Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 124 trang )


2
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


1. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa: CHXHCN
2. Công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi giữa các
nước: Công ước Lahay năm 1993.
3. Bộ luật dân sự: BLDS
4. Hiệp định tương trợ tư pháp: HĐTTTP
5. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: Luật HN&GĐ 2000
6. Xã hội chủ nghĩa: XHCN













3
MỤC LỤC

NỘI DUNG
TRANG


Lời cam đoan…………………………………………………………
1

Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt ………… …………………
2

Mục lục ………………………………………………………………
3

Mở đầu…………………………………………………………………
6

1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài ………….………………
-

2. Tình hình nghiên cứu đề tài……………………………………….
7

3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu………………………………….
9

4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………….
10

5. Những đóng góp mới của Luận văn………………………………
-

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn………………………
11


7. Kết cấu của luận văn………………………………………………
-

Chƣơng I: Khái quát chung về pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố
nƣớc ngoài ở Việt Nam ….…………………………………………….
13

1.1. Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài …………………
-

1.1.1.Khái quát về nuôi con nuôi ……………………………………
-

1.1.2.Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài……………………
17

1.1.3.Vai trò của pháp luật về nuôi con nuôi ……………………………
19

1.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam ……………………
20


4
1.2.1. Giai đoạn trước thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế …….
21

1.2.2. Giai đoạn đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế……… ………….
26


Kết luận chương I
40

Chƣơng II: Nội dung của pháp luật hiện hành điều chỉnh quan hệ
nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài ở Việt Nam – So sánh với pháp
luật một số nƣớc trên thế giới
41

2.1.Nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi………………………………
-

2.1.1.Nguyên tắc “Khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng
quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc”
43

2.1.2.Việc nuôi con nuôi phải được thực hiện trên tinh thần tự nguyện
của các bên liên quan, không được có một sự phân biệt đối xử nào dù là
về giới tính.
46

2.1.3.Nguyên tắc “Chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngoài khi không
thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước”
47

2.2.Điều kiện nuôi con nuôi……………………………………………
51

2.2.1.Điều kiện đối với người nhận nuôi ………………………… …
-


2.2.2.Điều kiện đối với con nuôi ………………………………………
56

2.2.3. Điều kiện về ý chí ………………………………………………
59

2.3.Hệ quả pháp lí của nuôi con nuôi và chấm dứt việc nuôi con nuôi
63

2.3.1.Hệ quả pháp lí của nuôi con nuôi …………………………………
-

2.3.2.Chấm dứt việc nuôi con nuôi ……………………………………
72

2.4.Thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài .….
74


5
2.5.Trình tự, thủ tục đăng ký nuôi con nuôi……… ……………………
79

2.6.Nhận xét, đánh giá quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam với pháp luật một số nước
trên thế giới và bài học cho Việt Nam…………………………………
87

Kết luận chương II……………………………………………………….

93

Chƣơng III: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt
Nam điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài trong
giai đoạn hiện nay ……………………………………………………
94

3.1. Thực trạng giải quyết quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
ở Việt Nam……………………………………………………………….
-

3.1.1. Những ưu điểm
-

3.1.2.Bất cập, tồn tại……………………………………………………
98

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài tại Việt Nam.……………………………………………………
113

3.2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý………………………………………….
-

3.2.2. Hoàn thiện, đổi mới hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền
giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài…………………………
114

3.2.3. Một số giải pháp khác
116


Kết luận chương III
118

Kết luận chung ……………………………………………………
119

Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………………
121





6
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Nuôi con nuôi là một quan hệ xã hội đặc biệt đã xuất hiện từ lâu ở nhiều
nước trên thế giới. Vấn đề này chỉ thực sự trở thành mối quan tâm của cộng
đồng từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất và được khẳng định là một trong
những quyền dân sự cơ bản của trẻ em trong các văn kiện pháp lý quan trọng
về quyền con người từ sau đại chiến thế giới lần thứ hai. Những thập niên gần
đây, nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yêu tố nước ngoài nói riêng
ngày càng phát triển với quy mô rộng lớn và phức tạp hơn.
Kể từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, quan hệ quốc
tế ngày càng được mở rộng, thì các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngoài, trong đó có quan hệ nuôi con nuôi ngày càng thu hút được sự
chú ý của xã hội. Trong bối cảnh đó, về mặt pháp luật có thể thấy trước đây

các quy định về nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài nói riêng được quy định rải rác ở nhiều văn bản khác nhau như Bộ
Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, các Nghị định và một số thông tư…
nên rất tản mạn, khó tiếp cận và áp dụng trên thực tế.
Trước tình hình đó, Luật nuôi con nuôi ra đời đã đánh dấu sự kiện quan
trọng của quá trình pháp điển hoá các quy phạm pháp luật và thực tiễn giải
quyết các vấn đề về nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài nói riêng, tạo cơ sở pháp lý thống nhất và ổn định lâu dài cho công tác
quản lý nhà nước về nuôi con nuôi, đồng thời chấm dứt tình trạng hai mặt
bằng pháp lý gần như tách biệt về nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài.

