Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Thẩm quyền của tòa án trong tư pháp quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN QUỐC TUẤN


THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN
TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ


Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số : 60 38 60




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS Nguyễn Trung Tín




HÀ NỘI - 2008


MỤC LỤC



Trang

Mở đầu
1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THẨM QUYỀN
CỦA TOÀ ÁN TRONG TƢ PHÁP QUỐC TẾ
5
1.1.
Khỏi niệm thẩm quyền của Toà ỏn trong Tƣ phỏp Quốc tế
5
1.1.1.
Khái niệm thẩm quyền của Toà án
5
1.1.1.1.
Khỏi niệm thẩm quyền
5
1.1.1.2.
Thẩm quyền của Toà án
8
1.1.2.
Thẩm quyền của Toà án trong Tư pháp Quốc tế
11
1.1.2.1.
Khái niệm Tư pháp Quốc tế
11
1.1.2.2.
Thẩm quyền của Toà án trong Tư pháp Quốc tế
14
1.1.3.

Các đặc điểm chính của thẩm quyền của Toà án trong Tư
pháp Quốc tế
16
1.1.3.1.
Chủ thể giải quyết các vụ việc trong Tư pháp quốc tế là Toà
án của quốc gia có thẩm quyền
16
1.1.3.2.
Căn cứ pháp lý xác định thẩm quyền không chỉ bó hẹp
trong luật quốc nội
19
1.1.3.3.
Có quyền áp dụng tập quán quốc tế và pháp luật nội dung
của quốc gia khác
21
1.1.3.4.
Có quyền công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Toà
án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam
23
1.1.3.5.
Có quyền ủy thác tư pháp về dân sự của Việt Nam ra nước
ngoài và thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự của nước
ngoài cho Việt Nam
24
1.2.
Tiêu chí xác định thẩm quyền của Tòa án trong Tƣ
pháp Quốc tế
26
1.2.1.
Các tiêu chí xác định thẩm quyền của Toà án trong Tư pháp

quốc tế ở một số quốc gia
26
1.2.2.
Các tiêu chí xác định thẩm quyền của Toà án trong Tư pháp
28


quốc tế theo các Điều ước quốc tế
1.2.3.
Ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền của Tòa án trong Tư
pháp quốc tế
33
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THẨM QUYỀN
CỦA TOÀ ÁN TRONG TƢ PHÁP QUỐC TẾ
38
2.1.
Xác định thẩm quyền của Toà án trong Tƣ pháp quốc tế
trƣớc thời điểm Bộ luật tố tụng dân sự có hiệu lực
38
2.2.
Xác định thẩm quyền của Toà án trong Tƣ pháp quốc tế
từ khi có Bộ luật tố tụng dân sự
50
2.2.1.
Thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài
50
2.2.2.
Thẩm quyền công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản
án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định
của Trọng tài nước ngoài và tương trợ tư pháp

65
2.3.
Xác định thẩm quyền của Toà án trong Tƣ pháp quốc tế
theo các Điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam là thành viên
72
2.3.1.
Đối với yêu cầu tuyên bố một người mất hoặc hạn chế năng
lực hành vi
73
2.3.2.
Đối với yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc chết và
xác nhận sự kiện chết
73
2.3.3.
Đối với tranh chấp về quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản
giữa vợ chồng
74
2.3.4.
Đối với vụ việc ly hôn và công nhận hôn nhân vô hiệu
74
2.3.5.
Đối với quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con cái
75
2.3.6.
Đối với tranh chấp về cấp dưỡng
75
2.3.7.
Đối với yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi
75
2.3.8.

Đối với tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
76
2.3.9.
Đối với tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
76
2.3.10.
Đối với tranh chấp về thừa kế tài sản
77


2.3.11.
Đối với tranh chấp về lao động
77
2.3.12.
Về ủy thác tư pháp, công nhận và thi hành quyết định
77
Chƣơng 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ XÁC ĐỊNH
THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN TRONG TƢ PHÁP QUỐC TẾ
84
3.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về xác định thẩm
quyền của Tòa án trong Tƣ pháp Quốc tế
84
3.1.1.
Bối cảnh quốc tế
84
3.1.2.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước là cơ sở quan trọng cho
việc hoàn thiện pháp luật về phân định thẩm quyền của Tòa
án trong Tư pháp Quốc tế

85
3.1.3
Tình hình thực tế của Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án
trong Tư pháp quốc tế
87
3.2.
Một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
xác định thẩm quyền của Tòa án trong Tƣ pháp Quốc tế
94
3.2.1.
Các giải pháp chung
95
3.2.1.1.
Hoàn chỉnh các tiêu chí xác định thẩm quyền của Tòa án
trong Tư pháp quốc tế
95
3.2.1.2.
Ký kết hoặc tham gia các Điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp
96
3.2.1.3.
Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức của
cán bộ, công chức ngành Tòa án
97
3.2.1.4.
Cần có quy định, cơ chế cụ thể trong việc phối hợp giữa
Tòa án với các cơ quan hữu quan
98
3.2.1.5.
Cải thiện từng bước cơ sở vật chất và hoàn thiện tổ chức
của ngành Tòa án

100
3.2.1.6.
Phân công các Thẩm phán chuyên trách giải quyết các vụ
án, vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài
102
3.2.2.
Sửa đổi, bổ sung một số quy định cụ thể
102

KẾT LUẬN
105

TÀI LIỆU THAM KHẢO
107


1
MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Với mục đích tối đa hoá một cách hợp lý những lợi ích vật chất hoặc
giá trị tinh thần, cá nhân, tổ chức kinh tế cần phải xác lập các giao dịch vƣợt
ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia; các quan hệ dân sự (nói chung) vƣợt ra
ngoài phạm vi biên giới quốc gia nếu phát sinh tranh chấp thì có thể chịu sự
tài phán của nhiều quốc gia.
Trong phạm vi quốc gia, sau khi đƣợc xác lập hoặc hình thành, các
quan hệ dân sự thƣờng có sự phát triển dẫn đến sự thay đổi và chấm dứt. Việc
thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ do các bên tham gia thoả thuận và định đoạt
bởi một hoặc cả hai bên, tuỳ thuộc vào quan hệ hoặc nội dung thoả thuận mà
có thể yêu cầu Trọng tài hoặc Toà án quốc gia giải quyết.

