải quan bao gồm các nhóm chính:
- Quy định về khai hải quan bao gồm các quy định về thời điểm, địa
điểm đăng ký hồ sơ hải quan, các giấy tờ thuộc bộ hồ sơ hải quan, hiệu lực
của tờ khai hải quan và các quy định khác tuỳ thuộc vào sự phát triển của
pháp luật hải quan như sử dụng tờ khai tạm (tờ lược khai), đăng ký tờ khai hải
quan một lần…
- Quy định về kiểm tra hải quan bao gồm các quy định về cách thức
kiểm tra hồ sơ hải quan, trách nhiệm của người khai hải quan trong việc xuất
trình hàng hoá để tiến hành kiểm tra thực tế và các quy định về kiểm tra thực
tế hàng hoá như tỷ lệ kiểm tra thực tế, kiểm tra tên hàng, mã số hàng hoá,
kiểm tra về lượng hàng hoá, kiểm tra về chất lượng hàng hoá, việc lưu mẫu
hàng hoá
- Quy định về giám sát hải quan bao gồm các quy định về đối tượng
chịu sự giám sát hải quan và phương thức giám sát hải quan.
- Quy định về xác định trị giá hải quan và tổ chức thu thuế bao gồm các
quy định về việc kê khai thuế, xác định trị giá hải quan và các quy định liên
quan đến thủ tục thực hiện thu, nộp thuế, miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế.
- Quy định về kiểm tra sau thông quan bao gồm các quy định về hoạt
động kiểm tra của cơ quan hải quan nhằm thẩm định tính chính xác, trung
thực nội dung các chứng từ mà chủ hàng, người được chủ hàng uỷ quyền, tổ

13

chức, cá nhân trực tiếp xuất khẩu, nhập khẩu đã khai, nộp, xuất trình với cơ
quan hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đã được thông quan;
đồng thời nhằm thẩm định việc tuân thủ pháp luật trong quá trình làm thủ tục
hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
Do vậy, pháp luật về thủ tục hải quan có những đặc điểm sau đây:
1.1.2.1. Pháp luật về thủ tục hải quan điều chỉnh các quan hệ xã hội
hình thành trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan.
- Yếu tố chủ thể:
Khi đề cập đến yếu tố chủ thể của các quan hệ xã hội hình thành trong
quá trình thực hiện thủ tục hải quan, có hai loại chủ thể:
+ Thứ nhất: Người khai hải quan, người vận chuyển hàng hóa, đại lý
làm thủ tục hải quan…khi tham gia quá trình làm thủ tục hải quan phải có
quyền năng chủ thể tức là có năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Năng
lực pháp luật và năng lực hành vi là những thuộc tính của chủ thể pháp luật, là
đặc trưng không thể thiếu của chủ thể pháp luật. Vấn đề năng lực pháp luật và
năng lực hành vi ở đây trước hết được xác định trên cơ sở các quy định của
pháp luật dân sự Việt Nam.
+ Thứ hai: Công chức hải quan là chủ thể quan trọng của quan hệ xã
hội hình thành trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan
Pháp luật hải quan Việt Nam quy định: Công chức hải quan là người
được tuyển dụng, đào tạo và sử dụng theo quy định của pháp luật về cán bộ,
công chức. Công chức hải quan phải có phẩm chất chính trị tốt, thực hiện
nhiệm vụ đúng quy định của pháp luật, trung thực, liêm khiết, có tính kỷ luật,
thái độ văn minh, lịch sự. Công chức hải quan thực hiện quyền kiểm tra, giám
sát hải quan, thu thuế cho ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật về
thủ tục hải quan.

14
- Sự kiện phát lí làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ xã
hội hình thành trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan.