7
Trước yêu cầu hội nhập quốc tế, nhất là việc Việt Nam đã tham gia Công
ước Lahay 1993, yêu cầu pháp luật Việt Nam phải hài hoà với pháp luật
nhiều nước trên thế giới và thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình thực
hiện quy định pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam,
pháp luật cũng bộc lộ một số hạn chế và thực tiễn giải quyết quan hệ nuôi con
nuôi còn một số vướng mắc. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống,
toàn diện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam có so
sánh với pháp luật một số nước trên thế giới trở thành vần đề cấp thiết trong
giai đoạn hiện nay. Từ những yêu cầu khách quan về lý luận và thực tiễn trên,
tác giả đã lựa chọn đề tài “Pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại
Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật nước ngoài” làm Luận
văn tốt nghiệp Cao học Luật, chuyên ngành Luật quốc tế.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở nước ta đã được nhiều nhà
khoa học pháp lí nghiên cứu dưới các góc độ, khía cạnh và mức độ khác
nhau. Trước và sau khi công bố Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công

dân Việt Nam và người nước ngoài, đã có một số công trình khoa học nghiên
cứu về quan hệ nuôi con nuôi như: Chuyên đề về "Chế định nuôi con nuôi
trong pháp luật Việt Nam và quốc tế" của Viện nghiên cứu khoa học pháp lí -
Bộ Tư pháp năm 1998; bài viết của Nguyễn Công Khanh "Hoàn thiện pháp
luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài" đăng trên
tạp chí nghiên cứu lập pháp.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 được Quốc hội khoá X thông qua
ngày 09/06/2000 có hiệu lực từ ngày 01/01/2001 đánh dấu bước phát triển

8
mới của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Sau sự kiện này, nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết mang tính chất
bình luận Luật Hôn nhân và gia đình đã góp phần làm phong phú lí luận cơ
bản về các quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi như: Bài
viết của thạc sĩ Ngô Thị Hường "Về chế định nuôi con nuôi trong luật hôn
nhân và gia đình năm 2000" đăng trên Tạp chí luật học số 3/2001; Bài viết
của thạc sỹ Nguyễn Phương Lan “Bản chất pháp lý của việc nuôi con nuôi
theo pháp luật Việt Nam” đăng trên tạp chí Luật học số 3 năm 2004…;
Trong thời gian Việt Nam đang xem xét để gia nhập Công ước Lahay
1993 có nhiều hội thảo đề cập đến quan hệ nuôi con nuôi như: Hội thảo của
Bộ Tư pháp (10/2003) “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam hướng tới gia nhập
Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi ”
với nhiều báo cáo tham luận đề cập tới quan hệ nuôi con nuôi; đề tài nghiên
cứu khoa học tháng 10/2005 của Cục con nuôi quốc tế - Bộ Tư pháp “Hoàn
thiện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trước yêu cầu gia nhập
Công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi
con nuôi quốc tế”.
Ngoài ra, vấn đề nuôi con nuôi quốc tế còn được đề cập trong một số công
trình nghiên cứu khoa học như: đề tài luận án tiến sỹ “Pháp luật điều chỉnh
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” của tác giả Nguyễn Công Khanh; đề tài

luận án tiến sỹ “Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài”
của tác giả Nguyễn Hồng Bắc…. Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ đề
cập một khía cạnh nhất định của quan hệ nuôi con nuôi mà chưa có một công
trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống về pháp
luật điều chỉnh quan hệ nuôi con có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam có đối

9
chiếu so sánh với pháp luật của một số nước trên thế giới nhất là trong giai
đoạn hiện nay Việt Nam đã là thành viên của Công ước Lahay năm 1993.

3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
 Mục đích của việc nghiên cứu đề tài.
+ Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật điều
chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam.
+ Phân tích quy định hiện hành của pháp luật pháp luật Việt Nam và điều
ước quốc tế Việt Nam là thành viên điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài có so sánh với pháp luật của một số nước trên thế giới, để từ đó tìm
ra điểm tương đồng và điểm khác biệt của pháp luật Việt Nam so với các nước
trong điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Từ việc nghiên
cứu pháp luật của một số nước trên thế giới và trong khu vực về nuôi con nuôi,
luận văn rút ra bài học cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực
này.
+ Đánh giá thực trạng pháp luật và thực thi quy định của pháp luật điều
chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, từ đó đưa ra giải pháp để
hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - giai đoạn hội nhập và phát triển.
 Phạm vi nghiên cứu
Đây là đề tài tương đối rộng nên luận văn chỉ tập trung phân tích có đối
chiếu so sánh những quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài tại Việt Nam (pháp luật trong nước Việt Nam và các điều ước

quốc tế mà Việt Nam là thành viên) với pháp luật một số nước trên thế giới về
các vấn đề cơ bản của nuôi con nuôi như: nguyên tắc, điều kiện nuôi, hệ quả

