Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Minh bạch trong WTO và việc thực thi của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (861.24 KB, 120 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN VĂN HUÊ



MINH BẠCH TRONG WTO
VÀ VIỆC THỰC THI CỦA VIỆT NAM


Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60.38.60


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Thắng



Hà Nội – 2013


LỜI CAM ĐOAN




Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội
dung trình bày trong Luận văn này là trung thực. Các kết luận trong Luận
văn chưa được công bố trong công trình nào khác.



TÁC GIẢ



Nguyễn Văn Huê
















MỤC LỤC



Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1 - WTO VÀ CÁC QUY ĐỊNH VỀ MINH BẠCH
1.1. KHÁI QUÁT VỀ WTO
1.1.1. Sự hình thành và phát triển
1.1.2. Cơ cấu tổ chức của WTO
1.1.3. Các văn kiện pháp lý của WTO
1.1.4. Chức năng của WTO
1.1.5. Các nguyên tắc của WTO
1.2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA WTO VỀ MINH BẠCH
1.2.1. Công khai văn bản pháp luật về thương mại
1.2.2. Lấy ý kiến góp ý của các bên và các doanh nghiệp đối với dự
thảo văn bản pháp luật về thương mại
1.2.3. Thông báo, giải đáp và cung cấp thông tin liên quan đến chính
sách pháp luật thương mại
1.2.4. Rà soát chính sách pháp luật thương mại
1.2.5. Minh bạch trong thực thi pháp luật
Chương 2 - QUÁ TRÌNH ĐÀM PHÁN GIA NHẬP WTO VÀ CAM
KẾT CỦA VIỆT NAM VỀ MINH BẠCH
2.1. QUÁ TRÌNH ĐÀM PHÁN GIA NHẬP WTO
2.1.1. Quan điểm gia nhập
2.1.2. Những tác động của quá trình đàm phán
2.1.3. Quá trình đàm phán gia nhập
2.2. CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VỀ MINH BẠCH
2.2.1. Khái quát một số đề cập của các đối tác về vấn đề minh bạch
1
8
8

8
9
13
14
15
17
19
27

28

35
37
39

39
39
41
43
45
45


trong quá trình Việt Nam đàm phán gia nhập
2.2.2. Cam kết của Việt Nam về minh bạch khi gia nhập WTO
Chương 3 - THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH CỦA WTO VÀ CAM
KẾT CỦA VIỆT NAM VỀ MINH BẠCH
3.1. KHÁI QUÁT MỘT SỐ NỘI DUNG VỀ KẾT QUẢ THỰC
HIỆN
3.1.1. Lấy ý kiến cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với các dự thảo văn bản

quy phạm pháp luật
3.1.2. Công khai các văn bản pháp luật, các điều ước quốc tế
3.1.3. Thực hiện nghĩa vụ thông báo và thiết lập các điểm hỏi đáp chính
sách pháp luật
3.1.4. Rà soát chính sách pháp luật thương mại
3.1.5. Minh bạch trong thực thi chính sách pháp luật
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ
NGHĨA VỤ MINH BẠCH CỦA VIỆT NAM TRONG WTO
3.2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý đối với việc lấy ý kiến dự thảo và đăng
tải công khai văn bản quy phạm pháp luật
3.2.2. Hoàn thiện cơ sở pháp lý đối với việc đăng tải công khai các bản
án, quyết định của Toà án
3.2.3. Công khai thủ tục hành chính và các thông tin liên quan đến bảo
hộ quyền tác giả, quyền có liên quan
3.2.4. Đẩy mạnh công tác rà soát, hệ thống hóa, pháp điển hóa các văn
bản quy phạm pháp luật
3.2.5. Hoàn thiện nhà nước pháp quyền
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

51
63

63

63

71
83


86
90
101

101

104

105

105

106
108
112




1
MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài
Minh bạch trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách pháp luật là
yêu cầu đòi hỏi tự thân của nhà nước pháp quyền, là mục tiêu hướng tới của
các nhà nước dân chủ, là điều kiện quan trọng đảm bảo công bằng xã hội. Tuy
nhiên, trong những giai đoạn khác nhau, yêu cầu về minh bạch có những đòi
hỏi khác nhau về nội dung, mức độ, phạm vi và trách nhiệm. Ban đầu, yêu cầu
về minh bạch được xem là việc đòi hỏi nhà nước phải đăng tải công khai,
nhanh chóng, đầy đủ các văn bản pháp luật trên các ấn phẩm chính thức (trừ

những văn bản thuộc danh mục bí mật nhà nước). Tiếp đó, yêu cầu về minh
bạch đặt ra là phải đăng tải công khai các dự thảo văn bản pháp luật trên các
tạp chí chính thức, tạo điều kiện cho công chúng có thể tiếp cận, tham gia, bình
luận, góp ý kiến. Cao hơn nữa là phải đảm bảo để hệ thống pháp luật ổn định,
rõ ràng, dễ dự đoán và phải minh bạch quá trình thực thi pháp luật. Đó là
những mức độ khác nhau trong từng giai đoạn, thời kỳ về yêu cầu minh bạch.
Ngày nay, toàn cầu hóa đã trở lên mạnh mẽ, hầu hết các quốc gia đã hội
nhập ở mức độ khác nhau vào nền kinh tế quốc tế và khu vực. Yêu cầu về
minh bạch trong việc xây dựng và thực thi chính sách thương mại không còn
chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà đòi hỏi phải mở rộng ra phạm vi thế
giới, khu vực nhằm thúc đẩy tự do hóa thương mại quốc tế. Với mục tiêu
chung đó, các nhà nước đã cam kết minh bạch quá trình ban hành và thực thi
chính sách pháp luật để các bên tham gia cũng như các cá nhân, tổ chức,
doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận thị trường, cạnh tranh bình đẳng. Minh
bạch trong việc xây dựng và thực thi chính sách pháp luật dần trở thành ràng
buộc pháp lý đối với các quốc gia là thành viên của một số tổ chức, diễn đàn
kinh tế quốc tế.