Khi các quan hệ không còn chỉ tồn tại trong phạm vi quốc gia nữa, xuất
phát từ nguyên tắc chủ quyền quốc gia, nghĩa vụ của Nhà nƣớc trong việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các quốc gia, bằng việc ban hành
luật quốc nội và ký kết hoặc tham gia các điều ƣớc quốc tế để xác định thẩm
quyền cho Toà án của quốc gia mình.
Ở nƣớc ta, trƣớc đây thẩm quyền của Toà án trong Tƣ pháp quốc tế
đƣợc quy định rải rác trong các văn bản pháp luật khác nhau nhƣ Luật tổ chức
Toà án nhân dân, Luật đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam, Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động, Pháp lệnh công nhận và thi
hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nƣớc ngoài, Pháp
lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nƣớc
ngoài, Nay, thẩm quyền của Toà án Việt Nam trong Tƣ pháp quốc tế đƣợc
quy định phần nào thống nhất trong Bộ luật tố tụng dân sự và một số văn bản
pháp luật chuyên biệt khác.

2
Về Điều ƣớc quốc tế, tính đến nay, Việt Nam đã ký kết 14 Hiệp định
tƣơng trợ tƣ pháp với các nƣớc (Đức - đã hết hiệu lực ngày 16/4/1994, Liên
Xô - Liên bang Nga kế thừa từ năm 1992 đến khi Hiệp định giữa Việt Nam và
Nga ký kết tháng 8/1998 có hiệu lực, Tiệp Khắc - sau này, cả Séc và Slôvakia
đều kế thừa Hiệp định này, Cu Ba, Hungary, Bungary, Ba Lan, Lào, Nga,
Trung Quốc, Pháp, Ucraina, Mông Cổ, Belarus). Trong các Hiệp định này,
vấn đề liên quan tới Thẩm quyền của Toà án Việt Nam trong Tƣ pháp quốc tế
đƣợc ghi nhận.
Việc xác định thẩm quyền của Tòa án quốc gia trong Tƣ pháp quốc tế
có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá dân
và tổ chức có quốc tịch của quốc gia đó; nhằm khẳng định chủ quyền quốc
gia, bảo đảm trật tự công. Tuy nhiên, để hƣớng tới sự đồng thuận, đảm bảo
quan hệ cùng có lợi giữa các quốc gia, chúng ta cần phải xây dựng khung

pháp lý rõ ràng, xác định những nguyên tắc căn bản và cụ thể để quy định
thẩm quyền của Toà án quốc gia và tham gia hoặc ký kết các điều ƣớc quốc tế
liên quan đến việc xác định thẩm quyền của toà án quốc gia trong Tƣ pháp
quốc tế. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Thẩm quyền của Toà án trong Tƣ
pháp quốc tế” hiện nay mang tính cấp thiết. Không những có ý nghĩa về mặt
lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn khi gia nhập hoặc ký kết các hiệp định
tƣơng trợ tƣ pháp trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Việc nghiên cứu thẩm quyền của Toà án Việt Nam trong Tƣ pháp quốc
tế đã đƣợc một số nhà nghiên cứu quan tâm nhƣ luận án tiến sỹ “Công nhận
và thi hành phán quyết của Trọng tài nƣớc ngoài” của tác giả Nguyễn Trung
Tín, luận án tiến sỹ “Công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định
dân sự của Tòa án nƣớc ngoài” của tác giả Nguyễn Hoài Phƣơng, hay bài viết
“Một số vấn đề về xác định thẩm quyền của Tòa án trong Tƣ pháp quốc tế”
của tác giả Đồng Thị Kim Thoa đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số
6/2006.

3
Các bài nghiên cứu này chƣa chuyên sâu và toàn diện về thẩm quyền
của Toà án Việt Nam trong Tƣ pháp quốc tế mà mới chỉ nghiên cứu một khía
cạnh nào đó của thẩm quyền của Toà án Việt Nam trong Tƣ pháp quốc tế.
Thực tế, hiện nay chƣa có công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về vấn
đề này. Vì vậy, đề tài này vẫn còn nhiều vấn đề để nghiên cứu.
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
- Đề tài góp phần bổ sung các vấn đề lý luận về quy định thẩm quyền
của Toà án quốc gia trong Tƣ pháp quốc tế.
- Đánh giá thực trạng pháp luật quy định về thẩm quyền của Toà án
Việt Nam trong Tƣ pháp quốc tế.
- Đƣa ra định hƣớng hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Toà án

Việt Nam trong Tƣ pháp quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn thực hiện nhiệm vụ sau đây:
- Làm sáng tỏ các tiêu chí cơ bản trong việc xác định thẩm quyền của
Toà án quốc gia trong Tƣ pháp quốc tế;
- Nêu và phân tích các nguyên nhân các quốc gia muốn giành quyền xét
xử đối với những tranh chấp, yêu cầu mà một trong các bên đƣơng sự là công
dân hoặc tổ chức của nƣớc mình;
- Làm rõ những bất cập và khó khăn nảy sinh khi quy định thẩm quyền
của Toà án quốc gia trong Tƣ pháp quốc tế;
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về thẩm quyền
của Toà án quốc gia trong Tƣ pháp quốc tế.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về việc quy định thẩm quyền của Toà
án quốc gia trong Tƣ pháp quốc tế; nghiên cứu thực thực trạng pháp luật quốc
nội và điều ƣớc quốc tế và kiến giải xung đột thẩm quyền của Toà án trong Tƣ
pháp quốc tế nhằm đƣa ra định hƣớng hoàn thiện luật thực định về vấn đề này.

4
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài là phƣơng pháp luận triết học duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đƣờng lối, chính
sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nƣớc và Pháp quyền.
Đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc trong sự nghiệp đổi mới, phát
triển nền kinh tế thị trƣờng và thực tiễn áp dụng.
Bên cạnh đó, Tác giả còn đặc biệt coi trọng sử dụng các phƣơng pháp
phân tích quy phạm; điển hình hoá, mô hình hóa các trƣờng hợp xung đột
thẩm quyền, phƣơng pháp so sánh, phân tích, đánh giá để giải quyết các vấn
đề của đề tài đặt ra.
6. NHỮNG ĐIỂM MỚI VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

- Nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn pháp luật
quy định thẩm quyền của Toà án trong Tƣ pháp quốc tế
- Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng thẩm quyền của Toà án trong Tƣ
pháp quốc tế để tìm ra những tồn tại trong quy định của pháp luật điều chỉnh
về vấn đề này.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật quy định thẩm
quyền của Toà án trong Tƣ pháp quốc tế.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về thẩm quyền của Tòa án
trong Tƣ pháp quốc tế
Chƣơng 2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về thẩm quyền của Tòa án
trong Tƣ pháp quốc tế
Chƣơng 3. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về xác định thẩm quyền của
Tòa án trong Tƣ pháp quốc tế.