10
pháp lý, thẩm quyền, trình tự, thủ tục của việc nuôi con uôi có yếu tố nước ngoài
ở Việt Nam. Khi so sánh quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam, luận văn cũng chỉ chủ yếu so sánh với
pháp luật của những nước đã là thành viên của Công ước Lahay năm 1993 để từ
đó rút ra bài học, kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện pháp luật
về nuôi con nuôi.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết những mục đích đã được xác định ở trên, tác giả dựa trên cơ
sở lí luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật, trong đó tác giả đặc biệt coi trọng các phương
pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, phương pháp hệ thống, so sánh và phương
pháp lịch sử. Trong số các phương pháp cụ thể này, phương pháp so sánh được
sử dụng như là phương pháp chủ đạo để đối chiếu giữa quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành với quy định trước đây; để đối chiếu quy định của pháp luật
Việt Nam với pháp luật một số nước trên thế giới và khu vực để tìm ra những
điểm tương đồng và những điểm khác biệt của pháp luật Việt Nam trong lĩnh
vực này.

5. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách hệ thống về pháp luật điều
chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam. Có thể coi những
điểm sau đây là những đóng góp mới về mặt khoa học của Luận văn:
- Phân tích một cách có hệ thống lí luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh quan
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài;


11
- Phân tích một cách hệ thống và có so sánh những quy định của pháp luật
Việt Nam và các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên điều
chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Đồng thời, phân tích và so
sánh quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước trên thế giới và
khu vực để rút ra bài học cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện pháp luật điều
chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài;
- Đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; đề xuất những giải pháp hoàn
thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
- Những kết quả nghiên cứu của Luận văn là những bổ sung vào lí luận về
pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; những đề xuất, kiến nghị trong luận văn
có thể đóng góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện và đổi mới pháp luật điều
chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam.
- Có thể sử dụng Luận văn làm tài liệu tham khảo cho các sinh viên chuyên
ngành luật, các tài liệu nghiên cứu về vấn đề pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài.
- Các nội dung đề xuất, giải pháp trong luận văn cũng có thể được áp dụng để
giải quyết phần nào những bức xúc liên quan đã và đang đặt ra trong thực tiễn.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu thành 3 chương:

12
Chương I: Khái quát chung về pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài ở Việt Nam.

Chương II: Nội dung quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh quan hệ
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam - so sánh với pháp luật một số
nước trên thế giới.
Chương III: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt nam điều
chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong giai đoạn hiện nay.



















13


CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI
CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM


1.1. Khái niệm về nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi
1.1.1.1. Nuôi con nuôi với ý nghĩa là một quan hệ xã hội
Nuôi con nuôi là một hiện tượng xã hội xuất hiện từ lâu trong lịch sử nhằm
đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của con người, thể hiện mối quan hệ gắn bó của
con người với nhau trên cơ sở những lợi ích chung. Với tư cách là một quan hệ
xã hội, nuôi con nuôi được E.A. Weinstein định nghĩa trong từ điển bách khoa
toàn thư về các môn khoa học xã hội như sau:
“Theo nghĩa rộng và không mang tính pháp lý thì nuôi con nuôi được định
nghĩa như là một thực tiễn xã hội được thể chế hoá, theo đó một cá nhân thuộc
về một gia đình hoặc một nhóm mang tính chất gia đình do sinh ra tiếp nhận
những liên hệ mới mang tính chất gia đình và những liên hệ mới này được xã hội
coi như ngang bằng với những mối liên hệ ruột thịt và thay thế một phần hoặc
toàn bộ những mối liên hệ đó” (Theo E.A. Weinstein, “Adoption”, in
International Encyclopedia of the Social Sciences, New York, 1968, p.97). [23,
tr.17-18]
Dưới góc độ xã hội thì nuôi con nuôi được hiểu là một quan hệ xã hội được
thiết lập giữa người nhận nuôi con nuôi với người được nhận làm con nuội nhằm
hình thành quan hệ cha mẹ và con trong thực thế với những mối liên hệ gia đình

14
mới, để thoả mãn những nhu cầu tinh thần hoặc lợi ích vật chất nhất định của các
bên.
1.1.1.2. Nuôi con nuôi với ý nghĩa là một sự kiện pháp lý
Dưới góc độ pháp lý, nuôi con nuôi được hiểu là sự xác lập về mặt pháp lý
quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi mà giữa
hai bên không có mối quan hệ huyết thống. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có văn
bản pháp lý nào, kể cả Công ước Lahay 1993 cũng như các điều ước quốc tế đa
phương hay song phương đưa ra khái niệm hoàn chỉnh mang tính pháp lý về
nuôi con nuôi.