2
Được thành lập năm 1995, trên cơ sở Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại năm 1947 (GATT 1947), với số lượng thành viên hiện nay là 154
quốc gia, vùng lãnh thổ (tính đến tháng 05 năm 2012), Tổ chức thương mại
thế giới (sau đây gọi tắt là WTO) là tổ chức quốc tế liên chính phủ có quy mô
rộng lớn trên phạm vi toàn cầu. Với mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thương mại
quốc tế, trên cơ sở thỏa thuận của các thành viên, WTO đòi hỏi mỗi thành
viên phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu về minh bạch trong ban hành và thực
thi chính sách pháp luật có liên quan hoặc tác động đến thương mại nhằm hạn
chế sự bất bình đẳng về điều kiện kinh doanh và tránh rủi ro cho các doanh
nghiệp khi tham gia hoạt động ngoại thương. Minh bạch trong việc ban hành

và thực thi chính sách pháp luật là nguyên tắc quan trọng của WTO và là một
trong những đòi hỏi hàng đầu đối với bất cứ quốc gia nào muốn gia nhập.
Đối với nước ta, việc nghiên cứu các quy định của WTO về minh bạch
đã được đặt ra từ khá sớm, khi chúng ta chuẩn bị cho việc đàm phán gia nhập
Tổ chức này. Suốt trong gần 12 năm, kể từ khi nộp đơn xin gia nhập đến khi
được kết nạp, trở thành thành viên chính thức, Việt Nam đã nỗ lực trong cả
hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật về thương mại, nhằm đáp ứng các
yêu cầu về minh bạch của WTO. Cùng với sự nỗ lực chung trên mọi lĩnh vực,
những nỗ lực của Việt Nam về minh bạch đã được các nước thành viên WTO
thừa nhận bằng việc nhất trí để Việt Nam gia nhập, trở thành thành viên chính
thức của Tổ chức này.
Tuy nhiên, khi đã trở thành thành viên chính thức của WTO, với việc
cam kết thực hiện “trọn gói” các quy định của WTO về minh bạch, nước ta
còn cần phải tiếp tục đẩy nhanh hơn nữa quá trình thực hiện các quy định và
cam kết về vấn đề này. Trong đó, có thể thấy một số yêu cầu, như: phải nhanh
chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất, ổn định, dễ dự đoán,
từng bước loại bỏ các rào cản thương mại, đảm bảo phù hợp với các quy định
của WTO; thường xuyên rà soát chính sách pháp luật thương mại; thực hiện


3
có hiệu quả cơ chế đăng tải công khai hệ thống pháp luật; thực hiện nghĩa vụ
thông báo; xây dựng mạng lưới thông tin, giải đáp chính sách pháp luật
thương mại theo yêu cầu của WTO; và, đảm bảo minh bạch quá trình thực thi
pháp luật (như: hoàn thiện bộ máy hành chính trong sạch, hệ thống tòa án độc
lập, công bằng, đảm bảo thủ tục hành chính đơn giản, thuận tiện, quản lý hệ
thống doanh nghiệp nhà nước minh bạch, không tạo ra những bất bình đẳng
với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác),…
Gia nhập WTO mang lại nhiều cơ hội; song, cũng đặt ra nhiều thách
thức to lớn trên nhiều mặt đối với nước ta mà một trong những thách thức đã

được Chính phủ chỉ ra là: Yêu cầu cao về minh bạch của WTO sẽ đặt ra thách
thức lớn cho nền hành chính quốc gia. Nền hành chính quốc gia sẽ phải thay
đổi theo hướng công khai hơn, minh bạch hơn và hiệu quả hơn. Đó phải là một
nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của mọi công dân và doanh nghiệp, lấy
công dân và doanh nghiệp làm trọng tâm phục vụ, khắc phục toàn bộ các biểu
hiện trì trệ, thờ ơ và vô trách nhiệm. Nếu không tạo ra được một nền hành
chính như vậy, sẽ không thể tận dụng được các cơ hội do hội nhập kinh tế nói
chung và việc gia nhập WTO nói riêng đem lại [13].
Nhận định trên chỉ ra rằng, song song với quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế đòi hỏi phải có những cải cách mạnh mẽ trong nước nhằm đáp ứng,
thích nghi với luật chơi chung của các tổ chức quốc tế. Đây là công việc
đòi hỏi phải được chuẩn bị kỹ, nếu không sẽ khó vượt qua được những
thách thức to lớn của quá trình toàn cầu hoá. Và, điều chắc chắn là sẽ phải
gánh chịu những hậu quả xấu do quá trình hội nhập mang lại, không thể thu
được những kết quả như mong muốn. Nhận định trên hết sức đúng đối với
nền hành chính nước ta đang trong quá trình cải cách, chuyển đổi, còn
nhiều hạn chế, yếu kém.
Thực tế thương mại quốc tế thời gian qua đã có một số vụ kiện giữa các
quốc gia trong khuôn khổ WTO liên quan đến minh bạch chính sách pháp


4
luật. Điều này cho thấy, việc nghiên cứu các quy định của WTO về minh bạch
có ý nghĩa về mặt thực tế, hạn chế tối đa những tranh chấp tương tự như đã
nêu. Hơn nữa, một trong vấn đề luôn được các quốc gia đề cập khi xem xét để
công nhận nền kinh tế của một quốc gia khác có phải là thị trường hay không
là yếu tố minh bạch trong xây dựng và thực thi chính sách. Cho đến nay, mới
có 28 quốc gia công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường [28]. Đây là con
số còn rất khiêm tốn mà chúng ta cần phấn đấu, nỗ lực hơn nữa, tiến tới để tất
cả các nước công nhận nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường. Việc

chưa được công nhận là nền kinh tế thị trường có nhiều bất lợi cho ta khi
doanh nghiệp nước ngoài kiện chống bán phá giá hàng xuất khẩu của ta vào
thị trường đó hay các vụ kiện của các bên về chống trợ cấp,
Những lý do trên đây cho thấy việc tiếp tục nghiên cứu các nội dung về
minh bạch trong WTO nhằm góp phần đánh giá những kết quả đã đạt được,
chỉ ra những tồn tại, hạn chế và kiến nghị biện pháp thực hiện, là hết sức cần
thiết, đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu quả quá trình hội nhập sâu rộng nền
kinh tế quốc tế của nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
Minh bạch là yêu cầu đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển và hội
nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa thương mại. Quá trình nghiên cứu về minh bạch
trên thế giới gắn liền với quá trình đàm phán, thỏa thuận, xây dựng các thiết
chế thương mại quốc tế và khu vực. Vì vậy, có thể nói, đây là vấn đề không
mới về khái niệm. Tuy nhiên, nó lại có nội hàm không giống nhau đối với từng
thiết chế, tổ chức thương mại quốc tế. Nói cách khác, cũng là nghĩa vụ về minh
bạch nhưng mỗi một thiết chế lại có những yêu cầu cụ thể đối với vấn đề này.
Và, theo lộ trình, nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa thương mại quốc tế, các
quốc gia có thể tiếp tục đàm phán, thoả thuận để thực hiện sâu hơn trách nhiệm
về minh bạch. Có thể thấy rõ hơn điều này trong vòng đàm phán Doha đang