Sự kiện pháp lí làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ xã hội
hình thành trong quá trình thực hiện thủ tục hải quan là sự kiện pháp lí xảy ra
ở địa bàn hoạt động hải quan. Theo quy định của pháp luật hải quan Việt Nam
thì địa bàn hoạt động hải quan bao gồm các khu vực cửa khảu đường bộ, ga
đường sắt liên vận quốc tế, cảng biển quốc tế, cảng sông quốc tế, cảng hàng
không dân dụng quốc tế, các địa điểm làm thủ tục hải quan ngoài cửa khẩu,
khu chế xuất, kho ngoại quan, kho bảo thuế, khu vực ưu đãi hải quan, bưu
điện quốc tế, các địa điểm kiểm tra hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong lãnh
thổ và trên vùng biển thực hiện quyền chủ quyền của Việt Nam, trụ sở doanh
nghiệp khi tiến hành kiểm tra sau thông quan và các địa bàn hoạt động hải
quan khác theo quy định của pháp luật. Việc xác định địa bàn hoạt động hải
quan là cơ sở để cơ quan hải quan chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát, kiểm
soát đối với hàng hóa và phương tiện vận tải. Ngoài ra, đây cũng là cơ sở để
lực lượng hải quan phối hợp với các lực lượng như công an, bộ đội biên
phòng, cơ quan thuế…để nhằm phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại.
Tóm lại, quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện thủ tục hải
quan quan hệ giữa một bên là đại diện của nhà nước, thực hiện quyền lực nhà
nước, bảo vệ lợi ích quốc gia và một bên là các pháp nhân hay thể nhân tham
gia thực hiện thủ tục hải quan nhằm đạt được mục đích của mình liên quan
đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá.
1.1.2.2. Phương pháp điều chỉnh mang tính quyền lực - phục tùng
Phương pháp điều chỉnh mang tính quyền lực - phục tùng đảm bảo cho
hoạt động hải quan được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất trên phạm vi
toàn quốc. Phương pháp này còn đảm bảo để các chế độ về kiểm tra, giám sát

15
hải quan luôn luôn được thực hiện thống nhất, tránh được các hiện tượng cục
bộ, địa phương làm mất hiệu lực quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Mối quan hệ quyền lực - phục tùng trong lĩnh vực hải quan thể hiện ở
sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lý nhà nước về hải

quan. Cơ quan hải quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp đặt ý
chí của mình lên các đối tượng quản lý. Phía các chủ thể liên quan đến hoạt
động hải quan nằm trong đối tượng bị quản lý có nghĩa vụ thực hiện các quy
định cũng như các yêu cầu của cơ quan hải quan trong khuôn khổ pháp luật.
Họ có quyền đưa ra các yêu cầu kiến nghị cho cơ quan hải quan, về phía cơ
quan hải quan có quyền xem xét giải quyết và có thể đáp ứng hay bác bỏ các
yêu cầu kiến nghị đó. Cơ quan hải quan có quyền áp dụng các biện pháp
cưỡng chế nhằm buộc đối tượng bị quản lý phải thực hiện các quy định của
pháp luật về thủ tục hải quan.
Như vậy, pháp luật về thủ tục hải quan là tổng thể các quy phạm pháp
luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tiến hành thủ tục
hải quan, tức là điều chỉnh hoạt động của cơ quan hải quan cũng như của các
chủ thể khác tham gia các quan hệ xã hội được hình thành trong quá trình tổ
chức và thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành của nhà nước trong lĩnh
vực thủ tục hải quan.
1.2. Sơ lƣợc quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về
thủ tục hải quan
Hoạt động thuế quan ở nước ta xuất hiện từ thời Lý và trở thành một
bộ phận hữu cơ của nền ngoại thương. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm
lược Việt Nam và đến năm 1884, thực dân Pháp đã đặt ách cai trị của chúng
lên toàn bộ nước ta. Song song với việc lập nên bộ máy cai trị các cấp, thực
dân Pháp đã thiết lập một bộ máy thuế quan khá hoàn chỉnh từ trung ương
xuống đến địa phương.

