Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài và việc thực hiện tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.03 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


NGUYỄN THỊ ANH THƯ
C Ô N G ƯỚC X V M Y O R K XĂM 1 9 5 8
VỂ CÔXG M l Ị v v à t i u h à m
I 'I L Í \ ({1 1 KI I1 ỈỌ \< ; 'IÀI M ( k KGOÀI
VÀ VIỆC THƯC (I 1 ỆA T Ạ I V IỆT »TAM
• • • • •
Chuyên ngành: Luật quốc tế
Mã số: 50512
NGƯỜI HƯÓNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN bá DlẾN
I , r Ị \ VĂX THAC SỶ LUẬT HỌC
• • • •
ĐA> MQC: Q u ố c GỈA HÀ NỎI
TRuKGTaM THCNOTiN .TUƯ VIỆN
u~ \ Í - I C / M
Hà Nội, 11/2002
MỤC LỤC
chương I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẤN ĐỂ CÔNG NHẬN
VÀ THI HÀNH PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI
J J Cơ sở lý luận của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong
thương mại quốc tế
1.2. Phán quyết trọng tài về giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế
1.3. Công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài
1.4. Công nhận và thi hành phán quyết trọng tài trên thế giới
chương II
CÔNG ƯỚC NEW YORK NĂM 1958 VỀ CÔNG NHẬN VÀ
THI HÀNH CÁC PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI


2.1. Khái quát về sự ra đời và thành viên của Công ước
2.2. Các nội dung cơ bản của Công ước
chương III
CÔNG NHẬN VÀ THI HÀNH CÁC PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI
NƯỚC NGOÀI ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG
VÀ PHƯƠNG HƯỚNG THỰC HIỆN
3.1. Lược sử về việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài
nước ngoài tại Việt Nam
3.2. Việt Nam gia nhập Công ước New York năm 1958 về công
nhận và thi hành các phán quyết trọng tài nước ngoài
3.3. Những quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về công
nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài
3.4. Thực trạng công nhận và thi hành các phán quyết trọng tài
nước ngoài ở Việt Nam
3.5. Những đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về vấn đề công nhận và thi hành các phán
quyết trọng tài nước ngoài
PHẦN KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
PHẦN MỜ ĐẦU 1
5
5
14
18
29
37
37
38
60

60
62
64
79
90
100
102
Trang
104
Luận văn Thạc sỹ Luật học
Nguyễn Thị Anh Thư
PHẨN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, quá trình quốc tê hoá đang diễn ra rất mạnh mẽ làm cho giao lưu
kinh tế - thương mại giữa các quốc gia với nhau, giữa cá nhân, tổ chức của quốc gia
này với cá nhân, tổ chức của quốc gia khác ngày càng phát triển. Cùng với sự phát
triển giao lưu kinh tế - thương mại mang tính chất quốc tế, những hình thức giải
quyết tranh chấp kinh tế - thương mại bằng tổ chức trọng tài phi chính phủ ngày
càng được các bên áp dụng rộng rãi. VI vậy, vấn đề công nhận và thi hành các phán
quyết trọng tài nước ngoài để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương
sự trong tranh chấp thương mại quốc tê đã và đang đặt ra những vấn đề cấp bách cần
nghiên cứu xem xét.
Ngày 10/06/1958 tại New York, Công ước về công nhận và thi hành các phán
quyết của trọng tài nước ngoài đã được các quốc gia ký kết. Đây là văn bản pháp lý
quốc tế rất quan trọng, là cơ sở pháp lý quốc tế để thực hiện công nhận và thi hành
các phán quyết của trọng tài nước ngoài ở các quốc gia thành viên Công ước. Việt
Nam đã trở thành thành viên của Công ước này từ năm 1995 và vào ngày
14/09/1995, Uỷ han thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh thủ tục công nhận
và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài. Các văn bản pháp luật
liên quan của Việt Nam cùng với Công ước New York năm 1958 là những cơ sở

pháp lý cực kỳ quan trọng để thực hiện việc công nhận và thi hành các phán quyết
trọng tài nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong thực tiễn việc nắm bắt được nội
dung, ý nghĩa của Công ước này cũng như các quy định hiện hành của pháp luật
Việt Nam về công nhận và thi hành các phán quyết trọng tài nước ngoài còn nhiều
bất cập. Điều đó đã phần nào ảnh hưởng đến việc vận dụng các quy định pháp luật,
nhất là trong thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế. Hơn nữa, các quy định của
pháp luật Việt Nam về cồng nhận và thi hành các phán quyết của trọng tài nước
ngoài còn có những điểm bất cập nhất định cần được hoàn thiện trong thời gian tới.
Vì vậy, việc nghiên cứu Công ước 1958 về công nhận và thi hành các phán quyết
trọng tài nước ngoài và việc thực hiện tại Việt Nam là rất cần thiết nhằm:
- Làm sáng tỏ nội dung, ý nghĩa của Công ước New York năm 1958 và các qu>
1
Luận văn Thạc sỹ Luật học
Nguyễn Thị Anh Thư
định hiện hành của pháp luật Việt Nam về công nhận và thi hành các phán quyết
trọng tài nước ngoài.
- Chỉ ra những điểm còn hạn chế, bất cập của các quy định hiện hành của pháp
luật Việt Nam.
- Đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về công nhận và thi hành các
phán quyết trọng tài nước ngoài.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, đã có một số cồng trình nghiên cứu những vấn đề liên quan về công
nhận và thi hành các phán quyết trọng tài nước ngoài nói chung và Công ước New
York năm 1958 nói riêng. Những công trình đó là: Trọng tài quốc tế (Nhà pháp luật
Việt - Pháp, Nxb Chính trị quốc gia); Trọng tài phi chính phủ - Cơ quan giải quyết
tranh chấp kinh tế ở Việt Nam (Nguyễn Thị Thuận, Luận án Thạc sỹ Luật học, Hà
Nội 1996); Giải quyết tranh chấp trong ngoại thương bằng xét xử tại trọng tài quốc
tế và thực tiễn ở Việt Nam (Dương Quốc Thành, Luận án Thạc sỹ Luật học, Hà nội
1997); Các vấn đề cơ bản trong việc soạn thảo pháp lệnh trọng tài (Trần Hữu Huỳnh,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2/2000); về các điều kiện công nhận và thi hành