Quan điểm của các nước về bản chất pháp lý của việc nuôi con nuôi có sự
khác nhau. Một số nước như Thuỵ Điển, Pháp, Đức… cho rằng việc nuôi con
nuôi thể hiện ý chí đơn phương. Ý chí đó chỉ có hiệu lực khi được những người
có liên quan (cha, mẹ đẻ, người giám hộ hoặc chính bản thân đứa trẻ) và cơ quan
nhà nước có thẩm quyền (thường là Toà án) đồng ý. Do vậy, việc nuôi con nuôi
được coi là hành vi pháp lý đơn phương.
Quan điểm khác lại cho rằng việc nuôi con nuôi là một hợp đồng song vụ
giữa người nhận con nuôi và người cho con nuôi (cha mẹ đẻ, người giám hộ, cơ
sở nuôi dưỡng…) và có sự đồng ý của những người liên quan. Quan điểm này
được thể hiện trong pháp luật về nuôi con nuôi của Trung Quốc, Hàn Quốc…
Theo đó, việc nhận con nuôi không cần phải qua thủ tục công nhận tại Toà án mà
chỉ cần các bên thoả thuận phù hợp với yêu cầu pháp luật.
Quan điểm của Việt Nam tuy chưa thật sự rõ nét nhưng cũng đã được thể
hiện trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Luật HN&GĐ 2000), theo đó
dưới góc độ pháp lý, việc nuôi con nuôi không thể là một hợp đồng dân sự giữa
người nhận nuôi và người cho con nuôi. Điều 71 Luật HN&GĐ năm 2000 quy

15
định “sự đồng ý” mà không phải sự thoả thuận của các bên. Đây là sự khác biệt
quan trọng so với quy định phải được sự thoả thuận của hai vợ chồng người
nuôi, của cha mẹ đẻ hoặc người đỡ đầu của người con nuôi chưa thành niên.
Điều này cho thấy sự ghi nhận bản chất của việc nuôi con nuôi không phải là
một hợp đồng. [23, tr.24].
Dù quan điểm khác nhau thì tựu chung lại có thể thấy về bản chất pháp lý,
nuôi con nuôi được hiểu là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ cha mẹ và
con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi. Như vậy, với tư cách là một
sự kiện pháp lý, nuôi con nuôi là một hình thức pháp lý nhằm xác lập quan hệ
cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi
theo các điều kiện do pháp luật quy định, mà không liên quan đến quan hệ huyết
thống giữa hai bên.

1.1.1.3. Nuôi con nuôi với ý nghĩa là một quan hệ pháp luật
Với tư cách là một quan hệ pháp luật, quan hệ nuôi con nuôi có thể được
hiểu theo nghĩa là một quan hệ pháp luật hoặc là nhóm các quan hệ pháp luật
trong lĩnh vực nuôi con nuôi.
Theo nghĩa là một loại quan hệ pháp luật, nuôi con nuôi có các yếu tố chủ
thể, khách thể và nội dung. Chủ thể của quan hệ nuôi con nuôi bao gồm: người
cho con làm con nuôi (cha mẹ đẻ, người giám hộ), người nhận nuôi con nuôi,
người được nhận làm con nuôi. Những lợi ích về vật chất hoặc tinh thần mà các
chủ thể hướng tới chình là khách thể của quan hệ này. Nội dung của quan hệ
nuôi con nuôi là những quyền và nghĩa vụ pháp lý tương ứng của các chủ thể
trên cơ sở phát sinh quan hệ cha mẹ và con hợp pháp giữa người nhận nuôi và
người được nhận nuôi. [23, tr.30].

16
Quan hệ pháp luật nuôi con nuôi còn được hiểu theo nghĩa là nhóm các
quan hệ pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi. Các quan hệ pháp luật này có thể
là các loại quan hệ pháp luật khác nhau, như: quan hệ pháp luật hành chính trong
đăng kí việc nuôi con nuôi; quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình trong việc
điều chỉnh quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và con nuôi; quan hệ
pháp luật tố tụng trong giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi… Tập hợp tất cả
các quan hệ pháp luật này thể hiện sự điều chỉnh của pháp luật đối với các quan
hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi. [23, tr.32].
1.1.1.4. Nuôi con nuôi với ý nghĩa là một chế định pháp lý
Trong việc nuôi con nuôi, yếu tố quyết định đến hiệu lực pháp lý của việc
nuôi con nuôi là sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, là sự thể
hiện ý chí của nhà nước, chứ không phải là ý chí đơn phương của các chủ thể. Ý
chí của nhà nước được thể hiện qua hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh
quan hệ nuôi con nuôi. Do đó còn có thể hiểu khái niệm nuôi con nuôi với tư
cách là một chế định pháp lý.
Chế định nuôi con nuôi là tổng hợp các quy phạm pháp luật, do nhà nước

ban hành, điều chỉnh việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể có liên quan trong việc cho nhận con nuôi, trên
cơ sở hình thành quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được
nhận làm con nuôi.
Khái niệm nuôi con nuôi đã được quy định một cách rõ ràng tại Điều 67
của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan
hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con
nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội”. Luật Nuôi con nuôi năm 2010