5
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN TRONG TƢ PHÁP QUỐC TẾ

1.1. Khái niệm thẩm quyền của Toà án trong Tƣ pháp quốc tế
1.1.1. Khái niệm thẩm quyền của Toà án
1.1.1.1. Khái niệm thẩm quyền
Theo từ điển tiếng Việt “Thẩm quyền” đƣợc hiểu là quyền xem xét để
kết luận và định đoạt một số vấn đề theo pháp luật [35, tr. 922].
“Thẩm quyền” là một khái niệm quan trọng, trung tâm của khoa học
pháp lý. Có thể nói, không có thuật ngữ nào đƣợc sử dụng phổ biến trong
pháp luật nhƣ thuật ngữ “thẩm quyền”. Trong pháp luật nƣớc ngoài, chúng ta

còn thƣờng gặp thuật ngữ thẩm quyền ngay trong tên các văn bản pháp luật,
nhất là về tổ chức bộ máy nhà nƣớc, bởi vì nội dung các văn bản đó thực chất
là các quy định về thẩm quyền. Tuy vậy, ngay trong văn bản pháp luật nƣớc
ngoài, thƣờng cũng không có định nghĩa khái niệm thẩm quyền, mặc dù thực
chất vấn đề là quy định về thẩm quyền. Ở nƣớc ta cũng có tình trạng đó. Có lẽ
một phần do sự phức tạp của khái niệm này nên khó đƣa ra một định nghĩa
đầy đủ về nó, tuy các quy định về thẩm quyền chiếm tỉ trọng lớn trong hệ
thống văn bản pháp luật và có vị trí đặc biệt quan trọng.
Là khái niệm quan trọng và rất phổ biến, nhƣng kể từ những năm 80
đến nay – những năm nền khoa học pháp lý của Việt Nam mới bắt đầu hình
thành và phát triển, và cả thời kỳ đẩy mạnh cải cách hành chính hơn mƣời
năm trở lại đây, chƣa có bài viết nào riêng về khái niệm “thẩm quyền”, dù
dƣới dạng đơn giản nhất. Trong khoa học pháp lý càng thấy rõ sự thiếu hụt
những nghiên cứu cơ bản, hay những giới thiệu nghiêm túc các khái niệm cơ
bản, nền tảng đã đƣợc khoa học pháp lý thế giới nghiên cứu kỹ lƣỡng từ rất

6
lâu và cập nhật vào thực tiễn khoa học pháp lý và quản lý nƣớc nhà, trong đó
có khái niệm “thẩm quyền”. Nhiều bất cập trong các quy định pháp luật về
thẩm quyền nói chung và về phân cấp quản lý nói riêng, có nhiều nguyên
nhân, nhƣng có khi chỉ do một nguyên nhân đơn giản là không nắm vững khái
niệm thẩm quyền và phƣơng pháp phân định thẩm quyền giữa các cơ quan
nhà nƣớc.
Trong khoa học pháp lý, "thẩm quyền" thƣờng đƣợc hiểu là phạm vi
các quyền hạn của cơ quan hoặc ngƣời có chức vụ nào đó, hay nói cách khác
là thẩm quyền pháp lý. "Thẩm quyền" với nghĩa thẩm quyền pháp lý cũng
không đơn nhất. Do tính phức tạp và tồn tại nhiều khái niệm gần gũi, quan hệ
chặt chẽ với nó, nên có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm thẩm
quyền. Trong bài viết với tiêu đề “tính hệ thống của thẩm quyền” tạp chí
nghiên cứu lập pháp tháng 9 năm 2005, Tiến sĩ Nguyễn Cửu Việt đã nêu 09

quan điểm của các học giả Xô Viết và Việt Nam về khái niệm thẩm quyền,
trên cơ sở đó, đã đi đến kết luận “thẩm quyền là một hiện tƣợng nhà nƣớc -
quyền lực và pháp lý phức tạp có nội dung chức năng và vỏ bọc pháp lý, là một
hệ thống (chứ không phải là một tập hợp giản đơn) các yếu tố cấu thành bao
gồm hai nhóm lớn sau đây: i) Một là, các quyền và nghĩa vụ để thực hiện các
chức năng nhất định mà cơ quan nhà nƣớc đƣợc trao để giải quyết những vấn
đề, quản lý những đối tƣợng/khách thể nhất định trong những lĩnh vực nhất
định của đời sống nhằm đạt những nhiệm vụ nhất định; ii) Hai là, các quyền
hạn cụ thể để thực hiện các quyền và nghĩa vụ chung nói trên (là quyền thực
hiện các hình thức hoạt động cụ thể nhƣ ban hành hay tham gia vào việc ban
hành quyết định, quyền đình chỉ, sửa đổi hay bãi bỏ quyết định, quyền áp
dụng các biện pháp cƣỡng chế, )” [34, tr. 40]. này, đ. 2cùng cấp (ví dụ giữa
Quốc hội, Chính Phủ, Tòa án, Viện kiểm sát…), Tòa án các cấp khác nhau
(Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp

7
huyện…), giữa các đơn vị trong cùng một Tòa án (Tòa dân sự, Tòa kinh tế,
Tòa lao động, Tòa hình sự…), giữa quân sự và dân sự (Tòa án nhân dân và
Tòa án quân sự), với các loại cơ quan cùng thực hiện quyền lực tƣ pháp (Tòa
án, Viện kiểm sát…). Tuy nhiên, ở bình diện quốc tế, nKhi cùng một vụ việc
có liên quan đến nhiều quốc gia thì vấn đề thẩm quyền của quốc gia nào cũng
cần phải đặt ra. Với cách tiếp cận này thì có lẽ quan điểm về thẩm quyền của
Tiến sĩ Nguyễn Cửu Việt mới chỉ trong phạm vi quốc gia. Và nhƣ vậy, việc
nghiên cứu vấn đề thẩm quyền để thực hiện quyền tƣ pháp của nhà nƣớc trong
quan hệ giữa các quốc gia là không thể không làm, đặc biệt đối với Toà án.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay thì quyền tƣ pháp đƣợc giao
cho Tòa án thực hiện là chủ yếu.
Nhƣ vậy, có thể đi đến kết luận, Thẩm quyền là quyền năng pháp lý
xuất phát từ quyền lực nhà nƣớc (quyền lực lập pháp, quyền lực hành pháp và
quyền lực tƣ pháp) đƣợc xác định theo quy định của pháp luật, đối với