tại Việt Nam quyết định của trọng tài (Nguyễn Trung Tín, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật số 6/2000); ý nghĩa của việc công nhận và thi hành phán quyết của trọng
tài nước ngoài ở Việt Nam (Nguyễn Trung Tín, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
11/1997); Về mối quan hệ giữa Toà án và Trọng tài trong việc bảo đảm hiệu quả
giải quyết tranh chấp kinh tế bằng trọng tài (Dương Thanh Mai, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật số 12/1997); Giáo trình Tư pháp quốc tế, khoa Luật Đại học Quốc gia
năm 2001 Tuy vậy, các công trình nghiên cứu trên chỉ đề cập ở những khía cạnh
nhất định còn đề cập một cách toàn diện về Công ước New York 1958 và việc thực
hiện Công ước này tại Việt Nam cho đến nay chưa được nghiên cứu đầy đủ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích: Đề tài nghiên cứu làm sáng tỏ nội dung, nghiên cứu các nội dung
cơ bản của Công ước New York 1958, các quy định hiện hành của Pháp luật Việi
Nam về công nhận và thi hành các phán quyết của trọng tài nước ngoài, đề xuất cát
luận cứ khoa học nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về công nhận và thi hành cá<
2
Luận văn Thạc sỹ Luật học
Nguyễn Thị Anh Thư
phán quyết của trọng tài nước ngoài. Đề tài cũng nghiên cứu thực trạng của pháp
luật hiện hành Việt Nam để từ đó đưa ra những kiến nghị cụ thể nhằm góp phần
hoàn thiện Pháp luật Việt Nam về cồng nhận và thi hành các phán quyết trọng tài
nước ngoài.
- Nhiệm vụ: Đề tài nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn để cơ bản sau:
+ Những vấn đề chung về công nhận và thi hành các phán quyết trọng tài nước
ngoài theo Công ước New York 1958.
+ Những vấn đề về việc công nhận cho thi hành phán quyết trọng tài nước
ngoài theo pháp luật một số nước.
+ Những vấn đề về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài
theo pháp luật Việt Nam và một số đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt
Nam.
4. Đòi tượng và phương pháp nghiên cứu đề tài

- Đối tượng: Nghiên cứu vấn đề công nhận và thi hành các phán quyết của
trọng tài nước ngoài theo Công ước New York 1958 và việc thực thi tại Việt Nam.
- Phương pháp: Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng phương pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử với các phương pháp cụ thể là tổng hợp, phân tích
(bao gồm cả phân tích luật thực định, so sánh, đôi chiếu ).
5. Giới hạn của đề tài
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về công nhận và
thi hành các phán quyết trọng tài nước ngoài để làm cơ sở lý luận cho đề tài.
Đề tài chỉ nghiên cứu vấn đề công nhận và thi hành các phán quyết trọng tài
nước ngoài ở một số nước để có cơ sở so sánh.
Đồng thời đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của Công ước New York
1958 nhằm làm sáng tỏ nội dung của Công ước này và chú trọng nghiên cứu các quy
định hiện hành của pháp luật Việt Nam về công nhận và thi hành phán quyết của
trọng tài nước ngoài.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn đó, đề tài đưa ra những kiến nghị hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề công nhận và thi hành các phán quyết trọng tài
nước ngoài.
3
Luận văn Thạc sỹ Luật học
Nguyên Thị Anh Thư
6. Những đóng góp của luận văn
+ Nghiên cứu tổng thể và toàn diện quy định Công ước New York 1958 về
công nhận và cho thi hành các phán quyết của trọng tài nước ngoài;
+ Đưa ra các luận cứ khoa học mới nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
công nhận và cho thi hành các phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam.
Với những kết quả nghiên cứu. đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho những người học tập, làm công tác nghiên cứu, giảng dạy pháp luật. Đề tài
còn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan lập pháp trong quá trình xây dựng, hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài và pháp luật
thương mại nói chung. Đồng thời, đề tài cũng có thể được sử dụng trong thực tiễn

hoạt động thương mại quốc tế của các cá nhân, tổ chức.
7. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài gồm:
-
Phần mở đầu
- Phẩn nội dung:
+ Chương 1: Khái quát chung về vấn đề công nhận và thi hành phán quyết của
trọng tài nước ngoài.
+ Chương 2: Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành các
phán quyết của trọng tài nước ngoài.
+ Chương 3: Công nhận và thi hành các phán quyết của trọng tài nước ngoài ở
Việt Nam, thực trạng và phương hướng hoàn thiện.
-
Phần kết luận
4
Luận văn Thạc sỹ Luật học
Nguyễn Thị Anh Thư
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỂ VẤN ĐỂ CÔNG NHẬN
VÀ THI HÀNH PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI
1.1. c ơ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP b ằn g t r ọn g tài
TRONG THUƠNG MẠI ọ u ố c TẾ
1.1.1 Khái niệm trọng tài trong thương mại quốc tẽ
Trong thương mại nói chung và trong thương mại quốc tế nói riêng khó có thể
tránh khỏi tranh chấp xảy ra. Mỗi khi tranh chấp thương mại xảy ra thì cần phải
được giải quyết nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự, góp phần
thúc đẩy quan hệ thương mại phát triển. Có nhiều phương thức khác nhau để giải
quyết tranh chấp thương mại như thương lượng, hoà giải, trọng tài và toà án. Trong
các phương thức giải quyết tranh chấp đó thì trọng tài là một phương thức giải quyết
tranh chấp có nhiều ưu điểm và phổ biến nhất hiện nay.