5
diễn ra. Trong vòng đàm phán này, mặc dù không phải là vấn đề đàm phán độc
lập nhưng minh bạch được đề cập trong nhiều lĩnh vực như: mua sắm chính
phủ, trợ cấp,…
Tại các nước châu Âu và Hoa Kỳ, vấn đề minh bạch được đặt ra và đã
được nghiên cứu từ khá sớm và gắn liền với quá trình đàm phán, thúc đẩy tự
do hóa thương mại trong các diễn đàn khác nhau. Chính vì vậy, cho đến nay,
vấn đề này thường được nghiên cứu dưới góc độ sâu hơn: đảm bảo minh bạch
quá trình thực thi pháp luật trong điều kiện hội nhập quốc tế, đặc biệt là

những vấn đề ít có sự minh bạch nhất, như trợ cấp, mua sắm chính phủ.
Đối với nước ta, minh bạch trong xây dựng và thực thi chính sách pháp
luật là chủ trương lớn của Nhà nước ta trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản
lý kinh tế, thực hiện dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền, hội nhập kinh
tế quốc tế. Minh bạch vừa được xem là yêu cầu của quá trình hội nhập nền
kinh tế quốc gia vào nền kinh tế thế giới, vừa là yêu cầu tự thân của quá trình
chuyển đổi một cách căn bản nền kinh tế và những cải cách tương ứng đối với
bộ phận kiến trúc thượng tầng. Có thể nói, cam kết của Việt Nam về minh
bạch trong quá trình gia nhập WTO phù hợp với xu thế chung của quá trình
phát triển của nước ta. Minh bạch, nếu hiểu theo nghĩa thực thi cam kết của
WTO thì thấy dường như nó mang tính bị động, nhưng nếu hiểu theo nghĩa là
yêu cầu tự thân của quá trình phát triển thì rõ ràng nó mang tính chủ động. Vì
vậy, khi đề cập đến vấn đề thực thi các cam kết của WTO về minh bạch
không nên dừng lại ở nghĩa thứ nhất. Trong thời gian qua, vấn đề minh bạch
đã được nghiên cứu ở những góc độ khác nhau, cả theo những yêu cầu của
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, cả theo những yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế. Cũng trong thời gian qua, một số dự án nước ngoài đã hỗ trợ
Việt Nam nghiên cứu, xây dựng cơ sở cho việc thực thi nghĩa vụ minh bạch
hoặc tổ chức các hội thảo chuyên đề về minh bạch, như Dự án Star Hoa Kỳ đã
hỗ trợ xây dựng phần mềm Công báo điện tử ở Văn phòng Chính phủ và các


6
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Cộng đồng Châu Âu hỗ trợ xây dựng
mạng lưới hỏi đáp chính sách về hàng rào kỹ thuật (TBT) và rà soát chính
sách pháp luật; Vì thế, những khía cạnh cụ thể của vấn đề minh bạch đã
được đề cập, nghiên cứu; trong đó, có một số bài viết liên quan trong các hội
thảo, tọa đàm.
Tuy nhiên, hiện nay, các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào từng khía
cạnh của vấn đề minh bạch, ví dụ: có nghiên cứu chỉ tập trung vào vấn đề lấy

ý kiến các dự thảo văn bản, có nghiên cứu tập trung vào việc đăng tải công
khai các văn bản pháp luật, có nghiên cứu tập trung vào vấn đề rà soát, pháp
điển hóa các quy định về thương mại. Ngoài ra, có một số ít bài viết đề cập
toàn bộ các khía cạnh của vấn đề minh bạch nhưng những bài viết này chưa
có những đánh giá cụ thể về quá trình thực thi và chưa đưa ra những giải pháp
cụ thể cho việc thực hiện,… Ví dụ như:
- Bài “Giải quyết tranh chấp thương mại trong WTO và các yêu cầu về
tính minh bạch, công khai chính sách và pháp luật thương mại” của tác gủa
Đặng Hoàng Oanh, Tài liệu bồi dưỡng kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế của
Bộ Tư pháp, 2006
- Bài “Quy định về minh bạch hóa trong quá trình xây dựng pháp luật
Việt Nam đáp ứng yêu cầu của WTO” của tác giả Nguyễn Minh Quân,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề về hội nhập quốc tế, năm 2007.
Nhìn chung, có thể nói, hiện chưa có nhiều công trình nghiên cứu một
cách toàn diện quy định của WTO và cam kết của Việt Nam về minh bạch
trong xây dựng và thực thi chính sách pháp luật để có cái nhìn tổng quan về
vấn đề này và mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành trong quá trình thực hiện.
3. Mục tiêu của đề tài
Trên cơ sở phân tích các quy định của WTO, cam kết của Việt Nam về
minh bạch, đề tài tập trung làm rõ hơn kết quả đã đạt được, những tổn tại, hạn


7
chế và kiến nghị một số giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện có hiệu quả hơn
yêu cầu minh bạch trong xây dựng và thực thi chính sách thương mại ở nước
ta đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển và hội nhập.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn sử dụng các phương pháp tổng
hợp, phân tích, đối chiếu, so sánh,… để làm rõ các luận điểm khoa học và yêu
cầu thực tiễn được đề cập. Trên cơ sở đó, kiến nghị một số giải pháp thực thi

các nghĩa vụ của Việt Nam với tư cách là thành viên chính thức của WTO.
5. Nội dung chính của Luận văn
Ngoài mục lục, lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1. WTO và các quy định về minh bạch.
Chương 2. Quá trình đàm phán gia nhập WTO và cam kết của Việt
Nam về minh bạch.
Chương 3. Thực thi các quy định của WTO và cam kết của Việt Nam
về minh bạch.













