Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Việc thành lập cơ quan nhân quyền ASEAN và chính sách pháp luật của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




PHẠM THỊ THU THUỶ




VIỆC THÀNH LẬP CƠ QUAN NHÂN QUYỀN ASEAN VÀ
CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM







LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
















HÀ NỘI - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




PHẠM THỊ THU THUỶ



VIỆC THÀNH LẬP CƠ QUAN NHÂN QUYỀN ASEAN VÀ
CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Chuyên ngành: Luật quốc tế
Mã số: 60 38 60




Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG NGỌC GIAO










HÀ NỘI - 2009

1
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN



Phạm Thị Thu Thủy

2
MỤC LỤC


Trang
Lời cam đoan
1
Mục lục
2
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
5
Danh mục các bảng
6
MỞ ĐẦU
7
Chƣơng 1 - CƠ SỞ PHÁP LÝ QUỐC TẾ BẢO VỆ QUYỀN
CON NGƢỜI VÀ THỰC TIỄN CÁC CƠ QUAN NHÂN
QUYỀN THẾ GIỚI


11
1.1. Tổng quan về nhân quyền trong Luật quốc tế
11
1.2. Luật quốc tế về nhân quyền
14
1.2.1. Sự phát triển của Luật quốc tế về nhân quyền
14

1.2.2. Nội dung cơ bản của luật quốc tế về quyền con người
17
1.3. Khái quát chung về các cơ chế bảo vệ nhân quyền trên thế giới
20
1.3.1. Cơ chế nhân quyền LHQ
21
1.3.2. Cơ chế nhân quyền châu Âu
24
1.3.3. Cơ chế nhân quyền châu Mỹ
25
1.3.4. Cơ chế nhân quyền châu Phi
26
1.4. Các loại hình cơ quan nhân quyền
27
1.4.1. Uỷ ban nhân quyền
27
1.4.2. Toà án nhân quyền
37
1.4.3. Các cơ quan khác
41
1.5. Một số vấn đề chung rút ra từ việc nghiên cứu các cơ quan nhân
quyền quốc tế

42
1.5.1. Chức năng và thẩm quyền
42

3
1.5.2. Cơ cấu tổ chức và thành viên
43

1.5.3. Về phương thức bảo đảm thực thi và hiệu quả hoạt động
44
CHƢƠNG 2- VẤN ĐỀ XÂY DỰNG CƠ QUAN NHÂN
QUYỀN ASEAN VÀ CHÍNH SÁCH NHÂN QUYỀN CỦA
VIỆT NAM


47
2.1. Khái quát về sự phát triển của ASEAN
47
2.2. Đặc thù của ASEAN
49
2.2.1. Sự đa dạng
49
2.2.2. Sự thống nhất
50
2.3. Nhận thức và thực tiễn bảo vệ quyền con ngƣời tại các nƣớc
ASEAN

52
2.3.1. Nhận thức về bảo vệ quyền con người
52
2.3.2. Thực tiễn về bảo vệ quyền con người tại các nước ASEAN
55
2.4. Vấn đề bảo vệ quyền con ngƣời của ASEAN
58
2.4.1. Tình hình hợp tác về nhân quyền
58
2.4.2. Sự cần thiết phải có các cơ quan chuyên trách bảo vệ quyền con
người tại ASEAN


62
2.4.3.Vị trí của vấn đề quyền con người trong Hiến chương
ASEAN
64
2.5. Việt Nam và vấn đề xây dựng Cơ quan nhân quyền ASEAN
67
2.5.1. Chính sách chung của Việt Nam về bảo vệ quyền con người
67
2.5.2. Hợp tác quốc tế bảo vệ quyền con người của Việt Nam
71
2.5.3. Về hợp hợp tác nhân quyền của Việt Nam trong ASEAN
73
CHƢƠNG 3 - CƠ QUAN NHÂN QUYỀN ASEAN: PHƢƠNG
THỨC ĐẢM BẢO HOẠT ĐỘNG, XU HƢỚNG HOÀN
THIỆN VÀ CÔNG TÁC CHUẨN BỊ CỦA VIỆT NAM


79
3.1. Cơ quan nhân quyền ASEAN
79

4
3.1.1. Mục đích của AICHR
79
3.1.2. Nguyên tắc hoạt động
80
3.1.3. Chức năng và nhiệm vụ
81
3.1.4. Cơ cấu tổ chức

83
3.2. Thách thức đối với AICHR
84
3.3. Kiến nghị phƣơng thức đảm bảo thực thi và hoạt động hiệu quả
cho AICHR

86
3.4. Vấn đề soạn thảo Công ƣớc nhân quyền ASEAN
89
3.5. Chức năng của các tiểu ban chuyên trách
92
3.5.1. Tiểu ban về quyền phụ nữ và trẻ em
93
3.5.2. Tiểu ban về quyền của người lao động nhập cư
93
3.5.3. Tiểu ban pháp lý
94
3.6. Việc chuẩn bị thực hiện tốt nghĩa vụ của Việt Nam khi AICHR
đi vào hoạt động

94
3.6.1. Vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
94
3.6.2. Vấn đề thành lập Ủy ban quốc gia quyền con người của Việt Nam
96
3.6.3. Chuẩn bị cho việc tham gia AICHR của Việt Nam
106
KẾT LUẬN
109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

112

5
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1.
ASEAN:
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
2.
AICHR:
Uỷ ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền
3.
AMM:
Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao các nước ASEAN
4.
CAT:
Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử hoặc
trừng phạt một cách tàn nhẫn, vô nhân đạo hay hạ thấp nhân
phẩm
5.
CQNQ:
Cơ quan nhân quyền
6.
CRC:
Công ước về quyền trẻ em
7.
CSOs:
Các tổ chức xã hội dân sự
8.
ĐHĐ:

Đại hội đồng liên hợp quốc
9.
HĐBA:
Hội đồng bảo an Liên hợp quốc
10.
HĐKT-XH:
Hội đồng kinh tế - xã hội Liên hợp quốc
11.
HĐNQ:
Hội đồng nhân quyền
12.
ICCPR:
Công ước quốc tế và các quyền dân sự và chính trị
13.
ICERD:
Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng
tộc
14.
ICESCR:
Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ
nữ
15.
ICRMW:
Công ước quốc tế bảo vệ Quyền của tất cả lao động nhập cư
và thành viên trong gia đình họ
16.
LHQ:
Liên hợp quốc
17.
NGOs:

Các tổ chức phi chính phủ
18.
TOR:
Quy chế tham chiếu của Uỷ ban liên chính phủ ASEAN về
nhân quyền

6
DANH MỤC CÁC BẢNG




Trang
1.
Bảng 1.1. Bảng biểu thống kê các phán quyết được Toà án nhân
quyền châu Âu tuyên từ năm 1959 đến năm
2008


45
2.
Bảng 2.2. Một số điều ước nhân quyền quan trọng mà các nước
ASEAN là thành viên

56


7
MỞ ĐẦU
Hiện nay nhân quyền đã trở thành một vấn đề thu hút sự chú ý rộng rãi

của dự luận thế giới, một nhân tố không kém phần quan trọng trong các
chương trình nghị sự và văn kiện của các Hội nghị quốc tế, các tổ chức quốc
tế và khu vực cũng như các hiệp định song phương, đa phương. Mặc dù ngày
nay nhân quyền vẫn được nhìn nhận với những quan niệm cũng như cơ chế
bảo vệ khác nhau nhưng tất cả các quốc gia đều công nhận rằng đó là những
quyền và tự do cơ bản mà bất kỳ con người nào sinh ra đều có.
Xu thế hội nhập quốc tế cũng như nhu cầu bảo vệ công dân của quốc gia
mình từ lâu đã thúc đẩy các khu vực hợp tác với nhau thành lập ra các cơ chế
nhân quyền nhằm đảm bảo tốt nhất các quyền cho người dân. Tuy nhiên, do
những đặc thù của khu vực, vấn đề nhân quyền của châu Á nói chung và khu
vực Đông Nam Á nói riêng đến nay vẫn chưa được hoàn thiện. Vấn đề xây
dựng cơ quan nhân quyền của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) đã
được đặt ra năm 1993, khi các Bộ trưởng ASEAN nhất trí xem xét việc thành
lập một cơ chế nhân quyền phù hợp cho khu vực Đông Nam Á và nhóm công
tác về Cơ chế nhân quyền ASEAN (Working Group on ASEAN Human
Rights Mechanism) đã được thành lập vào năm 1995.
Trong lộ trình hợp tác và thể chế hoá đường lối của mình, năm 2007
các quốc gia thành viên ASEAN đã thông qua Hiến chương ASEAN (sau đây
gọi là Hiến chương). Trong Hiến chương, lần đầu tiên ghi nhận một cách
chính thức việc sẽ thành lập một cơ quan chuyên trách về quyền con người
nhằm thực thi tốt việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong khu vực.
Đây là một hành động mà không chỉ người dân Việt Nam mà tất cả người dân
ASEAN đều mong đợi. Một cơ quan chuyên trách về quyền con người đầu
tiên của khu vực Đông Nam Á sẽ cho thấy sự đồng lòng, quyết tâm của các
quốc gia trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người và ý thức được rằng

8
việc bảo vệ nhân quyền sẽ hỗ trợ việc thực hiện tốt các mục tiêu khác của
ASEAN.
Tuy nhiên, Hiến chương không quy định chi tiết thẩm quyền, cơ cấu tổ

chức của cơ quan này mà yêu cầu Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao quyết định.
Trong thời gian tác giả bắt đầu thực hiện đề tài này thì các quốc gia thành
viên ASEAN đang gấp rút xây dựng cơ quan nhân quyền (sau đây gọi là
CQNQ) và đến ngày 20 tháng 7 năm 2009 Quy chế tham chiếu (TOR) của Uỷ
ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền (ASEAN Intergovernmental
Commission on Human Rights, viết tắt là AICHR, tên gọi chính thức của
CQNQ ASEAN) đã được Hội nghị các bộ trưởng ngoại giao (AMM) lần thứ
42 thông qua và dự kiến Quy chế này sẽ được trình lên Hội nghị thưởng đỉnh
ASEAN vào tháng 10 năm 2009 phê duyệt và cơ quan này chính thức vào
hoạt động vào tháng 12 năm 2009. Việt Nam đã cùng với các nước thành viên
khác tham gia xây dựng TOR.
Trước tình hình cơ quan nhân quyền chuẩn bị đi vào hoạt động, cần có
những nghiên cứu và phân tích cơ sở của việc thành lập AICHR nhằm hiểu rõ
được phạm vi hoạt động của cơ quan này trong tương lai, đưa ra những kiến
nghị để cơ quan này hoạt động có hiệu quả và công tác chuẩn bị của Việt
Nam sau khi AICHR đi vào hoạt động, góp phần nâng cao tính chủ động khi
tham gia vào quá trình này. Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài này cũng sẽ
giúp cho Việt Nam có cái nhìn rõ hơn trong việc tham gia vào quá trình hoạt
động CQNQ với mục đích vừa bảo vệ lợi ích của Việt Nam vừa thúc đẩy tốt
hơn bảo vệ quyền con người cũng như đóng góp chung vào hợp tác khu vực
và quốc tế, góp phần nâng cao uy tín của Việt Nam trong vấn đề bảo vệ quyền
con người.
Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn về các CQNQ trên thế giới, những
đặc thù của ASEAN và đặc biệt là quan điểm, chính sách của Việt Nam về