Hiện nay có khá nhiều quan điểm khác nhau về "trọng tài thương mại”. Dưới
đây là một số định nghĩa:
"Trọng tài là cơ quan xét xử do các bên đương sự thoả thuận thành lập trong
khuôn khổ pháp luật cho phép để giải quyết tranh chấp giữa chính các bên đương sự
đó. Thành phần của trọng tài do các bên đương sự thoả thuận quyết định"[9, tr. 272],
"Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động
thương mại được các bên thoả thuận và được tiến hành theo thủ tục tố tụng do pháp
lệnh này quy định"[2].
"Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp hằng cách dùng một bên
thứ ba với tư cách là bên trung lập để giải quyết và quyết định đó có hiệu lực thi
hành với các bên trong tranh chấp"[15, tr. 50].
Các định nghĩa nêu trên đã nêu lên được những đặc điểm cơ bản của trọng tài
thương mại ở khía cạnh này hay khía cạnh khác. Có thể nêu lên một định nghĩa khái
quát mang tính tổng thể về trọng tài thương mại như sau:
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại do các bên tranh chấp tự nguyện lựa chọn, trong đó bên thứ ba trung
5
Luận văn Thạc sỹ Luật học
Nguyễn Thị Anh Thư
lập (trọng tài viên hoặc các trọng tài viên) sau khi tìm hiểu nội dung vụ
tranh chấp sẽ ra một phán quyết giải quyết tranh chấp có tính chất bắt
buộc đối với các bên tranh chấp.
Lịch sử phát triển của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là đi từ
đơn giản đến phức tạp. Ở thời kỳ đầu mới xuất hiện, trọng tài là phương thức giải
quyết tranh chấp rất đơn giản. Khi hai bên chủ thể trong quan hệ thương mại phát
sinh tranh chấp mà thương lượng, hoà giải không thành thì họ có thể thoả thuận lựa
chọn người thứ ba mà họ quen biết làm trọng tài viên trung lập đê phân xử tranh
chấp cho họ. Tiêu chí của trọng tài viên là có chuyên môn, độc lập, công bằng,
khách quan để có thể hiểu được bản chất của vụ tranh chấp. Hai bên tranh chấp tự
do thoả thuận về thẩm quyền của trọng tài, thủ tục tiến hành giải quyết tranh chấp.

Cho đến hiện nay, xung quanh phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có
rất nhiều vấn đề, thể hiện sự phát triển, tính đa dạng và phức tạp của nó như: Thoả
thuận trọng tài, lựa chọn trọng tài, luật áp dụng cho trọng tài, quy tắc tố tụng trọng
tài, hiệu lực của phán quyết trọng tài, công nhận và thi hành phán quyết của trọng
tài nước ngoài
Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài phải xuất phát từ sự thoả thuận của
các bên tranh chấp. Các bên tranh chấp thoả thuận về việc đưa tranh chấp ra giải
quyết bằng trọng tài, trong đó có những thoả thuận cụ thể về cơ quan trọng tài, thẩm
quyền trọng tài, quy tắc tố tụng trọng tài, luật áp dụng cho trọng tài. Vì thế phương
thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trước hết phụ thuộc vào ý chí của các bên
tranh chấp còn phương thức giải quyết tranh chấp bằng toà án thì khác ở nhiều điểm,
bởi vì, toà án là cơ quan công quyền, thẩm quyền và thủ tục tố tụng của toà án được
quy định rõ trong luật của nước có toà án, các bên tranh chấp không có quyền thoả
thuận thủ tục tố tụng để toà án giải quyết tranh chấp
Trọng tài giải quyết tranh chấp trong thương mại là trọng tài phi chính phủ,
mang tính chất tư nhân mà không phải là công quyền. Thế nhưng nhiệm vụ, hoạt
động giải quyết tranh chấp của trọng tài có bản chất tài phán, xét xử. Cơ quan trọng
tài, trọng tài viên tuy do các bên tranh chấp thoả thuận lựa chọn nhưng khi giải
quyết tranh chấp, trọng tài viên phải công bằng để xác định phải trái giữa các bêr
6
Luận văn Thạc sỹ L uật học Nguyễn Thị Anh Thư
theo một thủ tục tố tụng rõ ràng, chặt chẽ và phán quyết của trọng tài có hiệu lực bắt
buộc đối với các bên tranh chấp.
* Trọng tài trong thương mại quốc tế:
Trọng tài thương mại quốc tế được hiểu "là phương thúc giải quyết tranh chấp
phát sinh từ các quan hệ tư pháp quốc tế, nhất là các quan hệ thương mại quốc tế mà
pháp luật cho phép giải quyết được bằng trọng tài. Theo phương thức này, các bên
nhất trí thoả thuận với nhau là sẽ đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại một cơ quan
trọng tài nhất định nào đó"[l, tr. 378].
Cùng với sự phát triển quan hệ thương mại quốc tế, thì việc giải quyết tranh

chấp thương mại quốc tế cũng ngày càng phát triển. Tuy nhiên, quan niệm về trọng
tài thương mại quốc tế chưa có sự thống nhất. Theo Luật mẫu về Trọng tài Thương
mại quốc tế ngày 21/6/1985 của Uỷ ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế,
một tổ chức trọng tài mang tính chất quốc tế khi có một trong các dấu hiệu:
“ a) Các bên tham gia vào thoả thuận trọng tài có trụ sở tại nhiều nước khác
nhau như ở thời điểm ký kết thoả thuận ấy.
b) Một trong những địa điểm sau đây nằm ở ngoài đất nước mà ở đó các bên
có trụ sở:
- Nơi tiến hành tố tụng trọng tài, nếu nơi này được quy định trong thoả thuận
trọng tài hoặc được xác định căn cứ theo thoả thuận ấy;
- Mọi địa điểm mà ở đó một phần chủ yếu của các nghĩa vụ phát sinh từ quan
hệ thương mại hoặc nơi mà nội dung tranh chấp có mối liên hệ chặt chẽ nhất;
c) Các bên đã thoả thuận dứt khoát với nhau là nội dung của thoả thuận trọng
tài có liên quan đến hơn một nước [8].
Như vậy, quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thực chất là quá trình
mà các bên tranh chấp định ra cho trọng tài viên xét xử. Các bên tranh chấp định ra
cho trọng tài viên xét xử bằng hai cách:
Thứ nhất, các bên trực tiếp quy định quy tắc xét xử trọng tài;
Thứ hai, các bên dẫn chiếu đến một quy tắc đã được xác định trước của một tổ
chức trọng tài có sẵn. Tương ứng với cách thứ nhất có trọng tài vụ việc. Tương ứng
với cách thứ hai có trọng tài thường trực.
7
Luận văn Thạc sỹ L uật học
Nguyễn Thị Anh Thư
* Trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc):
Hình thức trọng tài do các bên tranh chấp thoả thuận thành lập để giải quyết
một vụ tranh chấp cụ thể và tự giải tán sau khi giải quyết xong tranh chấp. Trọng tài
vụ việc có đặc điểm là:
- Không có trụ sở cô định;
- Không phụ thuộc vào một quy tắc xét xử nào;