(những) vụ việc/lĩnh vực nhất định.
1.1.1.2. Thẩm quyền của Toà án
Theo Từ điển tiếng Việt thì Tòa án là cơ quan nhà nƣớc có nhiệm vụ
xét xử các vụ phạm pháp, kiện tụng. [35, tr. 1002]
Tòa án là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam [11, đ. 127]. Trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, Tòa án nhân
danh Nhà nƣớc ra các phán quyết bảo đảm cho quyền, lợi ích của các cá nhân,
cơ quan, tổ chức và lợi ích của nhà nƣớc. Trong phạm vi chức năng của mình,
Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nƣớc, của
tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành
với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của

8
cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, các vi
phạm pháp luật khác [37, đ. 1]. Ở nƣớc Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
có các Tòa án sau đây: Tòa án nhân dân tối cao; Các Tòa án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ƣơng; Các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh; Các Tòa án quân sự; Các Tòa án khác do luật định.
Trong trƣờng hợp đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc
biệt [14, đ. 2].
Nhƣ vậy, trong hệ thống Tòa án của Việt Nam có Tòa án nhân dân các
cấp, Tòa án quân sự các cấp và các Tòa án khác do luật định hoặc trong
trƣờng hợp đặc biệt Quốc hội có thể thành lập Tòa án đặc biệt và chỉ có Tòa
án mới là cơ quan xét xử, từ hình sự, hành chính đến dân sự (theo nghĩa rộng).
Do Tòa án quân sự có đặc thù riêng theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh tổ
chức Tòa án quân sự, có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là
quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị trong
thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu;

dân quân, tự vệ phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu
và những ngƣời đƣợc trƣng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội
trực tiếp quản lý; hoặc những người khác phạm tội có liên quan đến bí mật
quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội, nên Tòa án mà tác giả nghiên cứu ở
đây là Tòa án nhân dân.
Tòa án nhân dân là cơ quan trong bộ máy nhà nƣớc có chức năng bảo
vệ xã hội, bảo vệ pháp chế, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân
phẩm của nhân dân. Để việc giải quyết vụ việc đƣợc thuận tiện, khách quan
thì việc nghiên cứu thẩm quyền của tòa án là hoàn toàn phù hợp về lý luận
cũng nhƣ thực tiễn và cũng là điều kiện để bảo đảm trật tự pháp luật và pháp
chế, tránh sự trùng lặp trong hoạt động giữa các cấp, các ngành; bên cạnh đó,
việc nghiên cứu thẩm quyền của tòa án còn bao gồm việc xem xét Tòa án của

9
Việt Nam có thẩm quyền giải quyết hay không hay là thuộc thẩm quyền của
Tòa án nƣớc ngoài khác. Tức là việc xác định thẩm quyền của tòa án về thực
chất là tránh sự trùng lặp/xung đột thẩm quyền giải quyết vụ việc giữa các
cấp, các ngành và cả giữa các quốc gia.
Xác định thẩm quyền là công việc bắt buộc của Tòa án. Cụ thể là xem
xét tính hợp pháp của đơn khởi kiện hay đơn yêu cầu cùng các tài liêu chứng
cứ chứng minh để quyết định trả lại đơn hoặc thụ lý vụ việc. Nếu bỏ quan
công việc này sẽ ảnh hƣởng đến công tác giải quyết vì quyết định giải quyết
vụ việc của Tòa án chỉ có giá trị pháp lý khi Tòa án giải quyết đúng thẩm
quyền. Xác định thẩm quyền của Tòa án là việc làm quan trọng và có tính liên
tục, bởi nó đƣợc đặt ra không những ở giai đoạn thụ lý vụ án mà còn ở các
giai đoạn sau nhƣ giai đoạn chuẩn bị xét xử hay xét xử tại phiên tòa. Ngoài ra,
tính liên tục còn đƣợc thực hiện ở các cấp xét xử trong trƣờng hợp vụ việc bị
kháng cáo, kháng nghị, Tòa án luôn phải kiểm tra lại thẩm quyền giải quyết
vụ việc đúng hay chƣa. Trong thực tế, do chƣa xác định rõ thẩm quyền nên
dẫn đến vi phạm, nhiều bản án, quyết định bị kiểm tra phát hiện xét xử sai về

thẩm quyền, nếu ngay từ đầu xác định đúng thẩm quyền thì sẽ không gây tốn
kém công sức và tiền của của cơ quan nhà nƣớc và của các đƣơng sự, cũng
nhƣ ảnh hƣởng đến quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia.
Trách nhiệm của Toà án là bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ
tài sản của Nhà nƣớc, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm của công dân
Cho đến nay, khoa học pháp lý vẫn chƣa có một khái niệm thống nhất
về thẩm quyền của Toà án. Luật tố tụng của các nƣớc thƣờng quy định phạm
vi quyền hạn của Toà án. Ngoài ra, có một số nƣớc không giới hạn thẩm
quyền của Toà án trong các văn bản luật, ở đó các thẩm phán khi thực hiện
quyền của Toà án, họ đƣợc sáng tạo pháp luật, giải thích pháp luật trên cơ sở

10
mục đích điều chỉnh, lẽ công bằng, lƣơng tâm đạo đức nghề nghiệp. Các
quyền năng này có thể coi là quyền năng bẩm sinh của Thẩm phán, bởi lẽ họ
có quyền đƣa ra phán quyết về tính hợp pháp cho hành vi của con ngƣời.
Xuất phát từ việc giới hạn thẩm quyền của Toà án trong pháp luật tố
tụng, từ các quy định trong các bản hiến pháp của Việt Nam “Khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” các tác giả viết
Giáo trình Luật tố tụng dân sự của Học viện tƣ pháp đã đƣa ra định nghĩa
“Thẩm quyền của Tòa án là quyền xem xét, giải quyết vụ việc trong phạm vi
pháp luật cho phép và quyền hạn trong việc ra quyết định khi giải quyết vụ
việc đó” [30].
Tuy nhiên, khi nghiên cứu chức năng của Toà án Việt Nam và của các
nƣớc trên thế giới cho thấy, nếu các quy định về giới hạn thẩm quyền của Toà
án trong văn bản luật không đƣợc hiểu một cách mềm dẻo và linh hoạt, thì
trong tƣơng lai Máy tính sẽ là công cụ quyết định số phận của con ngƣời
trong tố tụng hình sự và quyết định quyền và lợi ích của chủ thể quan hệ pháp
luật dân sự (mọi chứng cứ tài liệu đƣợc nhập vào máy tính và nó sẽ tự động
đƣa ra kết quả); vai trò của các Thẩm phán sẽ mờ nhạt, khi đó tính nhân bản

sẽ không còn hiện hữu trong các phán quyết. Hiện tại, Luật tổ chức toà án
nhân dân hiện hành của Việt Nam có quy định “Trong phạm vi chức năng của
mình, Toà án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nƣớc,
của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công
dân” [14, đ. 1]. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ này, thì không thể không trao
cho thẩm phán các quyền bẩm sinh của họ. Bởi lẽ, bên cạnh đó, các quan hệ
xã hội luôn biến đổi, nhà làm luật không thể dự liệu hết các khả năng có thể
xảy ra, quyền lợi của tổ chức, cá nhân mặc định phải đƣợc bảo vệ trong mọi