9
bảo vệ quyền con người đề tài mong đóng góp một phần nhỏ kiến nghị ủng hộ
cho việc phát triển chính sách của Việt Nam về hợp tác nhân quyền trong
ASEAN cũng như trong việc đề xuất một số kiến nghị giúp cơ quan này hoạt
động có hiệu quả hơn và công tác chuẩn bị của Việt Nam khi tham gia vào cơ

quan này.
Với những lý do trên tác giả chọn đề tài: “Việc thành lập cơ quan nhân
quyền ASEAN và chính sách pháp luật của Việt Nam”.
- Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng phương pháp lịch sử kết
hợp với duy vật biện chứng để tìm hiểu các khái niệm cơ bản, cơ sở lý luận và
xu thế phát triển của đối tượng nghiên cứu, phương pháp so sánh, đối chiếu
pháp luật và mô hình thực tiễn trên thế giới, phương pháp phân tích, đánh giá,
tổng hợp các ý kiến, tài liệu nghiên cứu có liên quan và phương pháp dự báo
triển vọng, đánh giá tác động và đề xuất phương hướng thực hiện.
- Nhiệm vụ nghiên cứu và cấu trúc luận văn:
Luận văn tập trung vào ba nội dung chính được chia theo ba chương.
Chương I nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về các cơ quan nhân quyền
trên thế giới. Chương này phân tích khái niệm về nhân quyền, các cơ chế
nhân quyền và tập trung vào các mô hình CQNQ trên thế giới. Dựa trên các
phân tích này luận văn tổng hợp những kinh nghiệm và đánh giá về các mô
hình CQNQ khác nhau trên phạm vi toàn cầu và khu vực.
Chương II xem xét cơ sở xây dựng cơ quan nhân quyền nhìn từ khu vực
ASEAN. Chương này tập trung khái quát sự phát triển của ASEAN, sự cần
thiết phải xây dựng CQNQ, những đặc thù về văn hoá, kinh tế, chính trị và xã
hội cũng như nhận thức và thực tiễn về bảo vệ quyền con người tại các nước
ASEAN. Vấn đề hợp tác trong lĩnh vực nhân quyền, đặc biệt là nghĩa vụ xây
dựng CQNQ mà các nước ASEAN đã cam kết trong Hiến chương cũng được
nghiên cứu. Với tư cách là một thành viên của ASEAN, Việt Nam không thể

10
đứng ngoài những hoạt động này do vậy những đề xuất trong luận văn cũng
nhằm phục vụ cho chính sách nhân quyền của Việt Nam nói riêng và lợi ích
của Việt Nam nói chung.
Chương III phân tích Bản quy chế tham chiếu của AICHR mới được
thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN lần thứ 42, những

thách thức khi cơ quan này đi vào hoạt động và đề xuất một số biện pháp
giúp cơ quan này hoạt động hiệu quả cũng như lộ trình để cơ quan này ngày
càng hoàn thiện hơn nhằm theo kịp các cơ chế nhân quyền khu vực. Chương
III cũng phân tích công tác chuẩn bị của Việt Nam và đưa ra kiến nghị về
việc hoàn thiện pháp luật khi AICHR đi vào hoạt động và phát triển.

11
Chƣơng 1 - CƠ SỞ PHÁP LÝ QUỐC TẾ BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƢỜI VÀ THỰC TIỄN CÁC CƠ QUAN NHÂN QUYỀN THẾ GIỚI

1.1. Tổng quan về nhân quyền trong Luật quốc tế
Điều 1 Tuyên ngôn nhân quyền thế giới nêu rõ “mọi người sinh ra đều tự
do và bình đẳng về phẩm giá và các quyền”. Do vậy, Nhân quyền tất cả
những quyền và tự do cơ bản mà bất kỳ con người nào sinh ra đều có. Tuy
nhiên, để được thừa nhận rộng rãi hiện nay trên thế giới, thì khái niệm nhân
quyền đã trải qua một quá trình lịch sử lâu dài gắn với lịch sử phát triển và
giải phóng con người qua các hình thái kinh tế-xã hội và các giai đoạn đấu
tranh giai cấp.
Đầu tiên khái niệm nhân quyền có nguồn gốc từ thời Hy Lạp cổ dưới
dạng các quyền tự nhiên của con người như quyền được sống… Trong chế độ
chiếm hữu nô lệ, người nô lệ không được coi là con người, không có và
không được thừa nhận các quyền con người. Chế độ phong kiến so với chế độ
nô lệ là một bước tiến trong việc giành lại quyền tự do và giải phóng con
người trong đó quyền được sống, được sở hữu chính bản thân mình đã được
thừa nhận. Tuy nhiên, quan hệ giữa những người thuộc bộ máy Nhà nước
Phong kiến với nhân dân vẫn là quan hệ giữa một bên là những người có đầy
đủ các quyền và tự do cơ bản của con người, có quyền định đoạt về quyền và
sự sống của người bị trị, với một bên là những người chỉ có được một số
quyền và tự do rất hạn chế. Đến giai cấp tư sản, là giai cấp đầu tiên nêu ngọn
cờ nhân quyền từ các tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, công lý, tuyệt đối hoá

tự do cá nhân, nhấn mạnh yếu tố cá nhân trong khái niệm quyền con người.
Phải kể đến ở đây 3 bản tuyên ngôn nhân quyền bất hủ ra đời sau cách mạng
Anh, Pháp và Mỹ, đó là Tuyên ngôn nhân quyền được Nghị Viện Anh thông
qua vào năm 1688 sau cuộc nội chiến và chiến thắng của Oliver Cromwell;