17
đã thừa kế khái niệm đó nhằm kiến tạo một hệ thống các thuật ngữ pháp lý về
nuôi con nuôi.
Theo đó, khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 xác định: Nuôi
con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững giữa người
nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi thông qua việc đăng ký tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khi các bên có đủ điều kiện theo quy định của
pháp luật, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em được nhận làm con nuôi, bảo đảm trẻ em
được yêu thương, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia đình
thay thế.
Khái niệm này đã nêu lên việc xác lập quan hệ giữa cha, mẹ và con bằng
con đường nuôi dưỡng để phân biệt với việc hình thành quan hệ giữa cha, mẹ và
con bằng con đường huyết thống. Nếu như quan hệ giữa cha, mẹ đẻ và con đẻ là
quan hệ gia đình “huyết thống” được hình thành do việc sinh đẻ thì quan hệ giữa
cha, mẹ nuôi và con nuôi là quan hệ “nhân tạo” được xác lập về mặt pháp lí. Một
quan hệ nuôi con nuôi chỉ được xác lập khi có sự tham gia cùng lúc của hai loại
chủ thể hưởng quyền, có khả năng và điều kiện thực hiện các quyền chủ thể
tương ứng, đó là “chủ thể nhận nuôi con nuôi” (cha, mẹ nuôi) và “chủ thể được
nhận làm con nuôi” (con nuôi).
1.1.2. Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài

Khái niệm về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được quy định tại khoản 5
Điều 3 Luật Nuôi con nuôi năm 2010. Theo đó, nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa
người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với
nhau mà một bên định cư ở nước ngoài.

18
Trên cơ sở đó, Điều 28 Lụât Nuôi con nuôi năm 2010 đã quy định rõ các
trường hợp được coi là nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, bao gồm:
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở
nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam
nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở
nước ngoài được nhận con nuôi đích danh trong các trường hợp sau đây:
+ Là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi;
+ Là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi;
+ Có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được nhận làm con nuôi;
+ Nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo
khác làm con nuôi;
+ Là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian
ít nhất là 01 năm.
- Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em nước ngoài
làm con nuôi.
- Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi ở Việt Nam
Như vậy, theo quy định của Luật Nuôi con nuôi năm 2010 thì nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi được thực hiện giữa công dân Việt
Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau cùng thường trú tại
Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định
cư ở nước ngoài. Quy định này phù hợp với quy định của Công ước Lahay năm
1993, theo đó, việc nuôi con nuôi được thực hiện giữa một người hoặc hai người

là vợ chồng cùng thường trú ở nước ngoài xin nhận một trẻ em thường trú ở
nước khác làm con nuôi, có sự di chuyển trẻ em từ nước này sang nước khác, và

19
thông lệ của một số nước trên thế giới coi việc nhận một trẻ em có quốc tịch
khác làm con nuôi là nuôi con nuôi quốc tế. [14,tr.5].
1.1.3. Vai trò của pháp luật về nuôi con nuôi
Nếu trước đây việc nuôi con nuôi được coi như một phương thức để đảm
bảo sự nối dõi tông đường và duy trì sự phát triển tài sản của cha ông để lại thì
ngày nay ý nghĩa xã hội của việc nuôi con nuôi đã thay đổi. Nuôi con nuôi không
chỉ là một biện pháp phúc lợi cho trẻ em mà còn là một biện pháp xã hội và pháp
lý bảo vệ trẻ em nhằm tạo ra mái ấm gia đình, sự yêu thương đùm bọc của cha
mẹ nuôi để cứu giúp những trẻ em bất hạnh bị mồ côi, lang thang cơ nhỡ, cha mẹ
bỏ rơi, không nơi nương tựa…
Pháp luật về nuôi con nuôi có vai trò quan trọng trong việc xác lập, điều
chỉnh quan hệ gia đình được hình thành từ việc nuôi con nuôi, cụ thể:
- Sự điều chỉnh của pháp luật là nhằm định hướng, tạo khung pháp lý cơ
bản cho việc nuôi con nuôi, để thực hiện một trong các quyền cơ bản của con
người, đặc biệt là của trẻ em, phù hợp với các chuẩn mực đạo đức của xã hội và
lợi ích chung của đất nước;
- Mục đích của việc nuôi con nuôi trong thực tế rất đa dạng. Sự điều chỉnh
của pháp luật là cần thiết nhằm xác định rõ mục đích của việc nuôi con nuôi là
xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên, bảo vệ lợi ích chính đáng của các
bên, mà trước hết là của trẻ em được nhận làm con nuôi;
- Pháp luật nuôi con nuôi xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong
quan hệ nuôi con nuôi, làm cho các bên đặc biệt là bên người nhận nuôi con nuôi
hiểu rõ được quyền và trách nhiệm của mình khi thiết lập quan hệ nuôi con nuôi.
Quan hệ cha mẹ và con trong việc nhận nuôi con nuôi là quan hệ đặc thù, không
gắn với huyết thống sinh học. Do đó, việc xác lập các quyền và nghĩa vụ pháp lý