8
Chương 1
WTO VÀ CÁC QUY ĐỊNH VỀ MINH BẠCH

1.1. KHÁI QUÁT VỀ WTO
1.1.1. Sự hình thành và phát triển
Nhằm thực hiện việc hài hòa hóa hoặc nhất thể hóa các quy định của
pháp luật điều chỉnh các quan hệ thương mại, hạn chế những rào cản, thúc

đẩy giao lưu thương mại, các quốc gia thường ký kết với nhau các cam kết,
thỏa thuận quốc tế ở các cấp độ khác nhau; trong đó có thể là song phương
hoặc đa phương, có thể hình thành hoặc không hình thành các cơ quan, tổ
chức chung giữa các bên, tuỳ theo mức độ và nhu cầu hợp tác.
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại được 23 quốc gia tham
gia ký kết năm 1947 không hình thành một thiết chế thương mại chung. Quá
trình thực hiện Hiệp định này dần tiến đến nhu cầu hình thành một tổ chức
chung điều chỉnh các quan hệ thương mại quốc tế. Mặc dù vậy, nó chỉ trở
thành cơ sở cho việc ra đời tổ chức thương mại thế giới khi các quốc gia ký
kết Hiệp định thành lập WTO (trong đó có các Hiệp định kèm theo), thay thế
GATT 1947, kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1995. Sự hình thành WTO là nhu
cầu tất yếu của quá trình toàn cầu hóa, là sự phát triển từ mức độ thấp đến
mức độ cao trong quan hệ hợp tác thương mại quốc tế.
Trong lịch sử gần 50 năm của mình (1947 - 1994), GATT đã tổ chức
được 8 vòng đàm phán đa phương về thương mại. Vòng thứ 8 được gọi là
Vòng đàm phán Uruguay, diễn ra từ năm 1986 đến năm 1994 đã hoàn tất quá
trình cải tổ GATT để lập ra một định chế thương mại toàn cầu mới là WTO.
WTO tiếp tục thể chế hóa và thiết lập trật tự mới trong hệ thống thương
mại đa phương của thế giới cho phù hợp với những thay đổi mạnh mẽ diễn ra
trong quan hệ kinh tế, thương mại giữa các quốc gia. Về cơ bản, WTO là sự kế
thừa và phát triển của GATT trên cơ sở thay thế GATT 1947. Tuy nhiên, đây


9
không phải là sự thay thế một cách giản đơn mà là sự phát triển một cách sâu
sắc, toàn diện. Sự ra đời của WTO giúp tạo ra cơ chế pháp lý điều chỉnh
thương mại thế giới trong các lĩnh vực mới là dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ,
đồng thời đưa vào khuôn khổ thương mại đa phương hai lĩnh vực dệt may và
nông nghiệp.
WTO là tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra các quy tắc, luật lệ điều tiết

quan hệ thương mại giữa các quốc gia ở phạm vi toàn cầu. Khối lượng giao
dịch giữa các thành viên WTO hiện chiếm trên 98% giao dịch thương mại
quốc tế [28].
1.1.2. Cơ cấu tổ chức của WTO
WTO là tổ chức thương mại quy mô toàn cầu, hiện có 154 thành viên,
được thành lập vào ngày 01 tháng 01 năm 1995.
Cơ cấu tổ chức của WTO gồm các cơ quan có thẩm quyền sau [51]:
1.1.2.1. Hội nghị Bộ trưởng
Hội nghị Bộ trưởng là cơ quan quyền lực cao nhất của WTO, có đầy đủ
các thẩm quyền, gồm đại diện của tất cả các thành viên, họp ít nhất hai năm
một lần; thực hiện chức năng của WTO và đưa ra những hành động cần thiết
để thực thi những chức năng này.
Khi một thành viên nào đó yêu cầu, Hội nghị Bộ trưởng có quyền đưa ra
những quyết định về tất cả những vấn đề thuộc bất kỳ một Hiệp định thương
mại đa biên nào theo đúng các yêu cầu cụ thể về cơ chế ra quyết định được
quy định trong Hiệp định thành lập WTO và Hiệp định thương mại đa biên có
liên quan (khoản 1 Điều IV Hiệp định thành lập WTO).
1.1.2.2. Đại hội đồng (hoặc Hội đồng toàn thể)
Công việc hàng ngày của WTO được đảm nhiệm bởi 3 cơ quan: Đại hội
đồng, Hội đồng (Cơ quan) Giải quyết tranh chấp và Hội đồng (Cơ quan) Rà
soát chính sách thương mại. Tuy tên gọi khác nhau, nhưng thực tế thành phần
của 3 cơ quan đều giống nhau, đều bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc


10
tương đương) của tất cả các nước thành viên. Điểm khác nhau giữa chúng là
chúng được nhóm họp để thực hiện các chức năng khác nhau của WTO.
Đại hội đồng thực hiện chức năng của Hội nghị Bộ trưởng giữa hai kỳ
họp, được nhóm họp thường xuyên, gồm đại diện của tất cả các nước thành
viên (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) để giải quyết đối với tất cả các

công việc của WTO.
Khi cần thiết, Đại hội đồng được triệu tập để đảm nhiệm phần trách
nhiệm của Cơ quan Giải quyết tranh chấp hoặc Cơ quan Rà soát chính sách
thương mại. Các cơ quan này có thể có chủ tịch riêng và sẽ xây dựng những
quy tắc về thủ tục cần thiết để thực hiện nhiệm vụ [51].
Cơ quan Giải quyết tranh chấp được nhóm họp để xem xét và phê chuẩn
các phán quyết về giải quyết tranh chấp do Ban Hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc
thẩm đệ trình. Cơ quan này bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên
(cấp đại sứ hoặc tương đương).
Cơ quan Rà soát chính sách thương mại được nhóm họp để thực hiện
việc rà soát chính sách thương mại của các nước thành viên theo cơ chế rà
soát chính sách thương mại.
1.1.2.3. Các Hội đồng và các Uỷ ban
Gồm có: Hội đồng Thương mại hàng hoá, Hội đồng Thương mại dịch vụ và
Hội đồng về các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (gọi
tắt là “Hội đồng TRIPS”) hoạt động theo chỉ đạo chung của Đại hội đồng.
- Hội đồng Thương mại hàng hoá giám sát việc thực hiện các Hiệp định
Thương mại đa biên trong Phụ lục 1A.
- Hội đồng về Thương mại dịch vụ giám sát việc thực hiện Hiệp định
Thương mại dịch vụ.
- Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu
trí tuệ giám sát việc thực hiện Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.