12
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền, được Quốc hội Pháp thông qua năm
1789 và Tuyên ngôn nhân quyền Hoà Kỳ (gồm 10 bản sửa đổi đầu tiên của
Hiến pháp) được thông qua năm 1791. Cả ba bản tuyên ngôn này đều nêu rõ
và thừa nhận các qyền và tự do của con người trong xã hội, chúng nhanh
chóng có ảnh hưởng rộng khắp, vượt ra ngoài biên giới quốc gia và những nội
dung được nêu trong tuyên ngôn này đã trở thành những khái niệm căn bản
cho hệ thống nhân quyền ở châu Âu nói riêng và thế giới nói chung.
Bản tuyên ngôn nhân quyền của Pháp được bắt đầu bằng câu nói bất hủ
“Con người sinh ra đều có quyền tự do và bình đẳng”. Trong đó “tự do là khả
năng được làm tất cả những gì không gây hại cho người khác” (điều 4). Ngày
nay, bản Tuyên ngôn này vẫn được coi là chuẩn mực cho các Hiến pháp của
Pháp qua các thời kỳ và có ảnh hưởng rộng rãi sang sác nước châu Âu khác
và các nước từng là thuộc địa của Pháp.
Tuy vậy quyền con người trong giai cấp tư sản chỉ tập trung nhấn mạnh
quyền dân sự, chính trị, coi nhẹ quyền kinh tế, văn hoá, xã hội. Chủ nghĩa
Mác và sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã bổ sung thêm một số khía
cạnh cho khái niệm nhân quyền. Theo đó, khái niệm quyền cơ bản của con
người không tách khỏi nhà nước. Theo Mác, nhân quyền là một giá trị được
hình thành trong cuộc đấu tranh giai cấp: quyền con người không phải là một
khái niệm trừu tượng, cũng không phải chỉ là những quyền mang tính tự
nhiên bẩm sinh, mà luôn gắn liền với cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột
chống bất công trong xã hội, gắn với từng trình độ phát triển của xã hội, chịu
sự hạn định của chế độ kinh tế, đặc biệt là chế độ chính trị - nhà nước [30,
tr.16].

Với phong trào giải phóng dân tộc và quá trình phi thực dân hoá từ
những năm 50-60 của thế kỷ trước, dẫn tới sự ra đời của một loạt các quốc gia

13
đang phát triển, khái niệm nhân quyền được gắn với quyền dân tộc tự quyết.
Quyền dân tộc tự quyết được hiểu là các quyền tự quyết định và tự do lựa
chọn thể chế chính trị, văn hoá, tự do theo đuổi con đường phát triển kinh tế,
xã hội và tự do định đoạt tài nguyên thiên nhiên và của cải của mình, vì lợi
ích của mình, miễn là không phương hại đến các nghĩa vụ quốc tế mà mình đã
cam kết [30, tr.xiv]. Sở dĩ quyền con người gắn liền với quyền dân tộc bởi
những quyền này có mỗi quan hệ chặt chẽ với nhau. Một dân tộc tự do, tự
định đoạt vận mệnh của mình mới có khả năng đảm bảo cho các cá nhân, với
tư cách là một phần của nó, được hưởng một cách đầy đủ những quyền vốn có
của mình. Tự do của cộng đồng và tự do của cá nhân có quan hệ nội tại, chế
định lẫn nhau.
Bên cạnh đó, vài thập kỷ gần đây một học thuyết mới về nhân quyền
cũng được hình thành đó là học thuyết tương đối văn hoá
1
(cultural
relativism). Theo học thuyết này, nhân quyền không chỉ được tiếp cận dưới
góc độ chính trị, pháp lý, kinh tế mà còn cần được xem xét dưới góc độ văn
hoá, bởi nhân quyền cũng có thể được coi là một thành tố văn hoá. Do đó,
khái niệm này chịu sự tác động của đặc điểm riêng của các nền văn hoá. Đây
chính là cách tiếp cận về nhân quyền ở khu vực châu Á, đặc biệt là cộng đồng
ASEAN. Trong báo cáo Băng Cốc năm 1993 các quốc gia ASEAN, cùng các
quốc gia châu Á khác đã khẳng định: “Các quyền con người phải được xét
có tính tới tầm quan trọng của những đặc điểm riêng biệt của quốc gia, khu
vực và sự đa dạng về các nền tảng lịch sử, văn hoá và tôn giáo [4, tr.8]. Điều
này có nghĩa là các quyền của con người sẽ được áp dụng và bảo vệ trên cơ sở
phù hợp với các quy định, chuẩn mực về văn hoá và tôn giáo.


1
Đây là một học thuyết của Frans Boas từ những thập niên đầu thế kỷ XX, sau đó được các sinh viên của
ông phổ biến vào năm 1942

14
Trên bình diện quốc tế, ngày nay quyền con người được chia làm hai
nhóm: nhóm thứ nhất bao gồm các quyền cơ bản không thể thiếu được cho sự
tồn tại của con người như quyền được sống, quyền bất khả xâm phạm ,
nhóm quyền này thiên về phương diện nhân bản học, chú trọng mặt sinh lý,
thể chất của con người; nhóm thứ hai bao gồm các quyền của con người sống
trong xã hội, nhóm quyền này chú trọng tới mặt xã hội của con người, xã hội
càng tiến bộ, các quyền này càng được mở rộng, chẳng hạn như các quyền
được học hành, quyền của phụ nữ và trẻ em, quyền được lao động, quyền của
các nhóm thiểu số Nếu như nhóm quyền thứ nhất đòi hỏi nhà nước không
có những hành vi can thiệp có thể gây tổn hại, thì nhóm quyền thứ hai lại cần
đến sự can thiệp của nhà nước để các quyền này có thể được thực hiện một
cách cụ thể.
Cũng có thể hiểu các nội dung của nhân quyền theo cách tiếp cận của
khoa học pháp lý. Đây là cách hiểu được cộng đồng quốc tế và các quốc gia
thừa nhận. “Nhóm quyền thứ nhất là các quyền chính trị, bao gồm quyền
được tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội như quyền bẩu cử và ứng cử,
quyền bình đẳng nam nữ, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, lập
hội, quyền biểu tình, bãi công, quyền tự do tín ngưỡng… Nhóm quyền thứ hai
là các quyền dân sự, bao gồm quyền tự do đi lại và cư trú trong nước, quyền
bất khả xâm phạm về thân thể và nhân phẩm, quyền bất khả xâm phạm về chỗ
ở, quyền bí mật về thư tín Nhóm quyền thứ ba là các quyền kinh tế- xã hội
bao gồm quyền lao động, tự do kinh doanh, quyền sở hữu hợp pháp, quyền
học tập, quyền nghiên cứu, quyền được bảo vệ sức khoẻ, những quyền mang
tính chất ưu tiên như quyền trẻ em, người già, người tàn tật ” [30, tr.26]