20
của các chủ thể bằng các quy phạm pháp luật là cần thiết nhằm tạo sự ổn định,
bền vững trong gia đình, đảm bảo được quyền và lợi ích chính đáng của các bên
trong quan hệ nuôi con nuôi;
- Pháp luật nuôi con nuôi là cơ sở pháp lý để giải quyết có hiệu quả tình
trạng trẻ em không có đủ điều kiện tốt trong gia đình để chúng được phát triển
toàn diện về thể chất và tinh thần;
- Pháp luật nuôi con nuôi là cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm quyền thực
hiện việc kiểm tra, giám sát, điều chỉnh việc nuôi con nuôi; phát hiện, ngăn chặn,
xử lý kịp thời những hành vi xâm phạm lợi ích của trẻ em được nhận nuôi hoặc
hành vi lạm dụng việc nuôi con nuôi để thực hiện những mục đích trái pháp luật,
trái đạo đức khác;
- Do quan hệ nuôi con nuôi bị chi phối trước hết bởi yếu tố tình cảm của
chủ thể nên sự điều chỉnh của pháp luật có ý nghĩa quan trọng. Các quy phạm
pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi là cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh có liên quan đến vấn đề nuôi con nuôi,
như: xác định họ tên, quyền thừa kế tài sản của người con nuôi, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại về tài sản do người con nuôi gây ra…
1.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài ở Việt Nam
Nghiên cứu pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài ở Việt Nam đòi hỏi phải có sự nghiên cứu quá trình hình thành và phát
triển của nó trong thời gian qua, thực trạng hệ thống pháp luật đó trong giai đoạn
hiện nay và xu thế vận động của nó trong thời gian tới. Trên cơ sở xuất phát
điểm như vậy, có thể chia quá trình hình thành và phát triển pháp luật điều chỉnh
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam thành hai giai đoạn lớn:

21
Giai đoạn trước thời kì đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế (trước năm 1986) và
giai đoạn từ thời kì đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế đến nay.

1. 2.1. Giai đoạn trước thời Kì đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế
Nghiên cứu pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn này, có thể thấy những điểm phát triển của nó
qua các giai đoạn nhỏ sau:
1.2.1.1. Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám 1945
Các quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi chiếm vị trí quan
trọng trong pháp luật phong kiến nước ta từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX, tiêu biểu
nhất là hai bộ luật Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ.
- Quốc triều hình luật, còn gọi là Bộ luật Hồng Đức được ban hành dưới
triều Lê. Bộ luật Hồng Đức là một công trình vĩ đại, đã kế thừa các di sản luật
pháp của các đời vua trước, đồng thời tiếp thu có gạn lọc Bộ luật nhà Đường
(Trung Quốc) mà vẫn giữ được nét độc đáo của nền cổ luật Việt Nam, thể hiện
phong tục tập quán lâu đời và truyền thống văn hoá dân tộc.
- Hoàng Việt luật lệ, còn gọi là Bộ luật Gia Long, được ban hành vào đầu
thời Nguyễn.
Hai bộ luật này quy định khá cụ thể việc điều chỉnh quan hệ pháp lí giữa vợ
và chồng, quan hệ tài sản của vợ, chồng và con trong gia đình, vấn đề nuôi con
nuôi. Nghiên cứu các chế định này cho thấy, pháp luật nước ta lúc đó đã thể hiện
rõ nét phong tục, tập quán truyền thống của người Việt Nam về gia đình, trong
đó có những điểm mà chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu. Song các bộ luật này
cũng không thể tránh khỏi hạn chế của chế độ phong kiến đang suy tàn, xu
hướng duy trì chế độ phụ hệ cứng nhắc, triệt tiêu sự bình đẳng giữa vợ và chồng,
giữa con trai và con gái, con nuôi và con đẻ. Nói về mối quan hệ này INSUNYN

22
học giả người Hàn Quốc viết: “Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái là quan hệ
giữa hai thế hệ (cha mẹ là thế hệ bề trên, con cái là thế hệ bề dưới); Sự thống trị
và sự lệ thuộc là kiểu mẫu chung của cách đối xử trong xã hội truyền thống Việt
Nam”[31, tr.134].
Dưới thời Pháp thuộc, đất nước ta bị chia làm ba Kì là Bắc Kì, Trung Kì và