11
trƣờng hợp, hay nói cách khác, Toà án luôn luôn thụ lý mọi yêu cầu bảo vệ
quyền lợi và sức khoẻ của tổ chức, cá nhân.
Nhƣ vậy, nếu chỉ xuất phát từ những quyền của Toà án đƣợc quy định
trong luật thực định thì không thể đƣa ra đƣợc một định nghĩa đầy đủ về thẩm
quyền của Toà án. Ở góc độ nghiên cứu, thẩm quyền của Toà án không chỉ
giới hạn theo luật thực định mà phải đƣợc mở rộng theo chức năng, vị trí vai
trò của Toà án và đặc biệt hơn nữa là phải mở rộng theo các vụ việc cụ thể mà
pháp luật chƣa quy định.
Trên cơ sở đó, tác giả đƣa ra định nghĩa về thẩm quyền của Toà án nhƣ
sau: Thẩm quyền của Toà án là quyền năng pháp lý của Toà án theo quy định
của pháp luật có quyền xem xét thụ lý, giải quyết các vụ việc bằng một quyết
định hoặc bản án của Tòa án theo trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng.
1.1.2. Thẩm quyền của Toà án trong Tư pháp quốc tế
1.1.2.1. Khái niệm Tư pháp quốc tế
Từ những năm đầu của thế kỷ XX cho đến nay đã xuất hiện hàng loạt
các định nghĩa khác nhau về Tƣ pháp quốc tế. Nhƣ, “Tƣ pháp quốc tế là tổng
hợp các quy tắc quy định quyền hạn của những ngƣời nƣớc ngoài và thẩm
quyền của pháp luật các nƣớc đối với các vấn đề liên quan tới tƣ pháp”
(Rolen), hay “Tƣ pháp quốc tế là một ngành luật mà đối tƣợng của nó là việc

xác định quốc tịch và địa vị dân sự của ngƣời nƣớc ngoài tại nƣớc sở tại, giải
quyết xung đột pháp luật và xung đột về thẩm quyền tài phán trong không
gian và thời gian giữa các quốc gia độc lập” (Barơtin), hoặc “Tƣ pháp quốc tế
là tổng hợp những nguyên tắc nhằm quy định pháp luật nƣớc nào đƣợc áp
dụng đối với những quan hệ pháp luật giữa các cá nhân không cùng quốc tịch,
không cùng nơi cƣ trú hoặc đƣợc áp dụng đối với những hành vi đã xảy ra ở
nƣớc ngoài, hoặc đƣợc áp dụng trong tất cả các trƣờng hợp khi phát hiện ra
vấn đề sử dụng luật của một nƣớc này trên lãnh thổ của nƣớc khác.”

12
(Axerơ)…[29, tr. 11]. Những định nghĩa trên chƣa nêu bật đƣợc bản chất,
phạm vi điều chỉnh của ngành luật Tƣ pháp quốc tế. Thực tế, tên gọi Tƣ pháp
quốc tế có thể đƣợc gọi một cách chính danh hoặc theo quy ƣớc tuỳ thuộc vào
việc phân chia hệ thống pháp luật thành luật công hay luật tƣ. Ở nƣớc ta, hệ
thống pháp luật không phân chia thành công, tƣ nên Tƣ pháp quốc tế chỉ đƣợc
gọi theo quy ƣớc. Theo Từ điển tiếng Việt thì Tƣ pháp quốc tế đƣợc hiểu là
tổng thể nói chung những nguyên tắc và quy phạm pháp lý quy định quan hệ
giữa công dân nƣớc này với các nƣớc khác hay với công dân các nƣớc khác
[35, tr. 1071]
Tuy ở nƣớc ta, Tƣ pháp quốc tế chỉ mang tính quy ƣớc nhƣng tác giả
cho rằng đã là một ngành luật, một bộ môn khoa học thì ngoài việc giải quyết
vấn đề xung đột pháp luật, vấn đề tố tụng dân sự quốc tế, Tƣ pháp quốc tế
cũng có đối tƣợng điều chỉnh, chủ thể, nguồn luật và phƣơng pháp điều chỉnh.
Vì vậy tác giả cho rằng định nghĩa về Tƣ pháp quốc tế trong giáo trình Tƣ
pháp quốc tế của Khoa Luật trực thuộc Đại học quốc gia Hà Nội do PGS.TS
Nguyễn Bá Diến (chủ biên) là một định nghĩa khoa học, đáp ứng đƣợc các
tiêu chí là một ngành luật và là một bộ môn khoa học.
“Tƣ pháp quốc tế là một bộ môn khoa học pháp lý độc lập và là một
ngành luật độc lập bao gồm các nguyên tắc và quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ dân sự-kinh tế-thƣơng mại, hôn nhân và gia đình, lao động và tố

tụng dân sự có yếu tố nƣớc ngoài.”[29, tr. 13].
Mặc dù vậy, sau khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 có hiệu lực pháp
luật, cụm từ “kinh tế” không còn đƣợc sử dụng mà thay vào đó là “kinh
doanh”; để phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành, theo tác giả, Tƣ
pháp quốc tế là một bộ môn khoa học pháp lý độc lập và là một ngành luật
độc lập bao gồm các nguyên tắc và quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan

13
hệ dân sự, kinh doanh, thƣơng mại, hôn nhân - gia đình, lao động và tố tụng
dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nƣớc ngoài.
Nhƣ vậy, về nội dung, Tƣ pháp quốc tế bao gồm các nguyên tắc và quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự (quan hệ dân sự hiểu theo
nghĩa rộng) có yếu tố nƣớc ngoài, đó là quan hệ dân sự có ít nhất một trong
các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài, ngƣời Việt Nam
định cƣ ở nƣớc ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là
công dân, tổ chức Việt Nam nhƣng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt
quan hệ đó theo pháp luật nƣớc ngoài, phát sinh tại nƣớc ngoài hoặc tài sản
liên quan đến quan hệ đó ở nƣớc ngoài. [7]
Về hình thức, Tƣ pháp quốc tế bao gồm các nguyên tắc và quy phạm
pháp luật giải quyết các vấn đề tố tụng liên quan đến các vụ việc mang tính
chất dân sự có yếu tố nƣớc ngoài.
Tố tụng dân sự có yếu tố nƣớc ngoài nghiên cứu: 1) thẩm quyền giải
quyết các vụ việc dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nƣớc ngoài; 2) địa vị tố
tụng của ngƣời nƣớc ngoài và pháp nhân nƣớc ngoài; 3) địa vị tố tụng của
quốc gia nƣớc ngoài và các đại diện lãnh sự và ngoại giao của quốc gia đó; 4)
vấn đề ủy thác tƣ pháp; và 5) vấn đề công nhận và cho thi hành các bản án,
quyết định của tòa án nƣớc ngoài, quyết định của trọng tài nƣớc ngoài.
Thẩm quyền của Tòa án Tƣ pháp quốc tếđƣợc nghiên cứu là một bộ
phận của tố tụng dân sự có yếu tố nƣớc ngoài, bao gồm 1) thẩm quyền giải
quyết các vụ việc dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nƣớc ngoài; 2) vấn đề ủy

thác tƣ pháp; và 3) vấn đề công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định
của tòa án nƣớc ngoài, quyết định của trọng tài nƣớc ngoài.
Nhƣ vậy, chủ thể nhân danh Nhà nƣớc hoặc nhân danh công lý để thực
hiện quyền giải quyết những vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc ngoài chính là Toà

14
án quốc gia (nói chung). Khái niệm thẩm quyền của Toà án trong Tƣ pháp
quốc tế đƣợc tác giả làm rõ trong tiểu mục liền dƣới đây.
1.1.2.2. Thẩm quyền của Toà án trong Tư pháp quốc tế
Có nhiều tiêu chí để phân loại Tòa án, có thể là theo tiêu chí hệ thống
tổ chức (Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế, Tòa hành chính, Tòa lao động),
tiêu chí cấp bậc-2 cấp xét xử: Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm (nếu
Tòa án cấp huyện xét xử sơ thẩm mà bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng
nghị thì Tòa án cấp phúc thẩm chính là Tòa án cấp tỉnh; nếu Tòa án cấp tỉnh
xét xử sơ thẩm mà bản án quyết định bị kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án cấp
phúc thẩm là Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao), có thể là theo tiêu chí
lãnh thổ (Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án cấp tỉnh, Tòa án cấp huyện). Việc
đề cập đến các tiêu chí trên để thấy rằng Tòa án phải giải quyết không chỉ các
vụ việc dân sự (theo nghĩa rộng) mà còn cả các vụ việc hình sự và hành chính
với các quy trình tố tụng khác nhau, từ đó dùng phƣơng pháp loại trừ tác giả
chỉ nghiên cứu thẩm quyền của Tòa án theo tố tụng dân sự đƣợc áp dụng vào
trƣờng riêng biệt là tố tụng dân sự có yếu tố nƣớc ngoài.
Theo quy định tại Điều 1 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền
giải quyết các vụ án và các việc tranh chấp/yêu cầu về dân sự, về hôn nhân và
gia đình, về kinh doanh, thƣơng mại và lao động (bao gồm cả các vụ án và
các việc có yếu tố nƣớc ngoài). Xét về bản chất, các quan hệ pháp luật này
đều có cùng tính chất là quan hệ tài sản hay quan hệ nhân thân đƣợc hình
thành trên cơ sở thỏa thuận, bình đẳng, tự do, tự nguyện cam kết và tự định
đoạt của các chủ thể. Đây chính là những đặc trƣng của vụ việc dân sự nên
các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật này thuộc thẩm quyền giải

quyết của Tòa án.

15
Ở Việt Nam, thẩm quyền của tòa án trong tố tụng dân sự đƣợc xác định
dƣới các góc độ là thẩm quyền theo loại vụ việc, thẩm quyền theo cấp Tòa án,
thẩm quyền theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn, ngƣời yêu cầu.
Nếu căn cứ vào các góc độ trên, chúng ta thấy, thẩm quyền của tòa án
trong tố tụng dân sự là quyền xem xét thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự
bằng một quyết định hoặc bản án của Tòa án theo trình tự, thủ tục của pháp
luật tố tụng dân sự.
Thẩm quyền của Tòa án trong Tƣ pháp quốc tế đƣợc quy định trong Bộ
luật tố tụng dân sự, các văn pháp luật chuyên ngành và các điều ƣớc quốc tế
mà Việt Nam là thành viên. Thẩm quyền của Tòa án, mà cụ thể trong tố tụng
dân sự có yếu tố nƣớc ngoài, có liên quan đến các Tòa thuộc Tòa án cấp tỉnh
hoặc Tòa án nhân dân tối cao - gồm Tòa kinh tế, Tòa dân sự, Tòa lao động
(riêng Tòa án nhân dân tối cao có thêm 3 Tòa phúc thẩm). Việc xác định vụ
việc thuộc Tòa kinh tế, hay Tòa dân sự… không có ý nghĩa đối với việc xác
định rằng vụ việc đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án hay không,
hay Tòa án cấp tỉnh ở địa phƣơng nào có thẩm quyền giải quyết. Việc đề cập
đến cả thẩm quyền của các Tòa án theo lãnh thổ chỉ nhằm mục đích xác định
đối với vụ việc dân sự theo nghĩa rộng này thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án Việt Nam thì lại cũng cần phải tìm hiểu xem nếu đã thuộc thẩm quyền
của Tòa án Việt Nam thì pháp luật có quy định tiêu chí xác định cụ thể là Tòa
án nào hay không?
Để thực thi các quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực Tƣ pháp quốc
tế một cách hiệu quả, thì các quốc gia không thể không trao thẩm quyền cho
cho Toà án. Do vậy, các quốc gia cũng phải xây dựng những quy phạm pháp
luật tố tụng và tham gia hoặc ký kết các điều ƣớc quốc tế để xác định thẩm
quyền của Toà án quốc gia trong việc giải quyết các quan hệ dân sự mang tính