1.2. Luật quốc tế về nhân quyền
1.2.1. Sự phát triển của Luật quốc tế về nhân quyền

15
Luật quốc tế về nhân quyền có một quá trình phát triển lâu dài tuy nhiên
nó thực sự phát triển một cách nhanh chóng từ sau chiến tranh thế giới thứ
hai. Hiến chương LHQ 1945 đã tạo ra một sự thay đổi quyết định khi nêu rõ
một trong các mục tiêu của LHQ là khuyến khích sự tôn trọng nhân quyền tại
các nước thành viên, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo
(điều 1).
Trước năm 1945, các quốc gia, chính phủ gần như có toàn quyền định
đoạt cách đối xử với người dân và đó là thẩm quyền riêng của các Quốc gia.
Luật quốc tế chỉ can thiệp vào lĩnh vực này ở một khía cạnh rất nhỏ, đó là luật
nhân đạo. Ví dụ như các nước đã ký một số điều ước liên quan tới việc bảo vệ
thường dân trong chiến tranh
2
, điều ước cấm buôn bán nô lệ và trả thù người
da trắng
3

Bên cạnh luật nhân đạo quốc tế, vấn đề bảo vệ quyền con người còn
được thể hiện ở hoạt động bảo hộ ngoại giao quốc gia đối với các nạn nhân là
công dân của mình. Thực tiễn bảo hộ ngoại giao đã dẫn tới hình thành các quy
phạm luật tập quán về chế độ đối xử với người nước ngoài như tập quán về
tiêu chuẩn đối xử tối thiểu, theo đó quốc gia sở tại phải dành cho công dân
nước ngoài một sự đối xử theo những chuẩn mực tối thiểu như quyền được
xét xử công bằng, được đảm bảo về mặt an ninh
Nguyên tắc đối xử với công dân nước ngoài còn được thể hiện ở điểu
khoản đối xử quốc gia được các quốc gia dành cho nhau thông qua các điều
ước quốc tế, theo đó quốc gia sở tại dành cho công dân nước ngoài sự đối xử

tương đương với công dân nước mình về mọi mặt.

2 Công ước Genava về bảo hộ nạn nhân chiến tranh, được ký kết vào năm 1864, được coi là nền tảng cho
luật nhân đạo quốc tế. Công ước này đã được bổ sung, điều chỉnh và thuộc nhóm 4 Công ước Genava về bảo
hộ nạn nhân chiến tranh 1949.
3 Ví dụ Hiệp ước 23/9/1817 giữa Anh và Tây Ban Nha về cấm buôn bán nô lệ, Định ước Brussels 2/7/1890
ký giữa 17 nước về trừng trị nạn buôn bán nô lệ châu Phi

16
Sau năm 1945, Hiến chương LHQ là văn bản đầu tiên đánh dấu bước
ngoặt trong sự phát triển của luật quốc tế về nhân quyền dù đây không phải là
một tuyên bố chính thức về nhân quyền. Sau đó, với sự ra đời của một loạt
các cơ quan của LHQ, luật quốc tế về nhân quyền đã được thúc đẩy. Nhiều
công ước quốc tế quan trọng về quyền con người đã được các quốc gia thông
qua như: Tuyên ngôn nhân quyền thế giới (được thông qua tại Đại hội đồng
LHQ ngày 10/12/1948), Công ước về các quyền chính trị và dân sự, Công
ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá (được thông qua năm 1966 và có
hiệu lực năm 1976).
Những năm sau đó, nhiều công ước khác về quyền con người đã được
thông qua có sự tham gia của rất nhiều quốc gia trên thế giới. Năm 1996 có
185 nước phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em, hơn 151 quốc gia trở thành
thành viên của Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
và 146 nước đã tham gia vào Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử về mặt sắc tộc. Công ước về người tị nạn, Công ước về ngăn ngừa và trừng
trị tội ác diệt chủng, Công ước về các quyền chính trị của phụ nữ, đều có số
lượng thành viên tham gia rất lớn.
Bên cạnh các quy phạm của LHQ, tại các khu vực trên thế giới, luật về
nhân quyền cũng phát triển.
Tại châu Âu, Công ước về bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người
được Hội đồng châu Âu thông qua vào năm 1950, với sự tham gia của khoảng

40 nước. Đến nay, Công ước này đã được bổ sung bởi 13 Nghị định thư.
Tại châu Mỹ, Công ước châu Mỹ về các quyền con người đã được các
nước thành viên Tổ chức các quốc gia châu Mỹ thông qua năm 1969. Năm
1988, nghị định thư bổ sung cho Công ước, liên quan tới các quyền kinh tế,
xã hội và văn hoá đã được ký kết. Ngoài ra, các nước châu Mỹ còn thông qua