11
Tất cả các Hội đồng này đảm nhiệm những chức năng được quy định
trong các Hiệp định riêng và do Đại Hội đồng giao phó. Các quy tắc về thủ tục
của các Hội đồng này do Hội đồng tự xây dựng và phải được Đại Hội đồng
thông qua.

Bên cạnh ba hội đồng này còn có sáu Ủy ban và cơ quan độc lập khác chịu
trách nhiệm báo cáo lên Đại Hội đồng các vấn đề riêng rẽ như thương mại và
phát triển, môi trường, các thỏa thuận thương mại khu vực, và các vấn đề quản
lý khác. Trong đó có Nhóm công tác về việc gia nhập chịu trách nhiệm làm
việc với các nước xin gia nhập WTO. Trong phạm vi chức năng của mình, Ủy
ban về thương mại và phát triển sẽ định kỳ rà soát các quy định đặc biệt tại
các Hiệp định Thương mại đa biên dành cho các nước kém phát triển nhất và
báo cáo lên Đại Hội đồng để có những quyết sách thích hợp.
Các Hội đồng thành lập ra các cơ quan cấp dưới theo yêu cầu. Các cơ
quan cấp dưới này sẽ tự xây dựng cho mình những quy định về thủ tục và
phải được Hội đồng cấp trên của mình thông qua.
Dưới Hội đồng Thương mại hàng hóa là 11 Ủy ban, 1 nhóm công tác, và
1 Ủy ban đặc thù. Dưới Hội đồng Thương mại dịch vụ là 2 Ủy ban, 2 nhóm
công tác và 2 Ủy ban đặc thù. Dưới Hội đồng Giải quyết tranh chấp là Ban
Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm [28].
Ngoài ra, do yêu cầu đàm phán của Vòng đàm phán Doha, WTO đã
thành lập Ủy ban Đàm phán thương mại trực thuộc Đại Hội đồng để thức đẩy
và tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán. Ủy ban này bao gồm nhiều nhóm
làm việc liên quan đến các lĩnh vực chuyên môn khác nhau.
1.1.2.4. Ban Thư ký
Giúp việc cho các cơ quan cỉa WTO là Ban Thư ký, đứng đầu là Tổng
Giám đốc do Hội nghị Bộ trưởng bổ nhiệm.
Các quy định về quyền hạn, nghĩa vụ, điều kiện phục vụ và thời hạn
phục vụ của Tổng Giám đốc do Hội nghị Bộ trưởng thông qua. Tổng Giám


12
đốc bổ nhiệm các thành viên của Ban Thư ký và quyết định nghĩa vụ và điều
kiện phục vụ phù hợp với quyết định của Hội nghị Bộ trưởng.
Trách nhiệm của Tổng Giám đốc và nhân viên của Ban Thư ký sẽ phải

hoàn toàn mang tính quốc tế. Khi thực hiện bổn phận của mình, Tổng Giám
đốc và nhân viên của Ban Thư ký sẽ không được phép tìm kiếm hoặc chấp
nhận những chỉ thị từ bất kỳ một chính phủ hay một cơ quan nào khác bên
ngoài WTO. Tổng Giám đốc và nhân viên của Ban Thư ký cũng phải tự kiềm
chế đối với bất kỳ một hành động nào có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến vị trí
là quan chức quốc tế của họ.
Các thành viên của WTO phải tôn trọng đặc điểm quốc tế về trách nhiệm
của Tổng Giám đốc, nhân viên của Ban Thư ký và không được gây ảnh
hưởng gì trong quá trình thực thi bổn phận của mình.
Ban Thư ký phục vụ các cơ quan của WTO trong việc thương lượng, dàn
xếp các vấn đề và thực thi các Hiệp định của WTO. Ban Thư ký có một số
nhiệm vụ như: cung cấp, hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển; các
chuyên gia về kinh tế và thống kê cung cấp các thông tin và phân tích chính
sách liên quan đến hoạt động thương mại; các chuyên gia pháp lý hỗ trợ trong
việc giải quyết các tranh chấp thương mại, bao gồm cách hiểu về các quy định
của WTO và trước đó. Ban Thư ký còn giúp giải quyết những vấn đề liên
quan đến gia nhập cũng như tư vấn cho các Chính phủ về tư cách của thành
viên mới [1. tr59].
Các thành viên tham gia vào hoạt động của WTO thông qua phái đoàn
đại diện. Các quyết định quan trọng nhất của WTO được thông qua tại Hội
nghị Bộ trưởng hoặc tại các cuộc họp của Đại hội đồng (cấp đại sứ, họp
thường xuyên tại Genève). Mỗi thành viên có một phiếu biểu quyết, không
phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế hay mức niên liễm đóng góp.
Việc thông qua các quyết định của WTO vẫn được duy trì theo nguyên
tắc của GATT 1947, nghĩa là: một quyết định sẽ được thông qua nếu không


13
có thành viên nào có ý kiến phản đối. Nếu không đạt được sự nhất trí như
trên, các quyết định có thể được thông qua bằng cách bỏ phiếu theo nguyên

tắc đa số, trừ một số trường hợp:
- Sự giải thích với bất kỳ điều nào trong các Hiệp định đa biên: phải có
ít nhất 3/4 các nước thành viên tán thành;
- Trên cơ sở 3/4 nước tán thành, Hội nghị Bộ trưởng có thể cho phép
một nước thành viên khước từ thực hiện một số nghĩa vụ theo Hiệp định của
WTO hoặc Hiệp định thương mại đa biên;
- Việc sửa đổi Hiệp định thương mại đa biên phải được tất cả hoặc ít
nhất 2/3 các nước thành viên tán thành. Tuy nhiên, những sửa đổi này chỉ
ràng buộc đối với những nước đã thông qua [1, tr60].
1.1.3. Các văn kiện pháp lý của WTO
Hạt nhân của WTO là các hiệp định thương mại hoặc “liên quan tới
thương mại" được các thành viên WTO thương lượng và ký kết. Các hiệp
định này là cơ sở pháp lý cho thương mại quốc tế. Đây là những hiệp định
mang tính ràng buộc, các chính phủ phải duy trì chính sách thương mại trong
những giới hạn đã thỏa thuận. WTO có các văn kiện pháp lý sau:
Hiệp định thành lập WTO, thường gọi tắt là Hiệp định WTO. Kèm theo
Hiệp định này là các Hiệp định trong các Phụ lục [28]:
Phụ lục 1:
Phụ lục 1A: Các Hiệp định đa biên về thương mại hàng hóa
- Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994
- Hiệp định Nông nghiệp
- Hiệp định về Áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật
- Hiệp định về Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại
- Hiệp định về Hàng dệt may (đã hết hiệu lực từ ngày 01/01/2005)
- Hiệp định về các Biện pháp đầu tư liên quan đến Thương mại (TRIMs)
- Hiệp định về Chống bán phá giá (Điều VI của GATT 1994)