- Trọng tài xét xử thường là một trọng tài viên duy nhất do các bên thoả
thuận lựa chọn.
Trọng tài vụ việc có những ưu điểm là tổ chức trọng tài gọn nhẹ, hoạt động xét
xử linh hoạt, thời gian xét xử thường ngắn, chi phí xét xử thấp và khả năng bảo đảm
bí mật kinh doanh tốt. Thoả thuận chọn trọng tài vụ việc “thông thường là phù hợp
với tính chất và điều kiện cụ thể của tranh chấp hon là trọng tài thường trực”[6, tr. 55].
Bên cạnh những ưu điểm, trọng tài vụ việc có những nhược điểm là: không có
một quy tắc xét xử được định trước nên đòi hỏi sự thiện chí hợp tác của các bên để
xây dựng quy tắc xét xử, trong khi đó vấn đề này thường không phải khi nào cũng dễ
thực hiện nhất là đối với bên vi phạm hợp đồng khi tổ chức thực hiện. Trọng tài vụ
việc thường phụ thuộc vào hệ thống pháp luật nơi xét xử trọng tài; danh tiếng của
trọng tài vụ việc thường thấp so với trọng tài thường trực nên có ảnh hưởng đến việc
thi hành phán quyết trọng tài, nhất là việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài
ở nước ngoài.
* Trọng tài thường trực (trọng tài quy chế):
Hình thức trọng tài có tổ chức được thành lập để hoạt động thường xuyên, có
trụ sở cố định, có điều lệ và quy tắc xét xử riêng được xác định trước. Trọng tài
thường trực có đặc điểm là:
- Có tính tổ chức có chủ tịch, thư ký và các trọng tài viên;
- Hoạt động thường xuyên, không phụ thuộc vào một vụ tranh chấp nào đó;
- Có trụ sở cố định;
- Điều lệ và quy tắc xét xử được xây dựng trước cho trọng tài;
- Trọng tài xét xử có thể là một trọng tài viên duy nhất do các bên tranh chấp
lựa chọn hoặc ba trọng tài viên (trong trường hợp này mỗi bên tranh chấp lựa chọn
8
Luận văn Thạc sỹ Luật học
Nguyễn Thị Anh Thư
cho mình một trọng tài viên, hai trọng tài viên được chọn sẽ chọn trọng tài viên thứ
ba, nếu không chọn được trọng tài viên thứ ba thì chủ tịch cơ quan trọng tài sẽ chỉ
định) [11].

Trọng tài thường trực có những ưu điểm là có quy tắc tố tụng riêng, được quy
định cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ, đổng thời quy tắc tố tụng này thường xuyên được
nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với sự phát triển của trọng tài thương mại;
các lĩnh vực khác nhau như: Luật pháp, tài chính, xây dựng, bảo hiểm, đầu tư để
bảo đảm giải quyết tranh chấp được chính xác nhất; các hoạt động hành chính dịch
vụ khá quy củ, được tổ chức chu đáo, có chất lượng giúp các bên tranh chấp tiết kiệm
được thời gian và chi phí; lệ phí trọng tài được tính dựa trên một cơ sở nhất định và
được quy định trước giúp cho các bên có sự chuẩn bị chi phí.
Bên cạnh những ưu điểm, trọng tài thường trực cũng có những nhược điểm là:
chi phí cho trọng tài thường tốn hơn do phải duy trì hoạt động của bộ máy hành
chính, văn phòng; quy tắc tố tụng được quy định trước nên có sự cứng nhắc, các bên
muốn rút ngắn hoặc bổ sung một số giai đoạn tố tụng khi cần thiết là rất khó. Trong
khi đó "tính chất đơn giản, linh hoạt, mềm dẻo về mặt thủ tục tố tụng trọng tài là một
trong những điểm ưu việt thường được các chủ thể của tranh chấp hết sức chú trọng
khi lựa chọn phương pháp giải quyết tranh chấp "[1, tr. 379],
Hiện nay, việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức trọng tài
thường được các bên lựa chọn và sử dụng. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài phù hợp và đáp ứng tốt với mong muốn của các bên tham gia quan hệ
thương mại do có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, thủ tục tố tụng trọng tài đơn giản, thuận tiện và nhanh chóng hơn so
với thủ tục tố tụng toà án.
Thủ tục tố tụng trọng tài thường ngắn gọn, đơn giản và điều đặc biệt là không
có giai đoạn xét xử phúc thẩm, tái thẩm hoặc giám đốc thẩm như của toà án. Tố tụng
hình sự chỉ hiểu ra ở một cấp duy nhất, phán quyết của trọng tài có giá trị chung
thẩm và không thể bị kháng cáo, kháng nghị tại bất kỳ trọng tài hoặc toà án nào
khác. Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài vụ việc, các bên tranh chấp còn định
ra cả nguyên tắc, thủ tục tố tụng trọng tài.
9
Luận văn Thạc sỹ Luật học
Nguyễn Thị Anh Thư