16
Cách mạng tháng Tám 1945 đã xoá bỏ tận gốc mọi quyền lợi chính trị,
kinh tế, văn hoá của thực dân Pháp trên đất nước ta. Ngày 10/9/1945 Sở thuế
quan và Thuế gián thu (tiền thân của ngành Hải quan) được thành lập. Lịch
sử phát triển của Hải quan Việt Nam và pháp luật về thủ tục hải quan gắn liền
với sự hình thành và phát triển của chính quyền cách mạng nước ta. Mỗi thời

kỳ phát triển của đất nước đều có những yêu cầu đặc biệt đối với công tác
quản lý về hải quan để đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và bảo
vệ đất nước.

1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960
Lịch sử pháp luật về thủ tục hải quan dưới chế độ mới được bắt đầu
ngay sau Cách mạng tháng Tám với Sắc lệnh số 27/SL ngày 10/9/1945 do Bộ
trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp thay mặt Chính phủ lâm thời Việt Nam
Dân chủ cộng hòa ký, thành lập Sở Thuế quan và thuế gián thu - tiền thân của
Tổng cục Hải quan ngày nay.
Ngay sau khi ban hành Sắc lệnh 27/SL ngày 10/9/1945 thành lập Sở
thuế quan và thuế gián thu, ngày 5/2/1946 Chính phủ ra Nghị định số 192-TC
gồm 7 điều quy định về tổ chức của Sở thuế quan và Thuế gián thu. Đến giữa
năm 1946, hệ thống tổ chức các cơ sở Thuế quan và Thuế gián thu đã được
xây dựng ở nhiều địa phương, chủ yếu là ở khu vực Bắc Bộ. Nhiệm vụ của
ngành Thuế quan thời kỳ này là thu các loại thuế nhập cảng và xuất cảng, thu
thuế gián thu. Sau đó ngành Thuế quan được giao thêm nhiệm vụ chống buôn
lậu thuốc phiện và nhiệm vụ giải quyết các vụ vi phạm về thuế quan và thuế
gián thu.
Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, Chính phủ giành độc quyền
ngoại thương, mọi thứ hàng hoá lưu thông trong vùng tự do đều do Chính phủ
kiểm soát, quản lý. Bên cạnh đó, chủ trương triệt để bao vây kinh tế địch được

17
Chính phủ ban bố thi hành từ rất sớm. Do tình hình chiến sự ở mỗi địa
phương diễn biến khác nhau nên công tác bao vây kinh tế địch cũng được
thực hiện theo những phương thức khác nhau.
Tuy nhiên, chính sách triệt để bao vây kinh tế địch cũng gây cho ta một
số khó khăn. Mặc dù chùng ta đã chủ động tạo lập các luồng buôn bán giữa
vùng tạm chiếm với vùng tự do nhưng luồng buôn bán này chỉ thực hiện một

chiều, tức là chỉ nhập khẩu hàng từ vùng tạm chiếm về mà chưa thực hiện
xuất khẩu hàng hoá từ vùng tự do vào vùng tạm chiếm. Do đó, nhiều sản
phậm của vùng tự do bị ứ thừa không nơi tiêu thụ gây ảnh hưởng tiêu cực đến
sản xuất.
Giữa năm 1948, vấn đề quản lý ngoại thương được đặt lại với phương
thức hoạt động mềm dẻo và sát hợp với thực tế hơn. Khác với giai đoạn trước,
Chính phủ không cấm đoán một cách triệt để các mặt hàng xuất, nhập. Việc
xuất, nhập giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm đã mở rộng hơn. Bên cạnh
việc xúc tiến các hoạt động xuất, nhập giữa hai vùng, Chính phủ còn tổ chức
nhiều hình thức khác để thu hút hoặc tiêu thụ nguồn hàng.
Nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ kinh tế - tài chính trong điều kiện mới,
ngày 17/7/1951, Bộ trưởng Bộ Tài chính ký Nghị định 63/NĐ ấn định hệ
thống tổ chức Sở thuế thuộc Bộ Tài chính từ Trung ương đến cơ sở. Sở thuế
quan và thuế gian thu bị giải thể, thay vào đó là Phòng Thuế xuất nhập khẩu
nằm trong Sở thuế Trung ương. Về cơ bản, chức năng nhiệm vụ cũng như
biên chế Phòng thuế xuất nhập khẩu không có gì thay đổi so với Sở thuế quan
và Thuế gián thu cũ nhưng quy mô tổ chức đã bị thu hẹp lại cho phù hợp với
tình hình mới.
Kỳ họp thứ V Quốc hội khoá I (9/1955) quyết định thành lập Bộ
Thương nghiệp, ngành hải quan chuyển sang trực thuộc Bộ Thương nghiệp.
Thời kỳ này Chính phủ ban hành nhiều văn bản pháp quy thuộc lĩnh vực hải

