Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Những vấn đề pháp lý cơ bản về dịch vụ sở hữu công nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (771.14 KB, 103 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN HƯƠNG NHU




NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN
VỀ DỊCH VỤ SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN HƯƠNG NHU




NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN
VỀ DỊCH VỤ SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP


Chuyên ngành : Luật Quốc tế
Mã số : 60 38 60


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đoàn Năng


HÀ NỘI – 2013
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Trân trọng cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN



NGUYỄN HƯƠNG NHU

LỜI CẢM ƠN
Quá trình hoàn hành luận văn là một quá trình lâu dài. Trong quá trình
ấy, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và
một số cơ quan, tổ chức.
Nhân dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy, các cô của
khoa luật- ĐHQGHN. Trong quá trình học đại học và đặc biệt 3 năm học thạc sỹ
ở đây, tôi đã nhận được sự quan tâm, sự chỉ bảo tận tình của các thầy, các cô.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban chủ nhiệm Khoa luật, tổ bộ môn Luật
quốc tế đã tạo điều kiện để tôi có thể học tập và bảo vệ luận văn của mình.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến bạn bè của tôi, gia đình tôi.
Đó là những người đã động viên tôi và giúp tôi rất nhiều trong việc học tập và
bảo vệ luận văn.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn tới thầy giáo của tôi- thầy Đoàn Năng,
một người thầy không những giỏi về chuyên môn mà còn rất tận tâm. Thầy đã
giúp tôi tìm kiếm tư liệu, giúp tôi tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình
làm luận văn. Để có thành quả này, thầy giáo của tôi đã vất vả rất nhiều. Xin
chân thành cảm ơn thầy!
Học viên


Nguyễn Hương Nhu

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU 1

1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Phạm vi nghiên cứu 4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4
6. Những đóng góp mới của luận văn 5
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn luận văn 5
8. Bố cục của luận văn 6
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP 7
1.1. Định nghĩa dịch vụ và dịch vụ sở hữu công nghiệp 7
1.1.1 Định nghĩa dịch vụ 7
1.1.2. Định nghĩa dịch vụ sở hữu công nghiệp 7
1.1.3. Phân biệt sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ 11
1.1.4. Phân loại dịch vụ sở hữu công nghiệp 12
1.2. Mục đích, vai trò của dịch vụ sở hữu công nghiệp 17
1.2.1. Mục đích của hoạt động dịch vụ sở hữu công nghiệp 17
1.2.2. Vai trò của dịch vụ sở hữu công nghiệp 18
Chương 2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ QUỐC
TẾ VỀ DỊCH VỤ SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP 22
2.1. Thực trạng các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về
giám định sở hữu công nghiệp 22
2.1.1. Nội dung và chuyên ngành giám định sở hữu công nghiệp 23
2.1.2. Quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về tổ chức, cá nhân
hành nghề giám định sở hữu công nghiệp 29
2.2. Thực trạnh các quy định của pháp luật Việt Nam về dịch vụ đại
diện sở hữu công nghiệp 35
2.2.1. Nội dung nghiệp vụ đại diện sở hữu công nghiệp 35
2.2.2. Điều kiện pháp lý để được hành nghề đại diện sở hữu công nghiệp
49
2.3. Dịch vụ sở hữu công nghiệp trong một số điều ước quốc tế và trong

pháp luật một số quốc gia khác 53
2.3.1. Dịch vụ giám định sở hữu công nghiệp trong điều ước quốc tế 54
2.3.2. Dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp theo quy định của một số quốc
gia 57
Chương 3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ DỊCH VỤ SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP 68
3.1. Thực trạng hoạt động dịch vụ sở hữu công nghiệp tại một số quốc
gia trên thế giới 69
3.2. Thực trạng hoạt động dịch vụ sở hữu công nghiệp tại Việt Nam …71
3.1.1. Thực trạng hoạt động dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp 71
3.1.2. Thực trạng hoạt động dịch vụ giám định sở hữu công nghiệp 73
3.2. Những tồn tại và phương hướng hoàn thiện pháp luật về dịch vụ sở
hữu công nghiệp 76
3.2.1. Hoàn thiện chung các quy định pháp luật về dịch vụ sở hữu công
nghiệp 76
3.2.2. Xây dựng quy định pháp luật về giá trị pháp lý của các kết luận
giám định sở hữu công nghiệp 79
3.2.3. Mở cửa dịch vụ giám định sở hữu công nghiệp, đại diện sở hữu
công nghiệp cho người nước ngoài tham gia với lộ trình cụ thể 80
3.2.4. Giải pháp về mặt tổ chức và nhân lực 81
3.2.5. Tăng cường sự hợp tác, giúp đỡ quốc tế 85
KẾT LUẬN 88

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1: Danh mục các dịch vụ sở hữu công nghiệp thuộc danh mục dịch vụ
khoa học và công nghệ 13
Bảng 1.2: Thống kê về quy định của một số nước, khu vực trên thế giới về
tiêu chuẩn được hành nghề dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp 59