Thứ hai, phán quyết của trọng tài thường khách quan, có độ chính xác và tin
cậy cao.
Đặc điểm này xuất phát từ lý do: phán quyết của trọng tài được đưa ra bởi
các trọng tài viên là những chuyên gia am hiểu sâu về lĩnh vực mà các bên có
tranh chấp; đồng thời các trọng tài viên phải luôn cố gắng giải quyết chính xác,
khách quan tranh chấp để tạo uy tín và độ tin cậy thì mới hy vọng được các bên
tranh chấp lựa chọn làm trọng tài viên giải quyết.
Thứ ba, khả năng giữ chữ tín và bí mật kinh doanh cao.
Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhất thiết phải có sự thoả thuận
của các bên tranh chấp. Điều này nói lên rằng có sự đồng thuận của các bên
tranh chấp, hạn chế những bất đồng, tranh cãi vô bổ. Hơn nữa, khi trọng tài xét
xử tranh chấp không được tiến hành công khai mà phải xử kín (trừ trường hợp có
sự đồng ý của các bên tranh chấp). Đó là vấn đề mà các bèn tham gia quan hệ
thương mại rất mong muốn. Nó giúp cho các bên giữ chữ tín và bí mật kính
doanh, trong khi đó việc giải quyết tranh chấp bằng toà án mang tính chất tranh
tụng gay gắt và toà án xét xử công khai làm cho việc giữ chữ tín và bí mật kinh
doanh của các bên tranh chấp không được đảm bảo.
Thứ tư, chi phí trọng tài thường ít tốn kém.
Do thủ tục tô' tụng trọng tài đơn giản, nên chi phí trọng tài thường ít tốn
kém so với chi phí kiện tụng trước toà án. Khi đưa tranh chấp ra giải quyết trước
toà án, các bên tranh chấp rất có thể phải theo kiện ở nhiều cấp xét xử của toà án
làm cho các bên mất nhiều công sức và tiền của. Đây là điều mà các bên tham
gia quan hệ thương mại không mong muốn.
1.1.2. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp thương
mại quỏc tê bằng trọng tài
1.1.2.1. Sự cần thiết giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng
trọng tài
Khi thương mại quốc tê xuất hiện và phát triển, nhất là trong điều kiện hiện
nay, quá trình toàn cầu hoá về kinh tế, thương mại diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi phải
có những hình thức giải quyết tranh chấp thích hợp. Trọng tài là một hình thức

10
Luận văn Thạc sỹ Luật học
Nguyễn Thị Anh Thư
giải quyết tranh chấp thích hợp, phổ biến nhất và không thể thiếu trong xã hội
hiện nay. Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài là cần thiết
khách quan vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, không có một cơ quan tài phán quốc tế (toà án quốc tế) để giải
quyết tranh chấp thương mại quốc tế.
Tranh chấp thương mại quốc tế là tranh chấp có tính chất tư nhân. Trên
bình diện quốc tế, các quốc gia không có thoả thuận thành lập cơ quan tài phán
quốc tê để giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế, trong khi đó các quốc
gia có thoả thuận thành lập cơ quan tài phán quốc tế (toà án quốc tế) để giải
quvết tranh chấp giữa các quốc gia với nhau. Vì không có cơ quan tài phán quốc
tế, nên các tranh chấp thương mại quốc tế được giải quyết bằng hệ thống cơ
quan tư pháp của mỗi quốc gia. Đây là một lý do đòi hỏi phải có trọng tài
thương mại quốc tế để đưa vào khoảng trống không có cơ quan tài phán quốc tế
để giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế.
Thứ hai, đối với các nhà kinh doanh, việc giải quyết tranh chấp thương mại
quốc tế bằng toà án của một quốc gia có nhiều điều bất cập.
Với một nhà kinh doanh nước ngoài, việc giải quyết tranh chấp thương mại
quốc tế bằng toà án của một quốc gia khác có những điểm bất cập là:
- Họ thiếu tin tưởng vào toà án của quốc gia khác do họ e ngại về trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ của thẩm phán; e ngại về việc thẩm phán sẽ ưu ái hơn
cho phía nhà kinh doanh của nước họ. Sự e ngại của nhà kinh doanh nước ngoài
vẫn luôn tồn tại kể cả trong thực tế toà án của một quốc gia thực sự độc lập, xét
xử khách quan công minh.
VI thế, có thể nhận xét rằng "Mọi cá nhân, mọi doanh nghiệp đều e ngại
rằng một thẩm phán nước ngoài theo tiên nhiệm có thể ưu ái cho phía người
nước họ hơn. Bất chấp trong thực tế là toà án quốc gia thực sự công minh và độc
'^ập, sự e ngại đó vẫn tồn tại dai dẳng"[10, tr, 18].

- Khi giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tại toà án của một quốc gia,
nhà kinh doanh nước ngoài rất có thể phải đến một đất nước xa xôi, ở đó những
thẩm phán xét xử với những quy tắc tố tụng của toà án xa lạ và không quen
11
Luận văn Thạc sỹ Luật học
Nguyễn Thị Anh Thư
thuộc với họ. Điều này cũng tạo ra tâm lý e ngại cho các nhà kinh doanh.
- Khi giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tại toà án của một quốc gia
nhà kinh doanh nước ngoài rất có thể phải theo kiện với một thời gian dài do
phán quyết của toà án bị xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm, tái thẩm hoặc giám
đốc thẩm hết sức phức tạp.
- Khi giải quyết tranh chấp thương mại tại toà án của một quốc gia, nhà
kinh doanh phải công khai trước toà án, việc xét xử được thực hiện công khai
làm cho uy tín và bí mật kinh doanh của các nhà kinh doanh bị ảnh hưởng.
- Việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng toà án rất dễ dẫn đến
xung đột về thẩm quyền xét xử. Bởi vì, mỗi quốc gia tự quy định pháp luật của
mình bằng thẩm quyền của toà án nước mình xét xử tranh chấp thương mại quốc
tế. Điều này làm cho "cùng một vụ tranh chấp lại thuộc thẩm quyền toà án của
nhiều nước và không một toà án nào trong số đó lại chịu chối từ giải quyết vụ
tranh chấp ”[10, tr. 18].Vấn đề này dẫn đến hệ quả là khi cần công nhận và thi
hành phán quyết của toà án ở nước ngoài thì gặp rất nhiều khó khăn. Đối với
việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, điều rất đặc biệt là không bao giờ xuất
hiện xung đột về thẩm quyền xét xử trọng tài, vì trọng tài xét xử phải có sự thoả
thuận lựa chọn của các bên tranh chấp.
Việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế với những đặc điểm, ưu thế
của nó (đã được trình bầy trong phần 1.1.1.) sẽ khắc phục được những điểm bất
cập khi giải quyết tranh chấp bằng toà án. Đó là điều mà các nhà kinh doanh rất
mong muốn khi tham gia quan hệ thương mại quốc tế.
Như vậy, những lý do trình bầy trên cho chúng ta khẳng định rằng, việc
giải quyết tranh chấp thương mại quốc tê bằng trọng tài là cần thiết khách quan