Nam Kì. Sau khi xâm lược Việt Nam và đặt ách đô hộ ở Nam Kì, thực dân Pháp
đã ban hành Bộ dân luật giản yếu Nam Kì áp dụng ở Nam Kì và ba thành phố Hà
Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng. Bộ dân luật Bắc Kì được ban hành vào ngày
30/3/1931 theo Nghị định của Thống sứ Bắc Kì để thi hành trên toàn Bắc Kì từ
ngày 1/7/1931 thay cho Bộ luật Gia Long. Hoàng Việt Trung Kì hộ luật được
ban hành năm 1939 thi hành trên toàn Trung Kì. Về thực chất vẫn là phiên bản
của Bộ dân luật Bắc Kì có sửa đổi, bổ sung một số điều cho phù hợp với các tỉnh
Trung Kì và triều đình Huế. Về quan hệ hôn nhân và gia đình, các bộ luật này đã
quy định về quyền và nghĩa vụ giữa vợ, chồng, chế độ tài sản của vợ chồng, vấn
đề nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con theo mô hình phương
Tây. Song pháp luật dân sự thời Kì này có những mặt hạn chế nhất định. Hạn
chế đáng kể nhất đó là các quy định về gia đình vẫn mang nặng tư tưởng phong
kiến, đề cao nho giáo, trọng nam khinh nữ và đề cao quyền gia trưởng, nhiều quy
định về nghĩa vụ của con còn rất khắt khe và các bộ luật này không điều chỉnh
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng. Ở Việt Nam, nếu nhìn rộng ra sẽ thấy
trong thời kì này các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài không
được luật quy định.
1.2.1.2. Giai đoạn từ 1945 – 1986

23
Ngay từ khi ra đời, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã quan tâm và
coi trọng việc xây dựng hệ thống pháp luật nhằm củng cố và bảo vệ thành quả
của cách mạng, phục vụ lợi ích của nhân dân lao động. Hiến pháp năm 1959 là
cơ sở pháp lí quan trọng để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình trong thời
kì này, tuy vậy vẫn chưa có quy định cụ thể điều chỉnh trực tiếp quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Nhìn chung, pháp luật điều chỉnh quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài trong giai đoạn này có một số đặc
điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật trong nước về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố

nước ngoài nói chung và quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng
còn hết sức đơn giản, chưa tập hợp thành hệ thống, chưa điều chỉnh đầy đủ các
quan hệ đó. Ngoài các văn bản hướng dẫn về đường lối xét xử của Toà án nhân
dân tối cao đối với các vụ việc có yếu tố nước ngoài, Nhà nước ta chủ trương
chưa ban hành văn bản pháp luật riêng để điều chỉnh trực tiếp quan hệ hôn nhân
và gia đình có yếu tố nước ngoài mà chỉ điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình
trong nước theo Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đã ghi nhận quyền bình đẳng
giữa nam và nữ về mọi mặt. Đó là cơ sở pháp lí quan trọng để xây dựng chế độ
gia đình mới dân chủ và tiến bộ ở nước ta. Ngoài ra, trong thời kì này quan hệ
hôn nhân và gia đình còn được điều chỉnh theo một số sắc lệnh. Các sắc lệnh đã
xoá bỏ những quy định lạc hậu của chế độ gia đình phong kiến, thực dân, góp
phần vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thúc đẩy phát triển xã hội Việt Nam.
Thứ hai, quan hệ hợp tác giữa nước Việt Nam dân chủ cộng hoà với các
nước chủ yếu với các nước XHCN ở giai đoạn này mới bắt đầu kiến lập và dần
dần được củng cố. Bên cạnh sự giúp đỡ về chính trị, kinh tế, khoa học kĩ thuật,
các nước còn tiếp nhận đào tạo nhiều công dân Việt Nam thuộc các ngành nghề

24
khác nhau. Thời kì này Việt Nam đã bắt đầu gửi sang Liên Xô và các nước Đông
Âu nhiều công dân để học tập, nghiên cứu, đồng thời Việt Nam cũng tiếp nhận
chuyên gia, cán bộ của các nước đến công tác, giúp đỡ và huấn luyện cho cán bộ
Việt Nam. Trong bối cảnh đó, các quan hệ xã hội có yếu tố nước ngoài phát sinh,
đòi hỏi phải được pháp luật điều chỉnh, tuy vậy, vấn đề điều chỉnh quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài chưa phải là yêu cầu bức xúc. Nhưng chính nhờ
vậy đã làm nảy sinh khả năng tiềm tàng cho sự phát triển tiếp tục các xu hướng
điều chỉnh pháp luật quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam
trong các giai đoạn sau.
Trong giai đoạn này, bản Hiến pháp mới của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa đã được Quốc hội thông qua tại kì họp thứ 11 ngày 31/12/1959 tiếp tục
khẳng định và ghi nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ (Điều 24). Xuất phát từ