Bảng 1.3: Thống kê về các kỳ thi sát hạch nghiệp vụ đại diện sở hữu công
nghiệp của một số nước, khu vực trên thế giới 64
Bảng 1.4: Danh sách tổ chức đủ điều kiện hoạt động giám định sở hữu công
nghiệp (tính đến thời điểm cuối năm 2009) 75
Bảng 1.5: Danh sách cá nhân đủ điều kiện hoạt động giám định sở hữu công
nghiệp (tính đến thời điểm cuối năm 2009) 75
1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đã từ lâu, khái niệm “Sở hữu công nghiệp” được các nước công
nghiệp công nhận và sử dụng. Ngày nay, khái niệm này được ngày càng nhiều
nước đang phát triển sử dụng như một phương tiện quan trọng cho phát triển
công nghệ và kinh tế.
Bảo hộ sở hữu công nghiệp không chỉ là việc xây dựng hành lang
pháp lý cho các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với sáng tạo của tác giả.
Bảo hộ sở hữu công nghiệp còn góp phần khuyến khích việc sáng tạo, phổ biến
và áp dụng các kết quả của những sáng tạo đó, từ đó khích lệ thương mại trung
thực. Từ nhiều thập kỷ nay, các quốc gia công nghiệp đã có ý thức về sự cần
thiết của bảo hộ sáng chế - một đối tượng của sở hữu công nghiệp. Ngày nay,
ngoài vấn đề bảo hộ sáng chế thì bảo hộ sở hữu trí tuệ là vấn đề được tất cả các
quốc gia (từ các nước công nghiệp phát triển đến các nước nông nghiệp) quan
tâm. Các nước đều kiến tạo nhiều văn bản pháp luật để quy định về vấn đề này.
Việt Nam cũng không nằm ngoài khuynh hướng phát triển đó, năm
2005 là năm đánh dấu mốc quan trọng trong hệ thống pháp luật về Sở hữu trí
tuệ của Việt Nam. Ngày 14/6/2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ Luật dân sự 2005, trong đó dành Phần thứ
VI quy định về “Quyền sở hữu trí tuệ và Chuyển giao công nghệ”. Tiếp đó,
ngày 29/11/2005, Quốc hội tiếp tục thông qua Luật Sở hữu trí tuệ, có hiệu lực
từ ngày 01/7/2006 và mới đây nhất là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của

Luật sở hữu trí tuệ được Quốc hội thông qua 19/ 6/2009 và có hiệu lực từ
ngày 01/01/ 2010.
Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên 150 của
Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Sự kiện này là một dấu mốc quan trọng
2
trong lịch sử phát triển kinh tế của Việt Nam. Đó là kết quả của chính sách
đổi mới, mở cửa của nền kinh tế cũng như quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế
tập trung quan liêu bao cấp sang nên kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa. “Việt Nam đã gửi một thông điệp đến thế giới rằng kể từ nay trở đi,
mọi giao dịch thương mại của Việt Nam sẽ tuân thủ những quy tắc và luật
chơi quốc tế”[9].
Với hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ đang dần hoàn thiện, cùng với
những cam kết khi gia nhập WTO - đặc biệt là hiệp định TRIPS (Hiệp định về
các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ) vấn đề sở hữu
trí tuệ ở Việt Nam đã được quan tâm nhiều hơn. Tuy nhiên, bên cạnh các mặt
tích cực thì tình hình xâm phạm sở hữu công nghiệp cũng có dấu hiện gia
tăng trong những năm gần đây.
Vụ việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gia tăng gắn liên với
nhu cầu tìm đến các dịch vụ sở hữu công nghiệp để chủ đơn có thể bảo vệ,
tìm giải pháp, xin tư vấn, đề nghị đại diện đăng ký, đề nghị tham gia giải
quyết khiếu nại, giám định, thẩm định… nhằm bảo hộ tốt nhất đối tượng sở
hữu công nghiệp thuộc sở hữu của mình. Việc ra nhập WTO và việc tham gia
các Công ước về sở hữu trí tuệ của Việt Nam cũng mở ra nhiều cơ hội cho các
tổ chức, cá nhân có khả năng và mong muốn tham gia hoạt động trực tiếp
trong lĩnh vực dịch vụ sở hữu công nghiệp. Thông qua việc xem xét thực
trạng các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, thực trạng hoạt động
của dịch vụ sở hữu công nghiệp và những khó khăn còn tồn đọng của dịch vụ
này đã thôi thúc tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Những vấn đề pháp lý cơ
bản về dịch vụ sở hữu công nghiệp”.
2. Tình hình nghiên cứu

Trong lĩnh vực dịch vụ sở hữu công nghiệp đã có một số công trình
nghiên cứu về những loại hoạt động thuộc dịch vụ này, có thể kể đến:
3
- “Báo cáo về tổ chức, hoạt động của hệ thống đại diện sở hữu công
nghiệp ” của Phòng Pháp chế và quản lý thuộc Cục sở hữu trí tuệ soạn thảo
vào tháng 12/2001;
- Khóa luận tốt nghiệp đại học “Những vấn đề pháp lý cơ bản về dịch
vụ giám định sở hữu công nghiệp” của Học viên Trần Quang Tiệp - Học viên
ngoại giao;
- “Quy định mới về dịch vụ sở hữu trí tuệ” của Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia xuất bản năm 2006.
Đây là những công trình nghiên cứu cụ thể về một loại dịch vụ thuộc
hệ thống dịch vụ sở hữu công nghiệp hoặc về hệ thống đại diện sở hữu công
nghiệp tại các quốc gia. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn
diện, sâu sắc về mặt pháp lý của tất cả các dịch vụ sở hữu công nghiệp cũng
như thực tế hoạt động của các dịch vụ này tại Việt Nam. Trong thời gian tới,
hệ thống văn bản pháp luật vể dịch vụ sở hữu công nghiệp sẽ được Nhà nước
xây dựng, bổ sung và hoàn thiện. Việc nghiên cứu một cách toàn diện về các
dịch vụ sở hữu công nghiệp có gí trị về mặt lý luận và thực tiễn. Đó sẽ là cơ
sở cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về dịch vụ sở hữu công
nghiệp nói riêng và sở hữu trí tuệ nói chung. Từ đó, góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động của các dịch vụ sở hữu trí tuệ tại Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Tác giả chọn đề tài này là nhằm nghiên cứu thực trạng các quy định
hiện hành về dịch vụ sở hữu công nghiệp trong pháp luật Việt Nam và có so
sánh, liên hệ với quy định pháp luật trong một số điều ước quốc tế và pháp
luật một số quốc gia khác. Tác giả muốn tìm hiểu, phân tích để có một cái
nhìn tổng quan nhất về dịch vụ sở hữu công nghiệp của Việt Nam, qua đó
giúp người đọc có thể nhìn nhận một cách toàn diện hơn về vấn đề này. Qua
xem xét, tìm hiểu quy định của pháp luật Việt Nam về dịch vụ sở hữu công