trong điều kiện hiện nay.
1.1.2.2. Y nghĩa của việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc
tế bằng trọng tài
Việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài có ý nghĩa sau:
- Gidm bớt gánh nặng xét xử cho toà án.
Khi trọng tài tham gia giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, nhất là với
12
Luận văn Thạc sỹ Luật học
Nguyễn Thị Anh Thư
những ưu thế của trọng tài đã thu hút ngày càng nhiều tranh chấp giải quyết
bằng trọna tài và góp phần làm giảm bớt gánh nặng xét xử đối với toà án. Giả sử
không có trọng tài giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, thì khi đó toà án
phải thực hiện nhiệm vụ của mình và nhiệm vụ này rất nặng nề khi mà tranh
chấp thương mại ngày càng nhiều cùng với sự phát triển thương mại quốc tế và
tranh chấp này liên quan đến chuyên môn của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác
nhau và cũng liên quan đến nhiều quốc gia, nhiều hệ thống pháp luật khác nhau.
- Thích ứng với mọi tranh chấp trong thương mại quốc tế.
Với việc các bên tranh chấp có quyển lựa chọn cơ quan trọng tài, trọng tài
viên và quy tắc tố tung trọng tài, đổng thời các trọng tài viên là những chuyên
gia trong các lĩnh vực khác nhau làm cho phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài phù hợp với mọi tranh chấp, có nghĩa là có thể giải quyết có hiệu
quả mọi tranh chấp cho dù tranh chấp đó thuộc bất kể lĩnh vực gì trong thương
mại, xảy ra ở bất cứ nơi nào trên thế giới, liên quan đến bao nhiêu quốc gia và
hệ thống pháp luật khác nhau. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thích ứng được với mọi tranh chấp thương mại quốc tế làm cho đạt được mục
đích điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ thương mại quốc tế, bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của các bên chủ thể tham gia quan hệ thương mại, duy trì
trật tự quan hệ thương mại, đồng thời thúc đẩy sự phát triển quan hệ thương mại
quốc tế.
- Tạo sự yên tâm, tin cậy cho các chủ thể tham gia quan hệ thương mại

quốc tế, góp phẩn thúc đẩy sự phát triển quan hệ thương mại quốc tế.
Các bên chủ thể tham gia quan hệ thương mại quốc tế rất mong muốn có sự
yên tâm, tin cậy khi thiết lập quan hệ giao dịch thương mại, thực hiện các giao
dịch đó cũng như khi giải quyết tranh chấp khi có tranh chấp thương mại xảy ra.
Sự yên tâm, tin cậy có tác dụng thu hút ngày càng nhiều các cá nhân, tổ chức
tham gia quan hệ thương mại quốc tế. Phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại quốc tế bằng trọng tài với những ưu điểm của nó làm cho các bên tranh chấp
yên tâm, tin tưởng để giao phó những vấn đề thuộc về lợi ích của mình cho trọng
tài phân xử. Vì trách nhiệm và uy tín của mình, trọng tài viên phải luôn luôn cố
13
Luận văn Thạc sỹ Luật học
Nguyễn Thị Anh Thư
gắng để giải quyết tranh chấp được chính xác, khách quan và công bằng. Những
điều đó càng làm tăng thêm sự yên tâm, tin tưởng của các bên tham gia quan hệ
thương mại quốc tê và nó cũng góp phần quan trọng thúc đẩy quan hệ thương
mại quốc tế phát triển.
1.2. PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG
MẠI QUỐC TẾ
1.2.1 Khái niệm phán quyết trọng tài nước ngoài
Giai đoạn tô' tụng trọng tài quan trọng nhất là ra phán quyết trọng tài. Các
giai đoạn tố tụng trọng tài (đưa đơn kiện, mở phiên toà, nghe các bên trình bày,
xét xử ) đều hướng tới, phục vụ cho việc ra phán quyết trọng tài. Phán quyết
trọng tài chứa đựng trong đó nội dung quan trọng nhất là quyết định cuối cùng
về phân xử tranh chấp, xác định ai thắng, ai thua kiện, thua kiện thì phải bồi
thường như thế nào, với giá trị là bao nhiêu Phán quyết trọng tài là chung thẩm
và có giá trị bắt buộc đối với các bên tranh chấp. Các bên tranh chấp có nghĩa vụ
phải thi hành phán quyết trọng tài mà không có quyền kháng cáo.
Như vậy, phán quyết trọng tài có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt. Để có
được ý nghĩa quan trọng đó, phán quyết trọng tài nói chung và phán quyết trọng
tài nước ngoài nói riêng phải đảm bảo những yêu cầu sau:

* Cân cứ tuyên phán quyết: Phán quyết của trọng tài phải được tuyên dựa
trên những căn cứ có giá trị. Những căn cứ của phán quyết là cơ sở nền tảng cho
phán quyết tồn tại và có giá trị pháp lý bắt buộc. Phán quyết được tuyên dựa vào
các căn cứ sau:
- Luật áp dụng cho hợp đồng: Luật áp dụng cho hợp đồng có thể là luật do
các bên ký kết hợp đồng lựa chọn hoặc luật của nước được áp dụng dựa trên sự
chỉ dẫn của quy phạm pháp luật xung đột. Luật áp dụng cho hợp đồng là căn cứ
pháp lý để xác định xem hợp đồng mà các bên ký kết có hợp pháp hay không, có
bị vô hiệu hay không, vô hiệu từng phần hay toàn bộ.
- Các điều khoản của hợp đồng: Là căn cứ để xác định xem các bên thoả
thuận cam kết những gì, bên bán có những quyền và nghĩa vụ cụ thể gì, bên mua
có những quyền và nghĩa vụ cụ thể gì. Các điều khoản của hợp đổng là căn cứ
14
Luận văn Thạc sỹ Luật học
Nguyễn Thị Anh Thư
rất quan trọng để xác định xem bên vi phạm nghĩa vụ vi phạm vào điều khoản
nào của hợp đồng, tính chất và mức độ vi phạm như thế nào.
- Tập quán và thông lệ quốc tế về thương mại: tập quán và thông lệ quốc tế
về thương mại rất phổ biến hiện nay và thường được các nhà kinh doanh sử dụng
khi thiết lập các giao dịch thương mại quốc tế. Vì vậy, phán quyết trọng tài cũng
được dựa vào tập quán và thông lệ quốc tế về thương mại để có cơ sở đầy đủ và
toàn diện, góp phần làm cho giải quyết tranh chấp được chính xác và khách
quan.
- Các chứng cứ và tài liệu thu thập được: Là căn cứ rất quan trọng để đánh
giá tính chất, mức độ vi phạm,và lỗi của chủ thể vi phạm. Các chứng cứ và tài
liệu thu thập được chính là cơ sở thực tế của vi phạm dẫn đến tranh chấp thương
mại quốc tế. Đây là căn cứ cũng rất quan trọng mà nếu thiếu căn cứ này thì
không đủ cơ sở để xác định trách nhiệm của bên chủ thể vi phạm.
* Nguyên tắc thông qua phán quyết: Phán quyết trọng tài phải được thông
qua theo nguyên tắc đa số (trừ trường hợp một trọng tài viên duy nhất giải quyết