14
- Hiệp định về Xác định trị giá tính thuế hải quan (Điều VII của GATT 1994)

- Hiệp định về Giám định hàng hóa trước khi gửi hàng (PSI)
- Hiệp định về Quy tắc xuất xứ
- Hiệp định về Thủ tục cấp phép nhập khẩu
- Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng
- Hiệp định về các Biện pháp tự vệ
Phụ lục 1B: Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS)
Phụ lục 1C: Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của
quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS)
Phụ lục 2: Hiệp định về Quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp trong
khuôn khổ WTO (DSU)
Phụ lục 3: Hiệp định về Cơ chế rà soát chính sách thương mại
Phụ lục 4: Các Hiệp định thương mại nhiều bên
Phụ lục 4A: Hiệp định về Thương mại máy bay dân dụng
Phụ lục 4B: Hiệp định về Mua sắm Chính phủ
Phụ lục 4C: Hiệp định quốc tế về sữa (đã chấm dứt năm 1997)
Phụ lục 4D: Hiệp định quốc tế về thịt bò (đã chấm dứt năm 1997)
Các Hiệp định đa biên (Phụ lục 1, 2, 3), mang tính bắt buộc, các thành
viên phải cam kết tuân thủ theo nguyên tắc “chấp nhận cả gói”. Các hiệp định
nhiều bên (Phụ lục 4) không mang tính bắt buộc, các thành viên được khuyến
khích tham gia trên cơ sở tự nguyện. Tuy nhiên, các thành viên mới gia nhập
từ năm 1995 đều phải tham gia các hiệp định này, chí ít là cũng phải đàm
phán và đưa ra cam kết nào đó [13].
1.1.4. Chức năng của WTO
Chức năng của WTO được nêu trong Hiệp định thành lập WTO. Theo
đó, WTO có những chức năng cơ bản sau đây:
- Quản lý, giám sát và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi các hiệp định
của WTO. Trước khi WTO được thành lập, chỉ tồn tại duy nhất một hiệp định đa


15

phương là GATT và hiệp định này chỉ điều chỉnh thương mại hàng hóa. WTO
có một hệ thống hiệp định đa phương (bắt buộc) và hiệp định nhiều bên (không
bắt buộc) với phạm vi điều chỉnh được mở rộng sang cả các lĩnh vực khác như
thương mại dịch vụ, các biện pháp về đầu tư liên quan đến thương mại và các
khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.
- Thúc đẩy tự do hóa thương mại thông qua các cuộc đàm phán đa
phương về tự do hóa thương mại. Năm 2001, vòng đàm phán đầu tiên của
WTO được phát động với tên gọi là Nghị trình Phát triển Doha, hay Vòng
Doha. Vòng đàm phán này cho tới nay vẫn chưa kết thúc và không có nhiều
dấu hiệu khả quan cho việc đạt được các thoả thuận.
- Giải quyết tranh chấp thương mại giữa các thành viên theo các quy tắc,
trình tự, thủ tục do WTO quy định. Đây là bước phát triển mới so với GATT,
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bảo đảm tuân thủ các luật lệ của
WTO cũng như sự bình đẳng giữa các thành viên.
- Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển thông qua
các chương trình tư vấn, đào tạo nguồn nhân lực; hợp tác với các tổ
chức quốc tế khác.
1.1.5. Các nguyên tắc cơ bản của WTO
Để thực hiện các chức năng của mình, WTO hoạt động trên cơ sở các
nguyên tắc sau đây:
- Không phân biệt đối xử: là nguyên tắc quan trọng nhất của WTO, thể
hiện qua hai chế độ là đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT). Đối
xử tối huệ quốc được hiểu là nếu một nước thành viên WTO dành cho một
nước thành viên sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ phải dành sự ưu
đãi đó cho tất cả các thành viên khác của WTO. Đối xử NT quy định phải dành
cho hàng hóa, dịch vụ và doanh nghiệp nước ngoài sự đối xử bình đẳng như
dành cho hàng hóa, dịch vụ và doanh nghiệp trong nước. WTO cho phép có
ngoại lệ về đối xử MFN và NT nhưng phải theo đúng quy định của WTO.



16
- Thúc đẩy tự do hóa thương mại thế giới: thông qua đàm phán dỡ bỏ
rào cản giữa các quốc gia, bao gồm cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các
biện pháp phi thuế, xử lý các hành vi gây lệch lạc thương mại như trợ cấp,
phá giá, v.v…
Mặc dù chủ trương về tự do hóa thương mại nhưng WTO vẫn thừa nhận
bảo hộ mậu dịch trong nước bằng hàng rào thuế quan bởi thực tế còn tồn tại
sự chênh lệch về trình độ phát triển thương mại giữa các nước. Việc bảo hộ
mậu dịch được thực hiện bằng hàng rào thuế quan, không ủng hộ biện pháp
hàng rào phi thuế quan. Các nước phải công bố mức thuế trần cam kết và lộ
trình cắt giảm thuế thông qua sự thương lượng. Hàng rào thuế quan chỉ có
giảm, không có tăng. Nếu tăng thì phải bồi thường nhanh chóng, kịp thời cho
các nước thiệt hại.
Tự do hóa thương mại đòi hỏi nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh, công
bằng. Điều này hạn chế sự can thiệp của nhà nước một cách không phù hợp,
bóp méo thị trường hoặc loại trừ những bất bình đẳng, trong đó thể hiện ở
nhiều lĩnh vực như: cấp phép xuất, nhập khẩu, trợ giá, quyền của doanh nghiệp
nhà nước, bán pháp giá, quản lý ngoại hối, quản lý giá cả và nhiều hạn chế phi
thuế quan khác. Thực tế hiện nay, sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới
2008-2009, hiện tượng bảo hộ mậu dịch trong nước đang cản trở tiến trình tự
do hóa thương mại mà một trong số đó là việc EU tuyên bố kiện các nước
Châu Phi về vấn đề này [28].
- Minh bạch: bao gồm minh bạch về xây dựng chính sách pháp luật và
minh bạch về tiếp cận thị trường (minh bạch trong thực thi pháp luật). Các nội
dung cụ thể của nguyên tắc này là nội dung chính của luận văn, sẽ được nêu
cụ thể trong các chương sau.
- Nguyên tắc dành thuận lợi hơn cho các nước đang phát triển và nước
chậm phát triển.