4
nghiệp, tác giả cũng muốn làm rõ những khó khăn tồn tại và giải pháp để
hoàn thiện hơn trong hoạt động dịch vụ sở hữu công nghiệp hiện nay.
Vấn đề pháp lý về dịch vụ sở hữu công nghiệp là một vấn đề vô cùng
rộng lớn, bao gồm các vấn đề pháp lý liên quan tới các dịch vụ sở hữu công
nghiệp công và dịch vụ sở hữu công nghiệp đã được xã hội hóa. Tuy nhiên,
trong luận văn này, do thời gian không cho phép, tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu những vấn đề cơ bản về các loại dịch vụ sở hữu công nghiệp đã được xã
hội hóa ở Việt Nam hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn hoạt
động của các dịch vụ sở hữu công nghiệp tại Việt Nam hiện nay – trong đó
chủ yếu tập trung vào nghiên cứu về các loại dịch vụ sở hữu công nghiệp đã
được xã hội hóa (có so sánh, đối chiếu với lý luận và thực tiễn của một số
quốc gia trên thế giới). Trên cơ sở những quy định của pháp luật hiện có,
cũng như từ thực tiễn hoạt động của dịch vụ này, luận văn nêu và phân tích
những hạn chế của hệ thống văn bản pháp luật cũng như những tồn tại trong
thực tế hoạt động, từ đó đề xuất giải pháp khắc phục.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu trong luận văn chủ yểu gồm phương pháp
phân tích, so sánh và đưa ra những điểm chưa hợp lý, thống nhất, những điểm
cần bổ sung,…
Vì thời gian và khả năng có hạn, người viết phần lớn chỉ tập trung
nghiên cứu về dịch vụ sở hữu công nghiệp theo quy định hiện hành của pháp
luật Việt Nam. Việc so sánh, đối chiếu với quy định pháp luật thế giới về dịch
vụ sở hữu công nghiệp cũng chỉ dừng ở việc so sánh một số nhóm dịch vụ
tiêu biểu mà tác giả đã nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu của luận văn này tập
trung vào nội dung các văn bản như: Luật dân sự 2005; Luật sở hữu trí tuệ
5
2005; Luật Khoa học và công nghệ 2000; Nghị định 81/2002/NĐ-CP ngày

17/10/2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của luật khoa học và công
nghệ; Thông tư 08/2006/TT-BKHCN hướng dẫn về dịch vụ sở hữu trí tuệ;
Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg ngày 24/07/2009 về việc ban hành danh mục
các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa học công nghệ cùng với
việc tham khảo các tài liệu của Cục sở hữu trí tuệ mà tác giả có được gồm:
Điều lệ Tổ chức và hoạt động của Cục sở hữu trí tuệ; Công văn số 824/SHTT-
PCCS ngày 21/4/2010 của Cục sở hữu trí tuệ gửi Vụ Đánh giá – Thẩm định
và Giám định công nghệ và các Nghị định, Thông tư, các tài liệu khác về sở
hữu công nghiệp của các quốc gia có liên quan để làm phong phú cho luận
văn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Phân tích, đánh giá một cách có hệ thống, toàn diện về quy định
pháp luật hiện hành liên quan tới dịch vụ sở hữu công nghiệp;
- Đưa ra các quan điểm, luận giải khoa học về cách phân loại dịch vụ
sở hữu công nghiệp và các loại dịch vụ sở hữu công nghiệp hiện đang hoạt
động tại Việt Nam.
- Tổng hợp một cách có hệ thống thực tiễn hoạt động của các dịch vụ
sở hữu công nghiệp hiện nay. Từ thực tiễn đó rút ra những giải pháp để đưa
các dịch vụ này phát triển, hoàn thiện hơn nữa.
- Tìm hiểu về một số dịch vụ sở hữu công nghiệp của các quốc gia
tiên tiến trên thế giới.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn luận văn
- Góp phần bổ sung vào các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực dịch
vụ sở hữu công nghiệp, kết quả của luận văn là tài liệu tham khảo trong việc
hoàn thiện các quy định của pháp luật về dịch vụ sở hữu công nghiệp;
6
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về
dịch vụ sở hữu công nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả thực tiễn hoạt động
của các cá nhân, doanh nghiệp cũng như nâng cao vai trò của cơ quan quản lý
Nhà nước đối với dịch vụ sở hữu công nghiệp nói riêng và với hoạt động sở

hữu trí tuệ nói chung.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chương.
Chương 1: Tổng quan về dịch vụ sở hữu công nghiệp
Chương 2: Các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về dịch
vụ sở hữu công nghiệp
Chương 3: Thực trạng hoạt động dịch vụ sở hữu công nghiệp ở Việt
Nam và giải pháp hoàn thiện các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam
về dịch vụ sở hữu công nghiệp
Đề tài này ngay từ đầu đã khiến tác giả quan tâm và bị thu hút do tính
mới, tính thời sự và tính cần thiết của nó. Tác giả đã cố gắng đi sâu phân tích
thực trạng các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam liên quan tới dịch
vụ sở hữu công nghiệp, với mong muốn người đọc hiểu rõ hơn, khái quát hơn
về những quy định này. Ngoài ra, tác giả cũng không ngoài mong muốn có
thể góp một số ý kiến nhằm xây dựng hoàn chính các quy định pháp luật về
dịch vụ sở hữu công nghiệp cũng như góp phần thúc đầy hoạt động các loại
dịch vụ sở hữu công nghiệp ở Việt Nam.
Do thời gian nghiên cứu không cho phép nên luận văn còn nhiều hạn
chế, tác giả rất mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô và
các bạn.