tranh chấp).
* Hình thức của phán quyết: Phán quyết trọng tài phải được lập thành văn
bản, ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm tuyên phán quyết và phải có chữ ký của
các trọng tài viên. Trong trường hợp một trọng tài khước từ ký vào phán quyết
thì hai trọng tài viên còn lại xác nhận sự khước từ đó và ký vào phán quyết. Đó
là những cơ sở để đảm bảo sự tồn tại và hiệu lực của phán quyết trọng tài.
Thông thường phán quyết trọng tài gồm ba phần:
- Phần thứ nhất: Trình bày yêu cầu của các bên;
- Phần thứ hai: Lý giải, lập luận của trọng tài;
- Phần thứ ba: Quyết định của trọng tài về phần xử tranh chấp.
* Nội dung của phán quyết phải được thể hiện rõ ràng cụ thể, trong đó ghi
rõ trách nhiệm của bên chủ thể vi phạm, quyền của bên chủ thể bị vi phạm. Nội
dung của phán quyết không thể bị sửa chữa (trừ trường hợp có sai sót), không
chịu bất cứ sự giám sát nào và không thể bị kháng cáo, kháng nghị.
Phán quyết trọng tài phải bảo đảm những yêu cầu đó. Phán quyết trọng tài
15
Luận văn Thạc sỹ Luật học
Nguyễn Thị Anh Thư
CÓ hai loại: Phán quyết trọng tài trong nước và phán quyết trọng tài nước ngoài.
Phán quyết trọng tài trong nước là phán quyết do trọng tài trong nước tuyên tại
lãnh thổ của nước có trọng tài đó. Vậy thế nào là phán quyết trọng tài nước
ngoài. Về mặt thuật ngữ, “phán quyết” có nghĩa là “quyết định được thông qua
bởi xét xử” (vì phán có nghĩa là xử). Điều này muốn nói rằng, phán quyết là
quyết định cuối cùng về giải quyết tranh chấp, trong đó chỉ ra bên thắng kiện,
bên thua kiện, trách nhiệm của bên thua kiện. Tuy nhiên, mặt thuật ngữ “phán
quyết” không được sử dụng thống nhất. Có khi người ta sử dụng thuật ngữ
“quyết định" của trọng tài. Thuật ngữ “quyết định” của trọng tài có nghĩa rộng
gồm có: Quyết định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời; quyết định về việc đưa
vụ tranh chấp ra xét xử; quyết định về giải quyết tranh chấp (quyết định về phân
xử tranh chấp - phán quyết). Vì vậy, khi nói “quyết định của trọng tài” (về giải

quyết tranh chấp) được hiểu là quyết định được thông qua bởi xét xử và là quyết
định cuối cùng về giải quyết tranh chấp.
“Phán quyết trọng tài nước ngoài" được dùng để chỉ cả các phán quyết của
trọng tài nước ngoài (do trọng tài nước ngoài tuyên) và các phán quyết của trọng
tài quốc tế (do trọng tài quốc tế tuyên, ví dụ: trọng tài quốc tế của Phòng thương
mại quốc tế). Việc xem xét thê nào là “phán quyết trọng tài nước ngoài” theo
quan điểm phổ biến hiện nay thì một phán quyết trọng tài được coi là “phán
quyết trọng tài nước ngoài” tại quốc gia hữu quan khi nó thuộc một trong các
trường hợp sau:
- Được tuyên ở ngoài lãnh thổ quốc gia hữu quan;
- Được tuyên tại lãnh thổ quốc gia hữu quan nhưng không được coi là phán
quyết của trọng tài trong nước.
Theo quy định của Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi
hành các phán quyết trọng tài nước ngoài thì phán quyết trọng tài nước ngoài
được hiểu là: “Các phán quyết trọng tài được tuyên tại lãnh thổ của một quốc gia
khác với quốc gia nơi công nhận và thi hành được yêu cầu và xuất phát từ các
tranh chấp giữa các thể nhân hay pháp nhân. Công ước còn được áp dụng chỉ
những phán quyết trọng tài không được coi là phán quyết trong nước của quôc
16
Luận văn Thạc sỹ Luật học Nguyễn Thị Anh Thư
gia nơi việc công nhận và thi hành chúng được yêu cầu”(khoản 1 Điều 1).
Theo Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng
tài nước ngoài năm 1995 thì: “Quyết định của trọng tài nước ngoài được hiểu là
quyết định được tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam của trọng tài do các bên thoả
thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật
thương mại.
Quyết định của trọng tài nước ngoài còn bao gồm quyết định của trọng tài
được tuyên tại lãnh thổ Việt Nam nhưng không do trọng tài Việt Nam tuyên”
(Điều 1).