tình hình thực tế của quan hệ hôn nhân và gia đình trong thời kì mới, Luật hôn
nhân và gia đình đã được Quốc hội thông qua tại kì họp thứ 11 ngày 29/12/1959
và được Chủ tịch nước kí Sắc lệnh số 02/SL công bố ngày 13/1/1960. Về quan
hệ hôn nhân và gia đình, Luật đã điều chỉnh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và
chồng, giữa cha, mẹ và con. Tuy nhiên, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959
không có quy phạm điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong thời
kỳ này đã có sự phát triển nhất định so với giai đoạn trước, biểu hiện ở một số
nội dung sau:
Thứ nhất, pháp luật đã điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài. Cụ thể:
Ở miền Bắc, trong năm 1961 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 04 ngày
16/1/1961 kèm theo Điều lệ về đăng kí hộ tịch, trong đó có quy định vấn đề sinh,

25
tử, kết hôn. Ngày 21/6/1961, Bộ nội vụ ban hành Thông tư số 05/NV hướng dẫn
thi hành Điều lệ về đăng kí hộ tịch nói trên. Tuy nhiên, trong văn bản pháp luật
này chưa quy định điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đầy
đủ nhưng những quy định đó sẽ là nền móng cơ bản để chúng ta giải quyết quan
hệ nuôi con nuôi. Trong giai đoạn này, một số ít trường hợp người nước ngoài
nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi đã được giải quyết. Do vấn đề nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài không được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật nói trên
nên khi giải quyết các việc này các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của ta còn
gặp nhiều lúng túng, khó khăn.
Một điểm đáng chú ý, ở miền Nam, cũng trong thời gian này, chính quyền
Nguỵ Sài Gòn, Nguyễn Văn Thiệu đã ban hành Bộ dân luật ngày 20/12/1972.
Trong bộ dân luật này đã quy định về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngoài. Chẳng hạn, Điều 248 Bộ dân luật Sài Gòn 1972 quy định về vấn đề
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, theo quy định này thì “Người Việt Nam có
thể lập người ngoại quốc làm con nuôi hay làm con nuôi của người ngoại quốc”.

Sau khi thống nhất đất nước (năm 1975), quan hệ hợp tác giữa Việt Nam
với các nước ngày càng được mở rộng. Trong bối cảnh có nhiều công dân Việt
Nam ra nước ngoài học tập, công tác, nghiên cứu và lao động, cũng như có nhiều
chuyên gia, cán bộ nước ngoài vào Việt Nam công tác, làm việc đã phát sinh
ngày càng nhiều các quan hệ xã hội trong đó có quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài, đòi hỏi phải được pháp luật điều chỉnh. Để xử lí tình hình này,
CHXHCN Việt Nam đã tiến hành đàm phán và kí kết các HĐTTTP với Cộng
hoà dân chủ Đức (1980), Liên Xô (1981), Tiệp Khắc (1982), Cu Ba (1984),
Hungari (1985), Bungari (1986). Các hiệp định này đã tạo lập một khung pháp lí
khá hoàn chỉnh điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi giữa các nước kí kết hiệp định.

26
Song song với việc kí kết các hiệp định, Nhà nước cũng ban hành một số văn
bản để điều chỉnh một số vấn đề riêng lẻ trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài.
Thứ hai, ngoài quan hệ hợp tác quốc tế với các nước XHCN, Việt Nam đã
dần dần mở rộng quan hệ với các nước khác, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài cũng dần dần trở nên phức tạp hơn. Tuy vậy, trong giai đoạn này,
HĐTTTP đã chỉ được kí giữa các nước XHCN, được thực hiện trên các nguyên
tắc XHCN, có nội dung cơ bản giống nhau.
Các HĐTTTP này đã điều chỉnh khá toàn diện các vấn đề quan hệ hôn nhân
và gia đình như quan hệ kết hôn, quan hệ pháp lí giữa vợ, chồng, quan hệ pháp lí
giữa cha, mẹ và con, vấn đề nuôi con nuôi, vấn đề giám hộ; vấn đề xung đột
pháp luật và xung đột thẩm quyền được giải quyết khá cụ thể. Việc thiết lập quan
hệ điều ước quốc tế như vậy cũng đặt ra khả năng đàm phán và kí với các nước
khác những hiệp định tương tự và cũng đặt ra yêu cầu cần thiết hoàn thiện hệ
thống pháp luật điều chỉnh quan nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở nước ta
trong giai đoạn sau đó.
1.2.2. Giai đoạn đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế
Nghiên cứu pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước

ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn này có thể thấy sự phát triển của nó theo các
giai đoạn sau:
1.2.2.1. Giai đoạn từ 1986 - 2000
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nước ta bước sang một thời Kì mới, chuyển dần sang nền kinh tế thị trường theo
định hướng XHCN. Trước những thay đổi mới to lớn của đất nước, Nhà nước ta

×