18
quan: Điều lệ tạm thời về quản lý ngoại hối; sửa đổi biểu thuế xuất nhập
khẩu; ấn định việc kiểm nghiệm, kiểm dịch hàng hoá xuất nhập khẩu do cơ
quan hải quan phụ trách; cấm nhập khẩu bạch kim và các loại đá quý.
Sau kỳ họp thứ VIII Quốc hội khoá I (4/1958), Bộ Ngoại thương tách
khỏi Bộ Thương nghiệp và Hải quan chuyển sang trực thuộc Bộ Ngoại
thương. Bộ Ngoại thương cũng ban hành nhiều văn bản pháp quy về quản lý
xuất nhập khẩu như cấp giấy phép xuất hàng, thủ tục khai và kiểm hoá hàng

xuất nhập khẩu những văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của
ngành hải quan trong thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế.
Như vậy, quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy
của ngành Hải quan giai đoạn này có một vai trò rất quan trọng trong việc
phát triển pháp luật về hải quan của nước ta. Nó tạo cơ sở, tiền đề và những
nguyên tắc cho việc quản lý ngành hải quan, cũng như xây dựng những văn
bản pháp luật và pháp quy về hải quan trong những thời kỳ sau này.

1.2.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1990
Chính sách Nhà nước độc quyền ngoại thương là tư tưởng chỉ đạo
mang tính nguyên tắc chung của các nước xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn
đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, mọi chính sách cụ thể về ngoại
thương đều phải thể hiện được vai trò độc quyền của Nhà nước. Mặc dù đã
đạt được một số thành tựu trong hoạt động thực tiễn và xây dựng các văn bản
pháp luật chuyên ngành, nhưng về lâu dài đòi hỏi phải có những văn bản pháp
lý về quản lý kinh tế hoành chỉnh ở mức cao hơn, đáp ứng yêu cầu trước mắt
và lâu dài. Xuất phát từ yêu cầu đó, ngày 27/2/1960, Chính phủ ban hành
Điều lệ Hải quan kèm thoe Nghị định số 03/CP “để đảm bảo thực hiện chính
sách quản lý ngoại thương, quản lý ngoại hối của nước Việt Nam Dân chủ
cộng hoà, góp phần phục vụ đường lối ngoại giao, bảo vệ tài sản của Nhà

19
nước ”
Điều lệ Hải quan là văn bản pháp quy tương đối hoàn chỉnh đầu tiên về
các luật lệ, thủ tục hải quan của Nhà nước ta được công bố, đánh dấu bước
phát triển mới của Hải quan Việt Nam. Điều lệ Hải quan đã hoàn chỉnh thêm
một bước về hệ thống văn bản pháp quy, từ hoạt động phân tán thiếu sự chỉ
đạo thống nhất sang hoạt động chính quy. Những nội dung cơ bản của Điều lệ
là cơ sở pháp lý đảm bảo cho công tác Hải quan và cho việc xây dựng các văn
bản pháp quy cao hơn của các giai đoạn sau.