17
một số Công ước khác như Công ước về chống tra tấn (năm 1985) và Công
ước về tị nạn lãnh thổ và ngoại giao (1954).
Tại châu Phi, trong khuôn khổ Tổ chức thống nhất châu Phi, các nước
thành viên đã thông qua Hiến chương về quyền con người và quyền các dân
tộc năm 1981, có hiệu lực năm 1986.
Tại châu Á, đến nay chưa có một văn kiện chung nào về nhân quyền
được thông qua. Vấn đề về nhân quyền chủ yếu được bàn thảo trên các diễn
đàn chính thức hoặc phi chính thức, các trung tâm nghiên cứu về nhân quyền
và hoạt động của các tổ chức phi chính phủ. Cho đến nay, tại châu Á, vấn đề
nhân quyền mới được quan tâm một cách chính thức nhất tại ASEAN, dù rằng
những thành tựu đạt được vẫn còn khiêm tốn so với các khu vực khác trên thế
giới.
Vấn đề nhân quyền là một vấn đề được cả thế giới quan tâm, tuy mỗi
châu lục, mỗi khu vực hoặc mỗi quốc gia lịch sự phát triển của nhân quyền có
khác nhau nhưng tất cả đều đang nỗ lực cho việc bảo vệ các quyền lợi chính
đáng của con người ở châu lục mình, khu vực mình cũng như quốc gia mình.
1.2.2. Nội dung cơ bản của luật quốc tế về quyền con người
Những nội dung của luật quốc tế về quyền con người được quy định
trong Bộ luật quốc tế về quyền con người của LHQ, các công ước điều chỉnh
riêng biệt liên quan đến quyền con người và các Hiến chương hoặc Công ước
của các châu lục về quyền con người.
Bộ luật quốc tế về quyền con người bao gồm Tuyên ngôn thế giới về
quyền con người; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa;

Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và hai nghị định thư bổ sung
của hai Công ước này. Bộ luật tập trung vào bảo vệ quyền và tự do cơ bản của
con người. Bảo vệ, ngăn ngừa phân biệt đối xử, bảo vệ quyền phụ nữ, quyền
trẻ em, xóa bỏ chế độ nô lệ và các tập tục tương tự nô lệ; quyền con người

18
trong quản lý tư pháp, tự do thông tin, tự do hiệp hội, tuyển dụng lao động,
kết hôn, gia đình và thanh niên, phúc lợi xã hội, tiến bộ và phát triển; quyền
hưởng thụ văn hóa, phát triển và hợp tác văn hóa quốc tế; vấn đề quốc tịch,
không quốc tịch, cư trú và người tị nạn, tội phạm chiến tranh, tội phạm chống
nhân loại, diệt chủng, về cấm tra tấn…
Bộ luật quốc tế về quyền con người ra đời được coi là dấu mốc lớn
trong lịch sử nhân quyền con người, đánh dấu một giai đoạn hết sức quan
trọng của nhân loại: giai đoạn mà nhân phẩm và giá trị của con người được
tôn trọng và bảo vệ. Các Tuyên ngôn và công ước trong Bộ luật đã được viện
dẫn như là cơ sở pháp lý cho rất nhiều quyết định quan trọng của các cơ quan
LHQ. Nó cũng được sử dụng như là nguồn trong việc xây dựng các văn kiện
quốc tế về quyền con người cho các cơ quan, kể cả trong và ngoài hệ thống
LHQ.
Về Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, đây là Văn kiện đầu tiên
của bộ luật quốc tế về quyền con người. Tuyên ngôn được coi là một thành
tựu chung về quyền con người của tất cả các quốc gia, dân tộc và trở thành cơ
sở để đánh giá các biện pháp và mức độ tuân thủ, thực hiện các chuẩn mực
quốc tế về quyền con người của các quốc gia. Bản tuyên ngôn này là một
chuẩn mực để đánh giá các biện pháp, mức độ tuân thủ và sự phù hợp trong
pháp luật và hành động của các quốc gia ở khắp nơi trên thế giới với các tiêu
chuẩn quốc tế về quyền con người.
Ngoài ra luật quốc tế còn có các công ước quan trọng điều chỉnh các vấn
đề riêng biệt liên quan đến việc bảo vệ quyền con người như: Công ước về
xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, công ước về xoá bỏ mọi hình thức

phân biệt đối xử với phụ nữ, công ước quốc tế về quyền trẻ em…
Đối với các quy định trong các Hiến chương, Công ước của các châu lục,
châu Âu là châu lục ký kết các quy định bảo vệ quyền con người sớm nhất, đó

19
là Công ước bảo vệ các quyền tự do của con người và 13 nghị định thư bổ
sung liên quan tới các quyền tài sản, quyền được học hành, quyền tự do tôn
giáo và quyền tự do bầu cử (nghị định thư số 1); quyền tự do đi lại (nghị định
thư số 4); các quyền được đảm bảo trong xét xử (nghị định thư số 7)
Công ước châu Mỹ về quyền con người thừa nhận các quyền và tự do cơ
bản như quyền được sống, được đảm bảo về an ninh và toàn vẹn về thân thể,
các quyền tự do tôn giáo, hội họp, ngôn luận, Bên cạnh đó Công ước còn
bảo vệ các quyền đối với tên gọi, quốc tịch, sở hữu cá nhân, gia đình, con cái.
Công ước thiết lập một mỗi quan hệ giữa các quyền và nghĩa vụ, theo đó,
quyền của mỗi cá nhân bị giới hạn bởi quyền của các cá nhân khác, an ninh
của toàn xã hội và những di sản chung. Công ước cũng được bổ sung bởi nghị
định thư trong đó công nhận quyền của người dân được hưởng một môi
trường trong sạch và cho phép cá nhân có thể khiếu kiện trực tiếp lên Uỷ ban
nhân quyền liên Mỹ trong một số trường hợp họ bị xâm phạm.
Hiến chương về quyền con người và quyền các dân tộc của Tổ chức
thống nhất châu Phi cũng công nhận các quyền chính trị, dân sự gắn liền với
các quyền kinh tế, xã hội. Đồng thời, Hiến chương còn thể hiện sự tiến bộ ở
chỗ bên cạnh các quyền truyền thống, nó bổ sung thêm các quyền sở hữu,
quyền có việc làm, quyền được chăm sóc sức khoẻ và quyền được học hành.
Ngược lại, Hiến chương cũng nêu rõ nghĩa vụ của cá nhân đối với gia đình và
cộng đồng. Về quyền của các dân tộc, Hiến chương thừa nhận các dân tộc có
quyền tự định đoạt đối với tài nguyên thiên nhiên, quyền được phát triển kinh
tế và quyền được tồn tại trong một môi trường toàn cầu thuận lợi.
Đối với khu vực châu Á việc hợp tác nhằm nâng cao hiểu biết, thúc đẩy
thực hiện một số quyền con người, nổi bật là những hoạt động vì sự phát triển