17
Theo nguyên tắc này, các nước phát triển không đòi hỏi nguyên tắc có
đi, có lại đối với các nước đang phát triển và nước chậm phát triển trong các
cam kết, giảm hoặc bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế quan. Các nước phát triển
dành chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập đối với các nước đang phát triển và chế
độ ưu đãi thương mại đặc biệt cho các nước chậm phát triển.
Ngoài ra, còn có thể thấy một số nguyên tắc khác của WTO như:
nguyên tắc không hạn chế số lượng hàng hóa, nguyên tắc đảm bảo quyền
khước từ và tự vệ trong trường hợp khẩn cấp, nguyên tắc tôn trọng các tổ
chức thương mại khu vực,…
1.2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA WTO VỀ MINH BẠCH
Minh bạch là một trong những nguyên tắc cơ bản của WTO, xuất phát
từ yêu cầu đòi hỏi khách quan của quá trình tự do hóa thương mại quốc tế, là
vấn đề rất được các bên quan tâm trong quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập
tổ chức này. Đặc biệt là sự quan tâm của các quốc gia thành viên đối với
những quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi, xin gia nhập, như trường
hợp của Việt Nam, Trung Quốc, Nga và các nước Đông Âu, Sự quan tâm
của mỗi thành viên nhằm mục đích đảm bảo, giúp cho các doanh nghiệp của
mình đầu tư hiệu quả, an toàn trong thị trường nước ngoài. Đây là một trong
những chức năng đối ngoại quan trọng của Chính phủ các nước trong quá
trình hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế.
Để thực hiện mục tiêu tự do hóa thương mại của WTO, mỗi quốc gia
thành viên luôn phải thực hiện đầy đủ cam kết về minh bạch các quy định của
pháp luật liên quan hoặc tác động đến thương mại. Đây là nghĩa vụ pháp lý
ràng buộc đối với tất cả các thành viên và đòi hỏi phải được thực hiện thường
xuyên, liên tục. Vi phạm yêu cầu này là vi phạm nguyên tắc cơ bản của WTO.
Trong thực tế, đã có nhiều vụ kiện liên quan đến những vi phạm này.
Khi ký kết Hiệp định thành lập WTO, các quốc gia thành viên đã bày tỏ
sự nhận thức và thừa nhận giá trị cố hữu của các quyết sách thương mại minh



18
bạch nội địa của chính phủ cho cả nền kinh tế của các thành viên và hệ thống
thương mại đa biên, và đồng ý khuyến khích, tăng cường sự minh bạch hơn
nữa trong các hệ thống của họ, công nhận rằng việc thực hiện minh bạch nội
địa phải dựa trên cơ sở tự nguyện và có tính đến hệ thống chính trị và pháp
luật của mỗi thành viên [57].
Các quy định về minh bạch của WTO được nêu trong nhiều điều của các
Hiệp định khác nhau, bao gồm cả về minh bạch xây dựng chính sách, cả về
minh bạch thực thi chính sách, như:
- Điều X Hiệp định chung về thuế quan và thương mại;
- Điều 2.9 Hiệp định về Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại;
- Điều 2g và Điều 3e Hiệp định về quy tắc xuất xứ hàng hóa;
- Điều 25 Hiệp định trợ cấp và các biện pháp đối kháng;
- Điều 12 Hiệp định về các biện pháp tự vệ;
- Điều 7 Hiệp định về Áp dụng các biện pháp kiểm dịch động thực vật;
- Điều 63 Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của
quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS);
- Điều 18.2.3 Hiệp định Nông nghiệp;
- Điều 6.1 Hiệp định về các Biện pháp đầu tư liên quan đến Thương mại
(TRIMs);
- Điều III Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS).
Việc quy định nghĩa vụ về minh bạch trong nhiều Hiệp định như đã nêu
trên cho thấy tầm quan trọng của nguyên tắc này cũng như sự quan tâm của
các quốc gia về vấn đề minh bạch trong quá trình đàm phán, xây dựng các
hiệp định của WTO nhằm thúc đẩy quá trình tự do hóa thương mại quốc tế.
Hiện nay, vấn đề minh bạch đang tiếp tục được đàm phán ở những mức
độ khác nhau trong Vòng đảm phán Doha mặc dù không với tư cách là một
vấn đề đàm phán độc lập mà nằm trong các nội dung đàm phán của các lĩnh