Thời kỳ này, ngành Hải quan được xác định là công cụ bảo đảm thực
hiện đúng đắn chế độ nhà nước độc quyền về ngoại thương, ngoại hối, thi
hành chính sách thuế quan, chống buôn lậu qua biên giới. Vì vậy, hải quan chỉ
tập trung vào một số nhiệm vụ như: làm thủ tục và phát hiện sai sót, tổn thất
hàng hoá xuất, nhập khẩu; thu thuế hàng hoá xuất, nhập khẩu và đấu tranh
chống buôn lậu qua biên giới.
Pháp luật về hải quan đã bước đầu thể chế hoá chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước về công tác hải quan thành các văn bản pháp quy của
Chính phủ, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước về hải quan. Từ
đó xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của ngành hải quan để
tạo điều kiện xây dựng nguyên tắc, chế độ nghiệp vụ, đưa hoạt động hải quan
vào nề nếp.
Do các văn bản pháp quy ban hành về công tác hải quan phục vụ cho
chính sách độc quyền về ngoại thương, vì vậy hải quan cũng mất đi một số
tính chất đặc thù trong hoạt động của mình. Đặc điểm này còn tiếp tục thể
hiện cho đến khi bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới, mở của kinh tế và còn
để lại dấu ấn trên toàn bộ hệ thống pháp luật về hải quan cho đến nay.

20
Thời kỳ 1975 - 1986 là thời kỳ thống nhất tổ chức và triển khai hoạt
động hải quan trên phạm vi toàn quốc, củng cố và hoàn thiện cơ cấu cũng như
chức năng, nhiệm vụ của ngành Hải quan trong nhiệm vụ chung.
Văn bản pháp lý quan trọng nhất thời kỳ này là Nghị định 139/HĐBT
ngày 20/10/1984 quy định chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức ngành Hải
quan. Sự ra đời của Nghị định 139/HĐBT có ý nghĩa quan trọng về mặt lý
luận cũng như thực tiễn, khẳng định tính chất công tác của ngành Hải quan,
xác định vị trí, vai trò của Hải quan Việt Nam trong sự nghiệp phát triển kinh
tế xã hội, bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia. Nghị định xác định rõ: Tổng
cục Hải quan là cơ quan trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng, là công cụ chuyên
chính nửa vũ trang của Đảng và Nhà nước có chức năng kiểm tra và quản lý

hàng hoá, hành lý, ngoại hối và các công cụ vận tải xuất nhập qua biên giới,
thi hành chính sách thuế xuất nhập khẩu, ngăn ngừa, chống các hành vi vi
phạm luật lệ hải quan Do Nghị định ban hành trong điều kiện nền kinh tế
bao cấp, kế hoạch hoá toàn diện, nhà nước giữ độc quyền về ngoại thương
ngoại hối, nền ngoại thương chủ yếu vẫn hướng vào các nước thuộc Hội đồng
tương trợ kinh tế với chế độ kinh doanh theo nghị định thư, nên các chính
sách, quy định về chế độ xuất, nhập khẩu cũng như về thuế suất không có gì
thay đổi so với thời kỳ trước. Các chính sách của các nước thuộc Hội đồng
tương trợ kinh tế trong lĩnh vực buôn bán đuợc áp dụng như kế hoạch hóa tập
trung lĩnh vực xuất và nhập khẩu, quyết định giá cả nhập và xuất khẩu bằng
biện pháp hành chính, dùng đồng tiền không chuyển đổi được trong thanh
toán ngoại thương (đồng rúp chuyển nhượng) và một ngân hàng thanh toán
trong nội bộ giữa các nước trong tổ chức này là Ngân hàng hợp tác kinh tế
quốc tế. Thuế quan không đóng một vai trò có ý nghĩa vì chủ yếu chỉ đánh
vào hàng nhập khẩu phi mậu dịch, phần lớn là hàng hoá do người Việt Nam ở
nước ngoài gửi về cho thân nhân ở trong nước và các loại hàng hóa do khách

21
du lịch đưa vào trong nước. Phần lớn hàng hóa xuất, nhập khẩu được điều tiết
bằng hạn ngạch được phân bổ cho các công ty chuyên doanh của Nhà nước,
do các Bộ của Trung ương quản lý.