của phụ nữ và trẻ em được bắt đầu tích cực được thực hiện trong các nước
ASEAN từ đầu thế kỷ XXI. Bên cạnh đó một số Tuyên bố về quyền của lao

20
động nhập cư, quyền thanh thiếu niên đã được tổ chức này thông qua. Những
dự án, chương trình hợp tác về xoá đói giảm nghèo cũng góp phần quan trọng
vào đảm bảo nhân quyền ở các quốc gia ASEAN. Chú trọng bảo vệ nhân
quyền cũng được ASEAN nhấn mạnh ngay trong lời nói đầu của Hiến chương
ASEAN “Tuân thủ các nguyên tắc dân chủ, pháp quyền và quản trị tốt, tôn
trọng và bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do cơ bản”.
Luật quốc tế về nhân quyền ngày càng được hoàn thiện nhằm đáp ứng
nhu cầu bảo vệ con người của tất cả các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, đối
với khu vực châu Á nói chung và ASEAN nói riêng vấn đề hoàn thiện các cơ
chế cũng như nội dung các quy định về bảo vệ quyền con người còn phải cần
một thời gian dài trong thời gian tới.
1.3. Khái quát chung về các cơ chế bảo vệ nhân quyền trên thế giới
Các cơ chế bảo vệ quyền con người thường bao gồm hệ thống các văn
kiện ghi nhận các quyền con người, các cơ quan thực thi và phương thức đảm
bảo việc thực thi của các cơ quan đó trong việc giám sát việc thực hiện các
cam kết về bảo vệ quyền con người giữa các quốc gia thành viên. Việc thành
lập các cơ chế bảo vệ nhân quyền là sự hiện thực hoá các quy định bảo về con
người trên phạm vi toàn cầu cũng như khu vực.
Thực tế trong luật quốc tế, cơ chế bảo vệ nhân quyền thường được thiết
lập theo hai hình thức cơ bản. Đó là hình thức lập ra cơ quan nhằm thực hiện
những điều ước nhân quyền nhất định
4
và hình thức sử dụng các cơ quan đã
được thành lập ra trong một tổ chức quốc tế vào mục đích bảo vệ nhân
quyền
5

.

4
Ví dụ: việc thành lập ra các Uỷ ban như Uỷ ban về xoá bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc, Uỷ ban về
xoá bỏ sự đối xử bất bình đẳng với phụ nữ, Uỷ ban quyền trẻ em là những Uỷ ban được thành lập theo các
công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (1966), công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ (1979) và công ước quyền trẻ em.
5
Ví dụ: Đại hội đồng LHQ, Uỷ ban kinh tế xã hội là những cơ quan chính của LHQ có thẩm quyền rộng lớn
và hoạt động của những cơ quan này có thể có liên quan đến việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền.

21
Với hình thức thứ nhất, các cơ quan giám sát được thành lập sẽ chỉ có
thẩm quyền giải quyết các vấn đề liên quan đến việc tuân thủ nghĩa vụ điều
ước của các quốc gia thành viên và chỉ áp dụng những quy phạm pháp luật
quốc tế của điều ước đó. Chức năng quyền hạn và cơ chế hoạt động của cơ
quan này được xác định rõ ràng trong điều ước.
Với hình thức thứ hai, các cơ quan này có thẩm quyền rất lớn, tuỳ thuộc
vào cam kết hợp tác của các quốc gia thành viên khi thành lập ra tổ chức đó
và chức năng nhiệm vụ bảo vệ nhân quyền là một trong những lĩnh vực thuộc
thẩm quyên của cơ quan này. Theo đó, các vấn đề nhân quyền sẽ được giải
quyết trong khuôn khổ quyền hạn chung được ghi nhận tại văn bản thành lập
của tổ chức quốc tế đó.
Hiện nay có hai loại cơ chế bảo vệ quyền con người đã được thành lập
trên thực tế. Thứ nhất là cơ chế nhân quyền ở phạm vi toàn cầu được thành
lập theo các điều ước nhân quyền có phạm vi thành viên rộng lớn hoặc thành
lập trong khuôn khổ tổ chức toàn cầu. Cơ chế này được gọi chung là cơ chế
nhân quyền của LHQ. Thứ hai là cơ chế nhân quyền ở cấp độ khu vực. Hiện
nay, có ba khu vực đã thành lập được cơ chế nhân quyền là châu Âu, châu Mỹ
và châu Phi.