7

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP

1.1. ĐỊNH NGHĨA DỊCH VỤ VÀ DỊCH VỤ SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
1.1.1 Định nghĩa dịch vụ
Trong thực tế đời sống hàng ngày, các hoạt động dịch vụ luôn diễn ra rất

đa dạng ở khắp mọi nơi và không ai có thể phủ nhận vai trò quan trọng của dịch
vụ trong đời sống xã hội. Tuy vậy, để có một khái niệm chuẩn về dịch vụ dường
như vẫn còn là vấn đề đang cần bàn luận thêm. Thực tế cho tới nay vẫn tồn tại
nhiều khái niệm khác nhau về dịch vụ.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, dịch vụ là “những hoạt động phục
vụ nhằm thoả mãn nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt”. Do nhu cầu trong
thực tế đời sống đa dạng và phân công lao động xã hội nên cónhiều loại dịch vụ
như dịch vụ phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụphục vụ sinh hoạt
công cộng (giáo dục, y tế, giải trí), dịch vụ cá nhân dưới hình thức những dịch
vụ gia đình… Tựu chung lại, theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì quan niệm
về dịch vụ là những hoạt động phục vụ.
Xét theo phạm trù kinh tế, dịchvụ được hiểu theo nghĩa rộng hơn bao
gồm toàn bộ những ngành có tham gia đóng góp vào tổng sản phẩm quốc nội –
GDP hoặc tổng sản phẩm quốc dân – GNP trừ các ngành công nghiệp, nông
nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp). Như vậy, theo cách tiếp cận này
thì những ngành như vận tải, viễn thông, bưu điện, thương mại, tài chính ngân
hàng, du lịch… đều thuộc lĩnh vực dịch vụ. Thêm vào đó, phạm trù kinh tế cũng
coi dịch vụ là sản phẩm của lao động xã hội, được mua bán trao đổi trên thị
trường. Nền sản xuất xã hội được chia thành hai lĩnh vực lớn, đó là sản xuất
8
hàng hoá và sản xuất dịch vụ. Quá trình tạo ra dịch vụ chính là quá trình tương
tác giữa ba yếu tố cơ bản gồm khách hàng – người tiếp nhận dịch vụ; cơ sở vật
chất và nhân viên phục vụ. Ba yếu tố vừa kể trên cóquan hệ chặt chẽ với nhau
tạo thành một hệ thống mà trong đó dịch vụ là kết quả của sự tương tác trực tiếp
giữa khách hàng, nhân viên phục vụ và cơ sở vật chất. Chẳng hạn, dịch vụ ăn
uống trong một nhà hàng là kết quả của sự tác động qua lạigiữa khách hàng,
người phục vụ, đồ ăn thức uống và các tiện nghi khác như bàn ghế, bát đũa
v.v…
Nhiều công trình nghiên cứu vàcác buổi hội thảo của các tổ chức quốc tế
như IMF, WTO… về dịch vụ nhằm đi đến sự thống nhất về khái niệm và phạm

vi của dịch vụ, trên cơ sở đó đánh giá xu hướng phát triển của dịch vụ. Tuy
nhiên, hiện vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về dịch vụ. Các nhà nghiên
cứu thường tập trung tìm ra những đặc trưng của sản phẩm hàng hoá và sản
phẩm dịch vụ để làm cơ sở phân biệt hàng hoá với dịch vụ, trong đó có những
đặc điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, dịch vụ nói chung mang tính vô hình. Quá trình sản xuất hàng
hoá tạo ra những sản phẩm hữu hình có tính chất cơ, lý, hoá học nhất định, có
tiêu chuẩn cụ thể về kỹ thuật và do đó có thể sản xuất theo tiêu chuẩn hoá. Khác
với hàng hoá, sản phẩm dịch vụ không tồn tại dưới dạng những vật phẩm cụ thể
và do đó không thể xác định chất lượng dịch vụ trực tiếp bằng những chỉ tiêu kỹ
thuật được lượng hoá. Vì vậy, quản lý chất lượng dịch vụ khó khăn hơn so với
quản lý chất lượng hàng hoá. Do sản phẩm dịch vụ là kết quả tương tác trực tiếp
giữa khách hàng, nhân viên phục vụ và tiện nghi phục vụ nên chất lượng dịch vụ
phụ thuộc vào năng lực, trình độ nghiệp vụ của nhân viên phục vụ, đánh giá chủ
quan của khách hàng và tính tiện nghi của trang thiết bị phục vụ. Cùng một loại
dịch vụ và tiện nghi phục vụ nhưng nhân viên phục vụ khác nhau thì chất lượng
dịch vụ cũng khác nhau, thậm chí kể cả khi cùng một nhân viên phục vụ nhưng
mỗi khách hàng lại có những đánh giá khác nhau về chất lượng dịch vụ.
9
Thứ hai, quá trình sản xuất – cung ứng dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ diễn
ra đồng thời trong khi ở nền kinh tế hàng hoá, sản xuất hàng hoá tách khỏi lưu
thông và tiêu dùng. Hàng hoá có thể được lưu kho dự trữ, có thể vận chuyển đi
nơi khác theo nhu cầu của thị trường trong khi cung ứng dịch vụ phải gắn liền
với tiêu dùng dịch vụ. Do sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời nên
không thể sản xuất dịch vụ hàng loạt và lưu trữ trong kho sau đó mới tiêu dùng,
vì vậy trong hoạt động dịch vụ không có hiệntượng tồn kho hoặc dự trữ sản
phẩm dịch vụ.
Hai điểm đặc trưng nêu trên nhằm mục tiêu phân biệt sản phẩm dịch vụ
với sản phẩm hàng hoá, tuy nhiên sự phân biệt này cũng chỉ mang tính tương
đối. Chẳng hạn như một số loại hình dịch vụ khi kết thúc quá trình cung ứng thì