Như vậy, phán quyết trọng tài nước ngoài là phán quyết của trọng tài về
giải quyết tranh chấp thương mại được tuyên ở ngoài lãnh thổ của quốc gia hữu
quan (nơi phán quyết cần được công nhận và thi hành) hoặc được luyên tại lãnh
thổ của quốc gia hữu quan nhưng không phải do trọng tài của quốc gia đó tuyên.
1.2.2. Đặc điểm của phán quyết trọng tài nước ngoài về giải quyết
tranh chãp thương mại quốc tê
Phán quyết trọng tài nước ngoài về giải quyết tranh chấp thương mại quốc
tế có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, phán quyết được tuyên ở nước ngoài hoặc được tuyên ở trong
nước nhưng do trọng tài nước ngoài tuyên (gồm cả trọng tài quốc tế). Phán quyết
được tuyên ở nước ngoài là do trọng tài của các nước ngoài tuyên hoặc do trọng
tài quốc tế tuyên ở nước ngoài. Hiện nay, các nước có nền kinh tế thị trường đều
thành lập trọng tài phi chính phủ để giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế.
VI vậy, có rất nhiều cơ quan trọng tài mà phán quyết của nó được gọi là phán
quyết trọng tài nước ngoài.
Trường hợp phán quyết trọng tài được tuyên ở trong nước cũng được coi là
phán quyết trọng tài nước ngoài nếu do trọng tài nước ngoài hoặc trọng tài quốc
tế tuyên. Sở dĩ có trường hợp này là do các bôn tranh chấp có quyền lựa chọn địa
điểm xét xử của trọng tài để tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tranh chấp. Pháp
luật của các quốc gia hầu như đều thừa nhận vấn đề này. Đây cũng là một ưu
điểm của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài so với giải quyết
17
'•lo M ưựM,

- 7
Luận văn Thạc sỹ Luật học
Nguyễn Thị Anh Thư

tranh chấp bằng toà án. về nguyên tắc phán quyết trọng tài của trọng tài nước
nào thì pháp luật của nước đó thừa nhận và chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh
thổ nước đó. Đây là nguyên tắc thẩm quyền lãnh thổ. Tuy nhiên, trên thực tế,
phán quyết của trọng tài nước này nhưng lại liên quan đến nước khác hoặc phán
quyết của trọng tài nước ngoài nhưng lại được tuyên trên lãnh thổ của quốc gia
sở tại. Trong những trường hợp này cần thiết phải có vấn đề công nhận và thi
hành phán quyết của trọng tài nước ngoài.
Thứ hai, phán quyết liên quan đến cá nhân, tổ chức của quốc gia khác hoặc
liên quan đến tài sản đang tồn tại ở quốc gia khác. Trong thương mại quốc tế, có
những giao dịch thương mại được thiết lập giữa các cá nhân, tổ chức của các
quốc gia khác nhau. Vì vậy, khi có tranh chấp xảy ra phán quyết của cơ quan
trọng tài giải quyết tranh chấp thường liên quan đến cá nhân, tổ chức của quốc
gia khác; Có những trường hợp tài sản là đối tượng của tranh chấp tồn tại ở quốc
gia khác hoặc bên thua kiện có tài sản cần thanh toán nghĩa vụ đang tổn tại ở
quốc gia khác thì trong những trường hợp này phán quyết của trọng tài nước
ngoài liên quan đến tài sản đang tồn tại ở quốc gia khác. Những điều đó có
nghĩa là hiệu lực của phán quyết trọng tài nước ngoài liên quan đến quốc gia
khác.
Thứ ba, phán quyết trọng tài nước ngoài cần được công nhận và thi hành ở
quốc gia khác. Do phán quyết trọng tài nước ngoài liên quan đến quốc gia khác
(như đã được trình bày ở đặc điểm trên) nên nó cần được công nhận và thi hành
ở quốc gia khác.
1.3. CÔNG NHẬN VÀ THI HÀNH PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI NƯỚC NGOÀI
1.3.1. Khái niệm công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước
ngoài
Trong xu thế thời đại hiện nay, quan hệ thương mại quốc tế ngày càng phát
triển, rất đa dạng và phong phú. Quan hệ thương mại quốc tế liên quan đến các
quốc gia khác nhau, do các quốc gia tham gia quan hệ thương mại hoặc các cá
nhân, pháp nhân của các quốc gia khác nhau tham gia quan hệ thương mại, tài
sản là đối tượng của quan hệ được chuyển từ nước này sang nước khác hoặc

18
Luận văn Thạc sỹ Luật học
Nguyễn Thị Anh Thư
đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với một trong các bên tham gia quan hệ
thương mại. Với vấn đề như vậy, khi có tranh chấp thương mại quốc tế xảy ra,
thì phán quyết của trọng tài về giải quyết tranh chấp cũng liên quan đến các
quốc gia khác nhau. Phán quyết trọng tài trong trường hợp này cũng cần được
thi hành ở quốc gia khác, tức là ở cả quốc gia mà không phải do trọng tài của
quốc gia đó tuyên phán quyết. Tuy nhiên, phán quyết trọng tài của nước này
(nước ngoài) không đương nhiên có hiệu lực trên lãnh thổ của quốc gia khác.
Phán quyết nước này trọng tài nước ngoài muốn có hiệu lực thi hành trên lãnh
thổ của quốc gia khác phải được quốc gia đó ra quyết định công nhận và thi
hành.
Công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài có các đặc điểm sau
đây:
Thứ nhất, công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài thể hiện ý
chí của nhà nirớc (quốc gia) công nhận và thi hành.
Bản thân phán quyết trọng tài chỉ là phán quyết của cơ quan xét xử tư nhân,
không phải là cơ quan công quyền nhà nước, vì vậy không mang ý chí nhà nước.
Phán quyết trọng tài mang ý chí tự nguyện của các bên tranh chấp, do các bên
tranh chấp thoả thuận tự nguyện đưa tranh chấp ra giải quyết bằng phương thức
trọng tài. Khi phán quyết trọng tài được công nhận và thi hành bởi một quốc gia,
thì điều đó có nghĩa là phán quyết đó được khoác lên mình ý chí của nhà nước,
được "nhà nước hoá". Phán quyết trọng tài nước ngoài lúc này được nhà nước
bảo đảm thực hiện.
Thứ hai, công nhận và thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài làm cho
phán quyết trọng tài nước ngoài có giá trị cưỡng chế thi hành.
Như đặc điểm trên đã trình bày, khi phán quyết trọng tài nước ngoài được
công nhận và thi hành, phán quyết đó được khoác lên mình ý chí nhà nước, được
"Nhà nước hoá" và được nhà nước bảo đảm thực hiện. Vì vậy, nếu bên có nghĩa

vụ phải thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài mà không tự nguyện thi hành thì bị
nhà nước cưỡng chế thi hành.
Đặc điểm này làm cho phán quyết trọng tài nước ngoài có giá trị khác với
19

×