19
vực khác nhau, như: mua sắm chính phủ, giải quyết tranh chấp, các quy định
về các biện pháp thương mại (chống bán phá giá, trợ cấp, ) [1, tr452].
Minh bạch trong WTO bao gồm: minh bạch về xây dựng chính sách và
minh bạch về thực thi chính sách (mở cửa thị trường). Minh bạch về xây
dựng chính sách yêu cầu mọi quy định có liên quan đến thương mại của một
thành viên phải được công bố công khai, dễ tiếp cận, phù hợp với luật lệ của
WTO và áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ. Đồng thời, phải dành cơ hội
thoả đáng cho các bên có liên quan được góp ý trong quá trình xây dựng,
ban hành. Minh bạch thực thi chính sách yêu cầu các thành viên phải thực
thi nghiêm chỉnh các cam kết, thỏa thuận, đảm bảo không làm cho tình trạng
phức tạp hơn, không tăng hàng rào thuế quan và phi thuế quan, cải cách thủ
tục hành chính theo hướng đơn giản, thuận tiện cho quá trình tự do hóa
thương mại, không phân biệt đối xử,…
Dưới đây là những quy định cụ thể về các khía cạnh khác nhau của yêu
cầu minh bạch trong WTO.
1.2.1. Công khai văn bản pháp luật về thương mại
Yêu cầu về công khai các văn bản pháp luật, các điều ước quốc tế mà
quốc gia đó là thành viên có liên quan hoặc ảnh hưởng đến thương mại, bao
gồm cả thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ, là yêu cầu quan trọng
đầu tiên trong số các quy định của WTO về minh bạch. Bởi vì, không thể có
tự do thương mại, không thể có cạnh tranh lành mạnh; và, không thể được coi
là không phân biệt đối xử nếu như các doanh nghiệp không được tiếp cận
khung pháp lý của một quốc gia một cách nhanh chóng, đầy đủ, công bằng.
Nói cách khác, nếu không có minh bạch văn bản pháp luật thì sẽ không có
cạnh tranh lành mạnh, không có tự do hóa thương mại và sẽ tạo ra bất bình
đẳng giữa doanh nghiệp được tiếp cận và doanh nghiệp không được tiếp cận
luật chơi; đồng thời, điều chắc chắn là sẽ rất rủi ro cho các nhà đầu tư không
biết luật chơi ấy. Nhận thức được tầm quan trọng của yêu cầu này, nên mặc



20
dù quy định về công khai các quy định của pháp luật đã đươc nêu trong Điều
X GATT, Điều III GATS, nhưng chúng vẫn được nhắc lại trong nhiều điều
của các Hiệp định khác như sẽ nêu ở dưới đây:
Điều X GATT về công bố và quản lý các quy tắc thương mại quy định:
Các luật, quy tắc, quyết định pháp luật và quy tắc hành chính có hiệu lực
chung, được bất cứ bên ký kết nào áp dụng liên quan tới việc phân loại hay
định trị giá sản phẩm nhằm mục đích thuế quan, hay liên quan tới suất thuế
quan, thuế hay phí, hay tới các yêu cầu, các hạn chế hay cấm nhập khẩu hay
xuất khẩu hay thanh toán tiền hàng xuất nhập khẩu, hay có tác động tới việc
bán, phân phối, vận tải, bảo hiểm, lưu kho, giám định, trưng bày, chế biến, pha
trộn hay sử dụng hàng hoá theo cách nào khác sẽ được công bố khẩn trương
bằng cách nào đó để các chính phủ hay các doanh nhân biết. Các hiệp định có
tác động tới thương mại quốc tế đang có hiệu lực giữa chính phủ hay cơ quan
chính phủ với chính phủ hay cơ quan chính phủ của bất cứ bên ký kết nào cũng
sẽ được công bố.
Các Bên ký kết sẽ không thực thi trước khi công bố chính thức bất cứ
biện pháp nào có phạm vi áp dụng chung mang tính chất nâng suất thuế quan
hay nâng các khoản thu khác đánh vào hàng nhập thuộc diện đang thực hiện
thống nhất và đã mặc định, hoặc áp đặt ở mức cao hơn một yêu cầu, một hạn
chế nhập khẩu hay hạn chế về chuyển tiền thanh toán hàng nhập khẩu.
Yêu cầu về công khai các văn bản pháp luật không áp dụng đối với
những trường hợp liên quan đến bí mật, an ninh quốc gia. Các quy định của
Điều này sẽ không yêu cầu bất cứ một bên ký kết nào phải để lộ thông tin mật
có thể gây trở ngại cho việc thực thi pháp luật, hoặc trái với quyền lợi chung
hoặc gây tổn hại quyền lợi thương mại chính đáng của một doanh nghiệp nào
đó dù là quốc doanh hay tư nhân (Điều X GATT).
Điều 2 Hiệp định về Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại có tên là

Chuẩn bị, thông qua và áp dụng các quy định kỹ thuật của các cơ quan chính


21
phủ, quy định: Khi một tiêu chuẩn quốc tế có liên quan không tồn tại hoặc nội
dung kỹ thuật của một quy định kỹ thuật được dự kiến không phù hợp với nội
dung kỹ thuật của các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan, và có thể gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến thương mại của các Thành viên khác, các Thành
viên phải công bố trên một ấn phẩm vào thời điểm đủ sớm để các bên hữu
quan ở các Thành viên khác được biết rằng mình dự định đưa vào áp dụng
một quy định kỹ thuật cụ thể nào đó (khoản 9 Điều 2);
Các Thành viên đảm bảo rằng các tiêu chuẩn kỹ thuật đã thông qua phải
được công bố ngay hoặc được chuẩn bị sẵn sàng để tạo điều kiện cho các bên
quan tâm của các Thành viên khác được biết (khoản 11 Điều 2).
Điểm 2 (g) và điểm 3 (e) Hiệp định về Quy tắc xuất xứ hàng hóa nêu rõ,
trong thời kỳ quá độ và sau thời kỳ này, các định chế và nguyên tắc xây dựng
các quy tắc về xuất xứ hàng hóa của các Thành viên phải đảm bảo yêu cầu
minh bạch như sau: Các luật, quy định dưới luật, quyết định tư pháp và hành
chính để áp dụng chung liên quan đến quy tắc xuất xứ sẽ được công bố như là
đối tượng chịu sự tác động của sự điểu chỉnh và tuân thủ các quy định tại
khoản 1 Điều X GATT 1994.
Điều III Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) quy định: Các
Thành viên phải nhanh chóng công bố mọi biện pháp có liên quan hoặc tác
động đến việc thi hành Hiệp định này, chậm nhất trước khi các biện pháp đó
có hiệu lực thi hành, trừ những trường hợp khẩn cấp. Những Hiệp định quốc
tế có liên quan hoặc tác động đến thương mại dịch vụ mà các Thành viên
tham gia cũng phải được công bố.
Trong trường hợp việc công bố quy định tại khoản 1 của Điều này không
thể thực hiện được, các thông tin đó phải được công khai theo cách thức khác.
Điều 63 Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại quyền sở

hữu trí tuệ (TRIPS), có tên là Tính minh bạch cũng quy định: Các luật và các
quy định, các quyết định xét xử và các quyết định hành chính cuối cùng để áp

×