Sau đây là khái quát một số cơ chế bảo vệ nhân quyền trên thế giới (gọi
chung là cơ chế nhân quyền)
1.3.1. Cơ chế nhân quyền LHQ
Trong cơ chế bảo vệ nhân quyền của LHQ, quyền con người được thực
thi thông qua một số cơ quan khác nhau theo quy định của Hiến chương và
thông qua sáu uỷ ban chuyên trách về nhân quyền. Theo đó có hai lại cơ quan
bảo vệ nhân quyền: các cơ quan có thẩm quyền chung trong đó có thẩm quyền
liên quan nhân quyền và các cơ quan có thẩm quyền riêng biệt về nhân quyền.

22
Các cơ quan có thẩm quyền chung bao gồm: Đại hội đồng, Hội đồng
bảo an, Hội đồng kinh tế-xã hội, Hội đồng nhân quyền, Toà án quốc tế và Ban
thư ký và các cơ quan trực thuộc do 6 cơ quan này lập ra theo quy định của
Hiến chương
6
. Trong đó, Đại hội đồng, Hội đồng kinh tế- xã hội, Hội đồng
nhân quyền là liên quan trực tiếp đến vấn đề nhân quyền. Hoạt động của các
cơ quan này tập trung vào các lĩnh vực: xây dựng các chuẩn mực quốc tế về
quyền con người, xem xét tình hình quyền con người. Cụ thể:
- Đại hội đồng LHQ (ĐHĐ) là cơ quan có quyền xem xét về mọi vấn đề
thuộc phạm vi của Hiến chương trong đó có quyền con người. Điều 13 của
Hiến chương LHQ quy định một trong các chức năng của ĐHĐ là chủ động
nghiên cứu và đề xuất các khuyến nghị vì mục đích "tăng cường sự hợp tác
quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế và thực hiện
các quyền và tự do cơ bản của con người không phân biệt chủng tộc, giới tính,
ngôn ngữ hoặc tôn giáo" và “thúc đẩy sự phát triển và pháp điển hoá luật pháp
quốc tế, trong đó pháp điển hoá trong lĩnh vực quyền con người”.
Từ khi Tuyên ngôn thế giới về quyền con người được thông qua năm
1948, ĐHĐ đã thông qua nhiều tuyên bố và Công ước về quyền con người,
trong đó có vấn đề diệt chủng, chống phân biệt chủng tộc, chống chủ nghĩa a-

pác-thai, bảo vệ người tỵ nạn, người không quốc tịch, quyền của phụ nữ, trẻ
em, thanh niên, người nước ngoài, người không có nơi cư trú, người bị tàn tật,
vấn đề nô lệ, hôn nhân, chống tra tấn, phát triển và tiến bộ xã hội
- Hội đồng Kinh tế - xã hội (HĐKT-XH), theo điều 62 của Hiến
chương LHQ, có thể "đưa ra các khuyến nghị nhằm mục đích thúc đẩy việc
tôn trọng và tuân thủ các quyền và tự do cơ bản của con người cho tất cả mọi

6
Các cơ quan trực thuộc bao gồm: Uỷ ban đặc biệt về phi thực dân hoá, Uỷ ban đặc biệt chống A-pac-thai,
Uỷ ban đặc biệt điều tra vi phạm nhân quyền của Isarel tại các vùng chiếm đóng, Uỷ ban về thực hiện quyền
của nhân dân Palestin, Cao uỷ LHQ về nhân quyền, Cao uỷ LHQ về người tỵ nạn.

23
người". Hội đồng cũng có thể soạn các dự thảo Công ước để trình lên ĐHĐ
và triệu tập các hội nghị quốc tế về vấn đề quyền con người.
- Hội đồng nhân quyền (HĐNQ): được thành lập năm 2005 thay thế Uỷ
ban nhân quyền thành lập năm 1946. Đây là một nỗ lực của LHQ để đưa vấn
đề nhân quyền trở thành một trong ba trụ cột chính cùng với hoà bình an ninh
và phát triển. HĐNQ kế thừa các chức năng của Uỷ ban nhân quyền đó là tiến
hành các nghiên cứu, chuẩn bị các khuyến nghị và soạn thảo các điều ước
quốc tế về quyền con người; thực hiện những nhiệm vụ đặc biệt do ĐHĐ hoặc
HĐKT-XH giao cho, trong đó có việc điều tra các tố cáo về các vụ vi phạm
quyền con người và xử lý các thông tin liên quan đến các vụ việc vi phạm
quyền con người. Hội đồng còn giúp HĐKT-XH trong việc điều phối các hoạt
động về quyền con người trong hệ thống LHQ. Ngoài ra, theo Nghị quyết
A/60/251, trong năm đầu tiên, HĐNQ có nhiệm vụ xây dựng một cơ chế mới
là Kiểm điểm định kỳ tình hình thực nhân quyền của các nước trên thế giới.
- Hội đồng bảo an (HĐBA): là cơ quan đảm nhận trách nhiệm hàng đầu
trong việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế trong đó có những trường hợp
bao gồm cả các nhân tố có liên quan đến quyền con người.

Kể từ sau chiến tranh lạnh, nhiệm vụ của lực lượng gìn giữ hoà bình của
LHQ (PKO) được mở rộng bao gồm cả giám sát tuyển cử, duy trì trật tự và
đảm bảo thực thi quyền con người như ở Namibia 1989, Campuchia 1991.
Trong những năm 1990 HĐBA tăng cường áp dụng các biện pháp trừng phạt
và lần đầu tiên thành lập các Toà án trừng trị các tội ác vi phạm Luật quốc tế
về nhân đạo. HĐBA cũng đã thành lập các Tòa án hình sự quốc tế để xét xử
tội diệt chủng và các tội vi phạm luật quốc tế về nhân đạo
Các cơ quan có thẩm quyền riêng biệt là các cơ quan được thành lập trên
cơ sở các công ước quốc tế về quyền con người. Hiện nay đã có 24 công ước
quốc tế về quyền con người. Trong đó có 6 công ước được coi là cơ sở và

×