1.2.3. Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2001
Trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan trước xu thế hội nhập, mở
cửa, đòi hỏi phải có một văn bản pháp quy ở mức cao hơn nhằm điều chỉnh
mọi quan hệ kinh doanh xuất nhập khẩu và các hoạt động kinh tế quốc tế
khác. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành Hải quan trong lĩnh
vực xây dựng các văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động hải quan.
Trước xu thế đó, Pháp lệnh Hải quan được ban hành ngày 20/2/1990 là
cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước về hải quan và là văn bản pháp

quy có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực hải
quan.
Pháp lệnh Hải quan đánh dấu bước phát triển về chất của ngành Hải
quan, thể hiện ở cả quy mô, phương thức và hiệu quả hoạt động, đặt nền tảng
cho sự đổi mới của pháp luật hải quan, là cơ sở pháp lý để các văn bản hướng
dẫn thi hành cụ thể hoá tinh thần, nội dung đổi mới đó. Nội dung của Pháp
lệnh thể hiện quan điểm đổi mới của Đảng về mở rộng kinh tế đối ngoại, tăng
cường hợp tác và giao lưu quốc tế, kế thừa kinh nghiệm hoạt động và xây
dựng Hải quan Việt Nam gần nửa thế kỷ, bước đầu phù hợp với luật pháp và
tập quán hải quan quốc tế.
Do được ban hành trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế, hoạt động
xuất nhập khẩu chưa thực sự phát triển và việc quản lý hải quan còn hạn chế
nên các quy định về thủ tục hải quan giai đoạn này khó tránh khỏi một số hạn
chế như:

22
- Nhiều nội dung của Pháp lệnh không thống nhất và không còn phù
hợp với các văn bản pháp luật được ban hành từ sau năm 1990 và chưa đáp
ứng được kịp thời những đòi hỏi của các cam kết quốc tế liên quan đến hoạt
động hải quan mà Việt Nam tham gia hoặc có nghĩa vụ phải thực hiện. Tháng
7/1997 Việt Nam đã tham gia Công ước quốc tế về Hải quan và đơn giản hóa
thủ tục hải quan (Công ước Kyoto), tuy nhiên do việc thực hiện Công ước đòi
hỏi công tác quản lý ở trình độ khá cao nên các chuẩn mực của Công ước hầu
như chưa được thực hiện.
- Quy định về chế độ kiểm tra giám sát hải quan chưa đầy đủ, chưa
phản ánh được thực tiễn kiểm tra, kiểm soát của Hải quan; chỉ cho phép kiểm
tra, giám sát hải quan đối với hàng hoá đang làm thủ tục hải quan nên không
bảo đảm được việc kiểm soát chặt chẽ hàng hoá đang vận chuyển trong khu
vực kiểm soát hải quan, hàng gia công, hàng hoá lưu giữ trong khu chế xuất…
Các quy định về kiểm tra hải quan còn sơ lược và không cụ thể, chủ yếu đề