16
quốc tế. Trong trƣờng hợp giữa các quốc gia chƣa ký kết hoặc gia nhập Điều
ƣớc quốc tế thì có thể xác định thẩm quyền theo nguyên tắc có đi có lại.
Và nhƣ vậy, thẩm quyền của Tòa án trong Tƣ pháp quốc tế không chỉ
căn cứ vào pháp luật tố tụng dân sự trong nƣớc mà còn căn cứ vào các điều
ƣớc quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi, có lại.
Từ những phân tích trên, theo tác giả, Tƣ pháp quốc tếthẩm quyền của
Toà án trong tƣ pháp quốc tế là quyền năng pháp lý của Toà án quốc gia đƣợc
quy định trong luật thực định của quốc gia, trong các điều ƣớc quốc tế mà
quốc gia đó là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi, có lại; có quyền xem xét
thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc ngoài bằng một quyết
định hoặc bản án của Tòa án theo trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng dân sự
quốc gia.
1.1.3. Các đặc điểm chính của thẩm quyền của Toà án trong Tư pháp
quốc tế
Từ khái niệm trên, ta thấy, thẩm quyền của Tòa án trong Tƣ pháp quốc
tế là quyền tài phán đối với những vụ việc có liên quan, tức là không chỉ có
thẩm quyền xét xử, mà các vụ việc đó có các Điều ƣớc quốc tế điều chỉnh,
nên không thể phân định thẩm quyền hay là các nguyên tắc, quy tắc về thẩm
quyền, vì vậy, có lẽ tác giả dùng từ xác định và tiêu chí xác định thẩm quyền
sẽ phù hợp hơn. Để phân biệt với thẩm quyền của tòa án trong hoạt động tố
tụng dân sự thông thƣờng và hoạt động tố tụng trong công pháp quốc tế,
chúng ta thấy thẩm quyền của Toà án trong Tƣ pháp quốc tế có các đặc điểm
chính sau
1.1.3.1. Chủ thể giải quyết các vụ việc trong Tư pháp quốc tế là Toà án
của quốc gia có thẩm quyền
Dựa trên quan điểm về nguyên tắc chủ quyền quốc gia thì Tòa án nhiều
nƣớc đều có thẩm quyền xét xử đối với cùng một vụ việc do các vụ việc dân

17

sự có yếu tố nƣớc ngoài liên quan tới nhiều quốc gia khác nhau. Đây là một
trong những điểm khác biệt cơ bản so với giải quyết vụ việc dân sự trong
nƣớc-chỉ thuộc thẩm quyền của tòa án quốc gia cụ thể, tức là chỉ xác định tòa
án cụ thể nào của quốc gia có thẩm quyền. Đối với những vụ việc dân sự có
yếu tố nƣớc ngoài thì điều đầu tiên khi xác định thẩm quyền của Tòa án là xác
định Tòa án của quốc gia nào có thẩm quyền hay còn gọi là thẩm quyền tƣ
pháp thuộc về quốc gia nào. Đây tƣởng chừng là một việc đơn giản nhƣng
thực chất lại rất khó khăn và phức tạp. Việc xác định tòa án của quốc gia nào
có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc ngoài phụ thuộc vào
luật Tƣ pháp quốc tế của quốc gia đó. Tƣ pháp quốc tế các nƣớc quy định
thẩm quyền của Tòa án đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc ngoài tại
hai nguồn luật: điều ƣớc quốc tế và pháp luật tố tụng dân sự trong nƣớc.Việt
Nam xác định thẩm quyền của Tòa án trong Tƣ pháp quốc tế dựa vào pháp
luật tố tụng dân sự trong nƣớc, điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam là thành viên
hoặc theo nguyên tắc có đi, có lại [6, đ.2, đ.406].
Nếu nhƣ vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc ngoài phát sinh liên quan tới
các quốc gia có điều ƣớc quốc tế với nhau về vấn đề xác định thẩm quyền của
Tòa án, thì theo nguyên tắc về giá trị ƣu tiên áp dụng của điều ƣớc quốc tế so
với pháp luật quốc gia, quy tắc xác định thẩm quyền của điều ƣớc quốc tế đó
sẽ phải đƣợc các nƣớc tuân thủ. Trong trƣờng hợp này, việc xung đột thẩm
quyền của Tòa án vẫn có thể phát sinh, cho dù đã có sự thống nhất giữa các
quốc gia có liên quan, nếu nhƣ tiêu chí để xác định thẩm quyền của Tòa án
trong điều ƣớc quốc tế đó để mở khả năng tòa án nhiều quốc gia đều có quyền
thụ lý. Ví dụ, trong Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp giữa Việt Nam với Liên Xô
(Nga đang kế thừa) hoặc với Tiệp Khắc (Cộng hòa Séc và Xlôvakia đang kế
thừa) có điều khoản quy định việc ly hôn giữa công dân hai nƣớc thuộc thẩm
quyền giải quyết của tòa án cả hai nƣớc: Nếu hai vợ chồng ngƣời có quốc tịch

18
của nƣớc ký kết này, ngƣời có quốc tịch của nƣớc ký kết kia: Nếu hai vợ

chồng không cùng cƣ trú ở một nƣớc ký kết thì Tòa án của cả hai nƣớc ký kết
đều có thẩm quyền giải quyết. [15, đ. 25, 26; 16, đ. 20, 21]. Tòa án của cả hai
nƣớc ký kết đều có thẩm quyền giải quyết vụ việc ly hôn giữa công dân hai
nƣớc và hiện tƣợng xung đột thẩm quyền của Tòa án các nƣớc ký kết vẫn sẽ
xảy ra khi đƣơng sự nộp đơn xin ly hôn ở cả hai nƣớc. Trƣờng hợp xung đột
thẩm quyền xét xử kết thúc khi trong điều ƣớc quốc tế các quốc gia xác định
tiêu chí cụ thể để giải quyết , ví dụ trong hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp có quy
định: Nếu Tòa án của cả hai nƣớc ký kết đều có thẩm quyền cùng thụ lý một vụ
kiện có cùng các bên đƣơng sự và cùng một nội dung, thì Tòa án nào thụ lý sau
sẽ phải đình chỉ tố tụng và báo cho các bên đƣơng sự biết [15, đ20].
Trong trƣờng hợp không có điều ƣớc quốc tế giữa các quốc gia về vấn
đề xác định tòa án của quốc gia nào có thẩm quyền đối với một vụ việc có yếu
tố nƣớc ngoài, thì việc xác định thẩm quyền của tòa án mỗi nƣớc sẽ phụ thuộc
vào quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong nƣớc. Hiện tƣợng xung đột
thẩm quyền của Tòa án có thể xảy ra khi: 1) pháp luật tố tụng dân sự của các
quốc gia có liên quan đƣa ra các tiêu chí khác nhau khi xác định thẩm quyền
của tòa án nƣớc mình đối với một vụ việc. Chẳng hạn, với một tranh chấp về
ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài mà pháp luật của Pháp lấy tiêu chí quốc tịch của
vợ chồng [36, đ.14, đ.15], còn Việt Nam thì lấy tiêu chí nơi thƣờng trú chung
của vợ chồng để xác định thẩm quyền [12, đ104]. Khi đó, một vụ việc ly hôn
có sự tham gia của công dân Pháp nhƣng cả hai vợ chồng lại thƣờng trú
chung ở Việt Nam hoàn toàn có thể đƣợc xét xử ở cả Việt Nam và Pháp, cũng
có nghĩa là vẫn có hiện tƣợng xung đột thẩm quyền của Tòa án về cùng một
vụ ly hôn. 2) Hoặc pháp luật tố tụng các quốc gia có liên quan đều đƣa ra
cùng một tiêu chí để xác định thẩm quyền của tòa án quốc gia mình, nhƣng do
sự không đồng nhất của quan hệ xét trên tiêu chí đó làm xuất hiện xung đột