đem lại sản phẩm có hình thái vật phẩm như bản photocopy (dịch vụ
photocopy). Sự khác biệt mang tính tương đối giữa dịch vụ và hàng hoá là do
dịch vụ và hàng hoá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Quá trình hình thành và
phát triển dịch vụ gắn liền với sự phát triển của phân công lao động xã hội và sản
xuất hàng hoá. Hiện nay, không có bất cứ hoạt động dịch vụ nào diễn ra mà
không có sự hiện diện của hàng hoá bởi vì nhân viên phục vụ không thể cung
ứng dịch vụ cho khách hàng nếu không có tiện nghi phục vụ (cơ sở vật chất).
1.1.2. Định nghĩa dịch vụ sở hữu công nghiệp
Dịch vụ sở hữu công nghiệp là một hoạt động rất cần thiết đối với công
tác bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp
khi muốn bảo hộ đối tượng của mình có thể sử dụng dịch vụ sở hữu công nghiệp
của các tổ chức, cá nhân, các cơ quan Nhà nước về sở hữu trí tuệ cung cấp để lấy
thông tin về tình trạng của đối tượng, tình hình bảo hộ của đối tượng sở hữu đó
cũng như đề nghị được sử dụng dịch vụ đăng ký và duy trì, thẩm định, giải quyết
khiếu nại cũng như thực hiện các quyền khác về sở hữu với đối tượng Dịch vụ
sở hữu công nghiệp được cung cấp có vai trò quan trọng với các doanh nghiệp,
10
cá nhân, tổ chức có nhu cầu bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và nhu cầu đăng
ký làm các tổ chức đại diện, giám định sở hữu công nghiệp.
Dịch vụ này là điều kiện để các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức tiếp cận
với các thông tin về đối tượng sở hữu công nghiệp một cách cụ thể và đầy đủ
nhất. Ngoài ra, dịch vụ còn trợ giúp doanh nghiệp trong quá trình đăng ký, duy
trì, bảo hộ đối tượng sở hữu công nghiệp khi chủ sở hữu của đối tượng có yêu
cầu. Dịch vụ sở hữu công nghiệp có vai trò quan trọng như vậy, nên vấn đề này
không chỉ được quy định trong pháp luật của từng quốc gia mà nó còn có mặt
trong một số điều ước Quốc tế.
Hiện nay, trong Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 hay Luật sở hữu trí
tuệ Việt Nam sửa đổi năm 2009 cũng như Luật Khoa học và Công nghệ 2000
chưa có định nghĩa cụ thể về dịch vụ sở hữu công nghiệp, chúng ta chỉ có thể tìm
thấy những quy định mang tính tổng quát về vấn đề này trong các văn bản như:

Nghị định 81/2002/NĐ-CP ngày 17/10/2002 quy định chi tiết thi hành một số
điều của luật khoa học và công nghệ; Thông tư 08/2006/TT-BKHCN hướng dẫn
về dịch vụ sở hữu trí tuệ; Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg ngày 24/07/2009 về
việc ban hành danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa học
công nghệ.
Trong Điều 2 khoản 8 của Luật Khoa học và công nghệ 2000 có quy
định về dịch vụ khoa học và công nghệ như sau:
“Dịch vụ khoa học và công nghệ là các hoạt động phục vụ việc nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ; các hoạt động liên quan đến sở hữu trí
tuệ, chuyển giao công nghệ; các dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng,
phổ biến, ứng dụng tri thức khoa học và công nghệ và kinh nghiệm thực tiễn”.
Dịch vụ sở hữu công nghiệp là một phần của dịch vụ khoa học và công
nghệ, điều đó đồng nghĩa với việc dịch vụ sở hữu công nghiệp cũng sẽ có phạm
vi hoạt động liên quan tới các dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng,
11
phổ biến, ứng dụng tri thức,… về sở hữu trí tuệ vào thực tiễn. Theo đó, tổ chức
dịch vụ khoa học công nghệ là một trong những loại hình của tổ chức khoa học
và công nghệ. Nghĩa là tổ chức dịch vụ sở hữu công nghiệp cũng là một loại
hình tổ chức khoa học và công nghệ tại Việt Nam.
1.1.3. Phân biệt sở hữu trí tuệ và sở hữu công nghiệp
Sở hữu trí tuệ là khái niệm lâu đời nhưng mới được quan tâm nhiều tại
Việt Nam thời gian gần đây. Trước kia, các tài sản hữu hình như đất đai, lao
động và tiền vốn là tiêu chuẩn đánh giá doanh nghiệp. Ngày nay, tài sản vô
hình nổi lên như một nhân tố đầy giá trị trong hoạt động của doanh nghiệp với
bộ phận quan trọng là Sở hữu trí tuệ. Hãy hình dung trên thị trường được toàn
cầu hóa hiện nay, một nhãn hiệu hàng hóa - sản phẩm của trí tuệ - mà bạn sở
hữu có giá trị tỷ lệ thuận với hàng hóa bán ra. Giá trị của nhãn hiệu hàng hóa
đó được tăng lên khi bạn bán được nhiều hàng và không thể tính được khi
hàng hóa của bạn đã nổi tiếng. Đó là lý do người ta định giá nhãn hiệu Coca
Cola đến hơn 70 tỷ USD, Microsoft hơn 65 tỷ USD hay Nokia hơn 29 tỷ