cập đến nguyên tắc chung, tỷ lệ hàng hoá phải kiểm tra thực tế là 100%,
không có cơ chế phân định trách nhiệm pháp lý giữa những người liên quan
đến hàng hoá vi phạm nên không thể tránh khỏi tình trạng tuỳ tiện, chậm trễ
gây ách tắc hàng hoá tại cửa khẩu.
- Thu thuế xuất nhập khẩu là một trong những nhiệm vụ cơ bản của Hải
quan nhưng các quy định về nghiệp vụ hải quan để bảo đảm thu đúng, thu đủ
thuế lại chưa được quy định đầy đủ và rõ ràng. Pháp lệnh Hải quan chỉ có duy
nhất một điều đề cập đến thuế và không có quy định nào về quy trình tính và
thu thuế xuất nhập khẩu, chưa đưa ra được các nguyên tắc về căn cứ tính thuế
trong khi Nghị định 54/CP ngày 28/8/1993 Quy định chi tiết thi hành Luật
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã quy định về trách nhiệm của Tổng cục Hải
quan trong việc quy định thủ tục tính thuế, nộp thuế đối với hàng hoá xuất
nhập khẩu. Bên cạnh đó, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cho phép nộp

23
thuế chậm đến 90 ngày (tính cả thời gian gia hạn) làm cho ngân sách nhà
nước bị thất thu vì không có sự bảo đảm nào đối với nguồn thu khi hàng hoá
được làm thủ tục hải quan mà chưa cần nộp thuế ngay.
- Các quy định về xác định trị giá mang tính chất hỗn hợp, vừa áp dụng
phương pháp xác định trị giá rất gần với Hiệp định Trị giá GATT là trị giá
theo hợp đồng, đồng thời lại sử dụng Bảng giá tối thiểu đối với một số mặt
hàng. Việc xác định giá hàng hoá trên thị trường quốc tế khá khó khăn nên
Bảng giá tối thiểu luôn luôn bị lạc hậu và việc sử dụng Bảng giá tối thiểu
thường dẫn đến xu hướng bảo hộ cho ngành sản xuất trong nước nên quy định
này có ảnh hưởng xấu đến hoạt động xuất nhập khẩu
- Các quy định về xuất xứ hàng hoá rất sơ lược, ngoài việc chấp nhận
tiêu chuẩn xuất xứ hàng hoá ASEAN, pháp luật về thủ tục hải quan không
quy định một tiêu chuẩn xuất xứ nào trong quan hệ thương mại đối với các
nước. Các quy định cụ thể chỉ gói gọn trong việc công nhận giấy chứng nhận
xuất xứ do nước ngoài cấp đã tạo sơ hở lớn cho gian lận thương mại.

- Quy định về phân loại hàng hoá trong biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu thiếu thống nhất, có nhiều mặt hàng không được xác định mã số thuế
theo tính chất kỹ thuật hay bản chất của hàng hoá mà lại theo mục đích sử
dụng.
Như vậy, về cơ bản pháp luật về thủ tục hải quan trong đó đặc biệt là
Pháp lệnh Hải quan đã thể hiện quan điểm đổi mới của Đảng và kế thừa kinh
nghiệm hoạt động và xây dựng Hải quan Việt Nam qua gần nửa thế kỷ đã
phát huy vai trò tích cực trong việc bảo hộ, thúc đẩy sản xuất trong nước, tăng
thu cho ngân sách nhà nước, góp phần tác động tích cực trong lĩnh vực kinh tế
đối ngoại. Tuy nhiên, do được xây dựng dựa trên kinh nghiệm quản lý nhà
nước về hải quan những năm 1985 trở về trước nên pháp luật về thủ tục hải
quan thời kỳ này mang nặng dấu ấn của chế độ độc quyền ngoại thương và

24
nền kinh tế bao cấp, chưa thể chế hóa kịp thời các quan điểm đổi mới của
Đảng về chính sách phát triển kinh tế - xã hội liên quan đến yêu cầu quản lý
nhà nước về hải quan.

1.2.4- Giai đoạn từ năm 2001 đến nay
Pháp lệnh Hải quan 1990 sau 10 năm thực hiện đã phát huy vai trò tích
cực trong việc bảo hộ và phát triển sản xuất trong nước, tăng thu cho ngân
sách nhà nước, góp phần đáng kể trong các hoạt động trên lĩnh vực kinh tế,
bảo vệ lợi ích, chủ quyền và an ninh quốc gia, tăng cường hợp tác quốc tế về
hải quan. Tuy nhiên, do Pháp lệnh hải quan được xây dựng và ban hành trước
Hiến pháp 1992 và chủ yếu dựa trên kinh nghiệm quản lý nhà nước về hải
quan từ những năm 1985 trở về trước. Do đó, chưa thể chế hóa kịp thời các
quan điểm đổi mới của Đảng về chính sách phát triển kinh tế - xã hội liên
quan đến yêu cầu quản lý nhà nước về hải quan. Vì vậy, việc xây dựng Luật
Hải quan là yêu cầu cấp bách. Sau 18 lần dự thảo, Luật Hải quan đã được
Quốc hội thông qua ngày 29/6/2001 và có hiệu lực thi hành từ ngày

01/01/2002. Tiếp tục thực hiện chương trình cải cách thể chế và thủ tục hải
quan, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan năm 2005 đã được
thông quan nhằm tạo khuôn khổ pháp lý phù hợp cho công cuộc cải cách thủ
tục hải quan, đáp ứng yêu cầu của Công ước Kyoto sửa đổi, khẳng định sự
cam kết và thiện chí của Việt Nam khi gia nhập WTO. Cùng với các văn bản
quy phạm pháp luật khác như Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm
2005, Luật Quản lý thuế năm 2006, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005… pháp luật
về thủ tục hải quan đã có một bước hoàn thiện lớn với mục tiêu thể chế hóa
đường lối, chính sách của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 1992
về xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong lĩnh vực hải quan, nội luật hóa
các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập

25
nhằm tạo ra khuôn khổ pháp lý thống nhất, đồng bộ điều chỉnh các quan hệ
kinh tế - xã hội liên quan đến hoạt động hải quan phù hợp với cơ chế quản lý
kinh tế mới, thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính, góp phần giữ vững ổn
định chính trị để phát triển kinh tế - xã hội, tạo thuận lợi cho hội nhập quốc tế
đồng thời tham gia bảo vệ lợi ích, chủ quyền và an ninh quốc gia, phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Pháp luật về thủ tục hải quan đã tạo điều kiện thuộc lợi cho hoạt động
xuất khẩu, nhập khẩu, thủ tục hải quan, tạo môi trường pháp lý kinh doanh
bình đẳng, phù hợp với các chuẩn mực và cam kết quốc tế. Góp phần nâng
cao được hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực Hải quan. Cụ thể: Các
khâu nghiệp vụ trung gian không cần thiết đã được loại bỏ, giảm bớt các giấy
tờ doanh nghiệp phải nộp, xuất trình, hàng hoá được thông quan nhanh chóng
và từng bước áp dụng chính sách ưu tiên về thủ tục hải quan đối với doanh
nghiệp có quá trình chấp hành tốt pháp luật hải quan. Bên cạnh thủ tục hải
quan thực hiện theo phương pháp thủ công thông thường, thủ tục hải quan
điện tử được triển khai thực hiện đã đánh dấu bước chuyển biến mới trong
hoạt động hải quan. Lần đầu tiên pháp luật về thủ tục hải quan ghi nhận quyền

hạn của cơ quan hải quan trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới
và tạo ra một cơ chế kiểm soát hữu hiệu nhằm chống lại hàng hoá vi phạm
quyên sở hữu trí tuệ, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, các doanh nghiệp hoạt
động theo pháp luật.
Khắc phục những tồn tại trong giai đoạn trước khi ban hành Luật Hải
quan, pháp luật về thủ tục hải quan đã quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm
của người khai hải quan trong việc kê khai, tính thuế, nộp thuế; trách nhiệm
của cơ quan hải quan trong việc tổ chức thu thuế. Các quy định về thu, nộp,
hoàn thuế minh bạch, chặt chẽ đã giúp cho công tác chống thất thu thuế ngày
càng hiệu quả, bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

×