USD.
SHCN chính là một trong hai bộ phận trụ cột của SHTT (bộ phận
đang được quan tâm khác hiện nay là “quyền tác giả” hay còn gọi là “bản
quyền”). Các đối tượng bảo hộ của pháp luật về Sở hữu công nghiệp gồm có
sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích
hợp, nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, tên gọi xuất xứ hàng
hóa, bí mật kinh doanh và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.
Việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp mang tính chất riêng. Quyền
sở hữu hầu hết các đối tượng nêu trên nếu muốn được xác lập và bảo hộ phải
được tiến hành đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà ở nước ta là
Cục sở hữu trí tuệ và tuân theo thủ tục hành chính (khác với quyền tác giả có
tính chất “bảo hộ tự động”, phát sinh kể từ thời điểm tác phẩm văn học, nghệ
12
thuật được sáng tạo dưới hình thức nhất định). Thời hạn bảo hộ quyền Sở hữu
công nghiệp được quy định không dài. Pháp luật về Sở hữu công nghiệp Việt
Nam hiện hành quy định thời hạn bảo hộ sáng chế là 20 năm, nhãn hiệu hàng
hóa là 10 năm, kiểu dáng công nghiệp là 5 năm… Trong khi đó, xu hướng của
một số quốc gia trên thế giới hiện nay là kéo dài thời hạn bảo hộ quyền tác giả
như một sự “gấp đôi cuộc đời” tác giả, khuyến khích sáng tạo bằng cách tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho người thừa kế của họ về khả năng được hưởng
thành quả sáng tạo của cha ông mình. Ví dụ ở Việt Nam bảo hộ quyền tác giả
được bảo hộ trong suốt cuộc đời tác giả và 50 tiếp theo sau khi tác giả qua
đời.
1.1.4. Phân loại dịch vụ sở hữu công nghiệp
Theo Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg ngày 24/07/2009 về việc ban
hành danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công
nghệ có dành mục 7 để thống kê các dịch vụ về sở hữu trí tuệ thuộc danh mục
dịch vụ Khoa học và công nghệ mà cá nhân được thành lập. Cụ thể bao gồm:

Dịch vụ đại diện sở hữu trí tuệ;


Dịch vụ giám định về sở hữu trí tuệ;

Dịch vụ tư vấn về sở hữu trí tuệ (không bao gồm tư vấn liên quan
đến thủ tục xác lập và bảo vệ/thực thi quyền sở hữu trí tuệ).
Theo quan điểm của Cục sở hữu trí tuệ tại Công văn số 824/SHTT-
PCCS ngày 21/4/2010 gửi Vụ Đánh giá – Thẩm định và Giám định công nghệ
về việc cung cấp thông tin về dịch vụ Sở hữu công nghiệp thì dịch vụ sở hữu
công nghiệp được chia thành hai nhóm gồm: Dịch vụ sở hữu công nghiệp tư
(đã được xã hội hóa) và nhóm dịch vụ sở hữu công nghiệp công (tức là do các
cơ quan Nhà nước về sở hữu trí tuệ cung cấp). Có thể tóm tắt quan điểm của
Cục sở hữu trí tuệ theo bảng dưới đây:
13
Bảng 1.1: Danh mục các dịch vụ sở hữu công nghiệp thuộc danh mục dịch vụ khoa học và công nghệ [11].
STT Các dịch vụ về sở hữu công nghiệp thuộc danh mục dịch vụ Khoa học và công nghệ
Dịch vụ cá
nhân không
được làm
(dấu “x”)
1 Dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp

- Dịch vụ đại diện cho tổ chức, cá nhân trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền về xác lập và bảo đảm thực thi quyền sở hữ
u
công nghiệp


- Dịch vụ tư vấn về vấn đề liên quan đến thủ tục xác lập và thực thi quyền sở hữu công nghiệp


- Các dịch vụ khác liên quan đến thủ tục xác lập và thực thi quyền sở hữu công nghiệp



+ Dịch vụ viết bản mô tả các đối tượng sở hữu công nghiệp để đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.


+ Dịch vụ lập hồ sơ và làm các thủ tục đăng ký bảo hộ đối tượng sở hữu công nghiệp.


+ Dịch vụ thực hiện các thủ tục theo quy định để sửa đổi, duy trì, gia hạn hiệu lực các văn bằng bảo hộ các đối tượng sở hữ
u
công nghiệp.


+ Dịch vụ làm các thủ tục chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp.


+ Dịch vụ soạn thảo và đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp.


2 Dịch vụ giám định về sở hữu công nghiệp

Xác định tình trạng pháp lý, khả năng bảo hộ đối tượng quyền sở hữu công nghiệp, phạm vi quyền sở hữu công nghiệp đượ
c
bảo hộ.


Xác định các chứng cứ để tính mức độ thiệt hại.

14


Xác định yếu tố xâm phạm quyền, sản phẩm/dịch vụ xâm phạm, yếu tố là căn cứ để xác định giá trị đối tượng quyền sở hữ
u
công nghiệp được bảo hộ, đối tượng xâm phạm.


Xác định khả năng chứng minh tư cách chủ thể quyền, chứng minh xâm phạm, hàng hoá xâm phạm hoặc khả năng chứ
ng minh
ngược lại của các tài liệu, chứng cứ được sử dụng trong vụ tranh chấp hoặc xâm phạm


Các tình tiết khác của vụ tranh chấp, xâm phạm cần làm rõ.

3 Dịch vụ thẩm định về sở hữu công nghiệp

Dịch vụ thẩm định nội dung đơn sở hữu công nghiệp.
x

Dịch vụ thẩm định nhanh đơn đăng ký sở hữu công nghiệp và hồ sơ chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp, gia hạn, sửa đổ
i
Văn bằng bảo hộ.
x

Dịch vụ thẩm định hồ sơ đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp.
x

Dịch vụ thẩm định hồ sơ yêu cầu ra quyết định bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế
x

Dịch vụ thẩm định hồ sơ yêu cầu chấm dứt quyền sử dụng sáng chế theo quyết định bắt buộc.
x

4 Dịch vụ xác lập tư cách hoạt động dịch vụ sở hữu công nghiệp cho các tổ chức, cá nhân

Dịch vụ kiểm tra nghiệp vụ đại diện sở hữu công nghiệp, nghiệp vụ giám định sở hữu công nghiệp.
x

Dịch vụ cấp Chứng chỉ hành nghề dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp, Thẻ giám định viên sở hữu công nghiệp.
x

Dịch vụ ghi nhận Tổ chức dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp, Tổ chức giám định sở hữu công nghiệp (kể cả sửa đổ
i thông tin
về Tổ chức).
x
5 Dịch vụ liên quan đến giải quyết khiếu nại về sở hữu công nghiệp

Dịch vụ xem xét yêu cầu phản đối cấp Văn bằng bảo hộ của người thứ ba.
x
15
6 Dịch vụ tra cứu, cung cấp thông tin về sở hữu công nghiệp

Dịch vụ tra cứu thông tin nhằm phục vụ việc thẩm định, giám định và các công việc khác trong phạm vi trách nhiệm.


Dịch vụ tra cứu nhãn hiệu liên kết phục vụ việc thẩm định Hồ sơ đăng ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp.



Dịch vụ cung cấp thông tin liên quan đến đối tượng sở hữu công nghiệp.

7 Dịch vụ cấp các loại bản sao, phó bản, bản cấp lại các tài liệu sở hữu công nghiệp


Dịch vụ cấp phó bản, bản cấp lại Văn bằng bảo hộ.
x

Dịch vụ cấp bản sao các tài liệu do Cục Sở hữu trí tuệ phát hành hoặc lưu giữ.
x

Dịch vụ sao Đơn quốc tế PCT.
x

Dịch vụ xác nhận đăng ký quốc tế nhãn hiệu có hiệu lực tại Việt Nam.
x
8 Dịch vụ lập và gửi đơn đăng ký quốc tế về sở hữu công nghiệp

Dịch vụ gửi Đơn quốc tế (PCT) - không bao gồm các khoản Dịch vụ phải nộp cho Văn phòng quốc tế.
x

Dịch vụ thực hiện thủ tục đăng ký quốc tế nhãn hiệu - không bao gồm các khoản Dịch vụ phải nộp cho Văn phòng quốc tế.
x

Dịch vụ sửa đổi, chuyển nhượng, gia hạn, mở rộng lãnh thổ, hạn chế danh mục sản phẩm, chấm dứt, huỷ bỏ hiệu lực nhãn hiệ
u
đăng ký quốc tế nguồn gốc Việt Nam.
x

Dịch vụ cung cấp tài liệu xin xác nhận quyền ưu tiên.
x

16
Theo quan điểm của Cục sở hữu trí tuệ thì dịch vụ sở hữu công nghiệp
được chia làm hai nhóm dịch vụ là dịch vụ công (các dịch vụ hiện do Cục

quản lý) và dịch vụ đã được xã hội hóa (hiện các tổ chức cá nhân được thực
hiện và hoạt động). Các nhóm dịch vụ theo quan điểm của Cục sở hữu trí tuệ
thuộc dịch vụ công gồm: Dịch vụ thẩm định về sở hữu công nghiệp; Dịch vụ
xác lập tư cách hoạt động dịch vụ sở hữu công nghiệp cho các tổ chức, cá
nhân; Dịch vụ cấp các loại bản sao, phó bản, bản cấp lại các tài liệu sở hữu
công nghiệp; Dịch vụ liên quan đến giải quyết khiếu nại về sở hữu công
nghiệp; Dịch vụ lập và gửi đơn đăng ký quốc tế về sở hữu công nghiệp thực
chất là những chức năng, nhiệm vụ mà Cục sở hữu trí tuệ phải thực hiện theo
yêu cầu của Nhà nước. Cục sở hữu trí tuệ thay mặt Nhà nước để tiến hành
hoạt động thẩm định đơn đăng ký về sở hữu công nghiệp của các tổ chức, cá
nhân là chủ sở hữu của các sản phẩm trí tuệ; thay mặt Nhà nước tổ chức kiểm
tra và cấp giấy chứng nhận xác lập tư cách hoạt động dịch vụ sở hữu công
nghiệp cho các tổ chức, cá nhân; Ngoài Cục sở hữu trí tuệ, các tổ chức và cá
nhân khác không có chức năng, nhiệm vụ thực hiện các thẩm quyền và hoạt
động này. Trở lại khái niệm về dịch vụ mà tác giả đã phân tích tại điểm 1.1
của luận văn thì “ dịch vụ là hoạt động có chủ đích, được trả công và nhằm
đáp ứng nhu cầu nào đó của con người”. Các “dịch vụ công” (theo quan điểm
của Cục) mà Cục thực hiện là hoạt động thuộc chức năng của Cục, không
phải hoạt động nhằm mục đích để “được trả công” như những dịch vụ mà các
tổ chức, cá nhân khác thực hiện. Vì đây là trách nhiệm cũng như quyền hạn
của Cục sở hữu trí tuệ nên các nhóm hoạt động mà Cục sở hữu trí tuệ xếp vào
nhóm dịch vụ công không thể coi là một hoạt động dịch vụ được.
Từ quan điểm nêu trên, tác giả rút ra cách phân loại về dịch vụ sở hữu
công nghiệp hiện nay sẽ gồm hai nhóm dịch vụ chính sau: dịch vụ đại diện sở
hữu công nghiệp và dịch vụ giám định về sở hữu công nghiệp. Riêng nhóm
dịch vụ tư vấn bao gồm: các dịch vụ liên quan tới dịch vụ tra cứu, cung cấp
17
thông tin, giải đáp thắc mắc về các vấn đề liên quan tới đối tượng sở hữu công
nghiệp thực chất được được các tổ chức hoạt động dịch vụ đại diện sở hữu trí
tuệ và giám định sở hữu trí tuệ cùng thực hiện khi các tổ chức, cá nhân có nhu

cầu. Vì vậy, trong nội dung luận văn tác giả tập trung nghiên cứu về hai mảng
dịch vụ chính là đại diện sở hữu công nghiệp; giám định sở hữu công nghiệp
và có phân tích xen kẽ các nội dung liên quan tới dịch vụ tư vấn sở hữu công
nghiệp.
1.2. MỤC ĐÍCH, VAI TRÒ CỦA DỊCH VỤ SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
Trong quá trình sản xuất, kinh doanh dịch vụ, đầu tư, chuyển giao
công nghệ, xuất nhập khẩu hàng hóa và lưu thông hàng hóa trên thị trường,
các doanh nghiệp hay cá nhân đều có nhu cầu bảo vệ, tìm hiểu về đối tượng
sở hữu công nghiệp của mình. Trong quá trình đối tượng sở hữu công nghiệp
được cấp văn bằng bảo hộ có thể xảy ra tranh chấpvà xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp. Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá
nhân và doanh nghiệp, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, việc sử dụng các
dịch vụ sở hữu công nghiệp nhằm làm rõ tình trạng pháp lý của các đối tượng
sở hữu công nghiệp và đưa ra kết luận để thực hiện quyền của chủ sở hữu
công nghiệp là cần thiết. Bên cạnh việc sử dụng các dịch vụ sở hữu công
nghiệp để bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp thì hiện nhiều tổ chức, cá nhân
cũng có nhu cầu tham gia trực tiếp vào hoạt động dịch vụ sở hữu công nghiệp
khiến cho lĩnh vực này trở nên sôi động và được quan tâm. Vì lẽ đó, dịch vụ
sở hữu công nghiệp ngày càng trở nên quan trọng và là một nhu cầu cấp thiết.
1.2.1. Mục đích của hoạt động dịch vụ sở hữu công nghiệp
Trước tiên, khi chủ sở hữu các sản phẩm trí tuệ có mong muốn bảo hộ
quyền sở hữu của mình thì họ có thể yêu cầu sử dụng các dịch vụ sở hữu công
nghiệp. Mục đích của việc sử dụng dịch vụ sở hữu công nghiệp là để chủ sở
hữu đề nghị cơ quan Nhà nước đánh giá xem sản phẩm trí tuệ của họ có khả
18
năng được bảo hộ hay không, đối tượng của mình được bảo hộ trong phạm vi
nào cũng như các thủ tục, thời gian, chi phí tiến hành và các nội dung khác
liên quan tới việc đăng ký bảo hộ đối tượng sở hữu công nghiệp đó.
Về lý thuyết, các chủ sở hữu có thể tự mình tiến hành soạn thảo các
giấy tờ cũng như tiến hành các thủ tục để đăng ký bảo hộ sản phầm trí tuệ tuy

nhiên việc sử dụng các dịch vụ do các tổ chức, cá nhân hoạt động chuyên biệt
về sở hữu công nghiệp sẽ mang tính chuyên nghiệp cũng như hạn chế các chi
phí không cần thiết phát sinh và hạn chế quá trình chủ sở hữu phải tự mình
chỉnh sửa, bổ sung hoàn thiện quá nhiều lần hồ sơ xin đăng ký bảo hộ (do
không nắm bắt rõ quy trình, thủ tục của cơ quan Nhà nước).
Bên cạnh đó, khi chủ sở hữu có cơ sở để cho rằng sáng chế, giái pháp
hữu ích, nhãn hiệu,… đang được bảo hộ của mình có dấu hiệu bị xâm phạm
quyền, chủ sở hữu đó có thể đưa đơn yêu cầu giám định, yêu cầu các dịch vụ
về giải quyết khiếu nại đối tượng sở hữu công nghiệp đó. Mục đích của yêu
cầu này là xem xét xem liệu có sự xâm phạm quyền đối với những đối tượng
đó hay không, xâm phạm đến mức độ nào. Trên cơ sở đó yêu cầu các cơ quan
có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm hoặc áp dụng các biện pháp tự bảo vệ
thích hợp.
1.2.2. Vai trò của dịch vụ sở hữu công nghiệp
Dịch vụ sở hữu công nghiệp đóng một vai trò hết sức quan trọng trong
hoạt động sở hữu công nghiệp. Nhờ có các dịch vụ sở hữu công nghiệp do cá
nhân, tổ chức hay các cơ quan quản lý nhà nước về Sở hữu trí tuệ cung cấp,
các khách hàng muốn tìm kiếm sự bảo hộ của pháp luật đối với những thành
quả trí tuệ của họ có thể khắc phục được những khó khăn mà họ thường gặp
phải. Khó khăn đầu tiên nảy sinh là việc chính các chủ thể (khách hàng) đó
chưa có hiểu biết đầy đủ về quyền của mình đối với những thành quả đầu tư
do chính họ sáng tạo ra hoặc khi có nhận thức thì không biết được làm như

×