19
thẩm quyền của Tòa án. Vẫn lấy ví dụ nhƣ trên, nhƣng trong trƣờng hợp này
Việt Nam cũng lấy tiêu chí quốc tịch nhƣ Pháp chứ không phải là nơi thƣờng

trú [6, đ.410] thì thẩm quyền vẫn thuộc tòa án cả hai nƣớc khi mà vợ là công
dân nƣớc này còn chồng là công dân nƣớc kia, nghĩa là vẫn có thể có xung
đột thẩm quyền của tòa án hai nƣớc về cùng một vụ ly hôn. Điều này đòi hỏi,
trong giải quyết vụ việc có yếu tố nƣớc ngoài, Tƣ pháp quốc tế phải định ra
tiêu chí nhất định để xác định thẩm quyền của Tòa án một quốc gia nhất định
hoặc tòa án cụ thể của một quốc gia [50, tr. 79].
Nhƣ vậy, đặc điểm cơ bản quan trọng nhất khi nghiên cứu thẩm quyền
của Tòa án trong Tƣ pháp quốc tế chính là giải quyết triệt để vấn đề xung đột
thẩm quyền tƣ pháp của các quốc gia có liên quan đến vụ việc dân sự có yếu
tố nƣớc ngoài, tức là xác định tòa án của quốc gia nào có thẩm quyền. Đây
chính là việc xác định chủ thể có thẩm quyền giải quyết thuộc về quốc gia nào
hay thẩm quyền tƣ pháp của quốc gia nào, mà cụ thể là Tòa án của quốc gia
nào có thẩm quyền. Đặc điểm này cho phép phân biệt với thẩm quyền của tòa
án trong tố tụng dân sự thông thƣờng (chỉ xác định tòa án cụ thể nào của quốc
gia), phân biệt với thẩm quyền của tòa án trong tố tụng Công pháp quốc tế
(đƣợc giải quyết bởi Tòa án quốc tế theo một trình tự tố tụng thực sự có tính
chất quốc tế do các quốc gia hoặc các chủ thể khác của công pháp quốc tế
thỏa thuận chấp nhận hoặc xây dựng nên).
1.1.3.2. Căn cứ pháp lý xác định thẩm quyền không chỉ bó hẹp trong
luật quốc nội
Xuất phát từ trách nhiệm của Nhà nƣớc trong việc bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của cá nhân, tổ chức khi giải quyết các tranh chấp, yêu cầu; xuất phát từ
nguyên tắc đƣợc Nhà nƣớc bảo vệ bằng pháp luật, khi bị thiệt hại, có thể bị
thiệt hại , cá nhân, tổ chức thƣờng thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu Toà án
giải quyết Nhƣ vậy, cá nhân, tổ chức đƣợc yêu cầu Toà án giải quyết những

20
vấn đề mà pháp luật không cấm và Toà án phải có nghĩa vụ tiếp nhận những
yêu cầu của họ.
Tuy nhiên, trong thực tế các quốc gia thƣờng có các quy định, theo đó,

tòa án nói riêng (cơ quan nhà nƣớc nói chung) chỉ đƣợc làm những gì pháp
luật cho phép, xét về hình thức thể hiện sự hạn chế phạm vi thẩm quyền của
Toà án, nhƣng xét về bản chất thì Nhà nƣớc hạn chế phạm vi đƣợc bảo vệ của
ngƣời dân. Ví dụ, trong Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam quy định cụ thể thẩm
quyền của Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, yêu cầu dân sự,
nhƣ tại Điều 25 quy định những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án, Điều 26 quy định những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án, Điều 27 quy định những tranh chấp về hôn nhân
và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, Điều 28 quy định những
yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án,
Điều 29 quy định những tranh chấp về kinh doanh, thƣơng mại thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án, Điều 30 quy định những yêu cầu về kinh doanh,
thƣơng mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, Điều 31 quy định những
tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, Điều 32 quy
định những yêu cầu về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Rõ ràng, với những quy định này, tƣởng nhƣ là cá nhân, tổ chức có
quyền thỏa thuận để chọn Tòa án có thẩm quyền để giải quyết, và thẩm quyền
của Tòa án xuất hiện do sự lựa chọn của các đƣơng sự, nhƣng pháp luật tố
tụng lại chỉ quy định trƣờng hợp nguyên đơn, ngƣời yêu cầu đƣợc chọn Tòa
án [6,đ.36]. Nhƣ vậy, khi giải quyết một vụ việc dân sự thông thƣờng, Tòa án
chỉ áp dụng các quy định pháp luật tố tụng dân sự của quốc gia mình để xác
định thẩm quyền. Thẩm quyền của Tòa án trong Tƣ pháp quốc tế, giải quyết
các vụ việc phát sinh từ các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nƣớc
ngoài trƣớc hết vẫn phải căn cứ vào những nguyên tắc nhất định của các văn

21
bản pháp luật trong nƣớc. Điều này đƣợc thể hiện rõ ràng nhất khi xác định
thẩm quyền của Tòa án trong Tƣ pháp quốc tế là phải căn cứ nguyên tắc chủ
quyền quốc gia để xây dựng quy phạm tố tụng - quy phạm thực chất, quy
phạm đơn phƣơng. Quy phạm này xác định trong trƣờng hợp cụ thể, tòa án có

thẩm quyền hay không. Tức là chỉ xác định thẩm quyền của tòa án của chính
nƣớc đã xây dựng ra quy phạm đó mà không có quyền xây dựng các quy phạm
pháp luật để xác định thẩm quyền của Tòa án của quốc gia khác trong Tƣ pháp
quốc tế. Tuy nhiên, để tránh các trƣờng hợp xung đột thẩm quyền của Tòa án
giữa các quốc gia liên quan nhƣ đã phân tích ở tiểu mục 1.1.3.1, các quốc gia
cũng có thể ký kết với nhau những điều ƣớc quốc tế để xác định thẩm quyền
của Tòa án của mỗi quốc gia (sẽ đƣợc phân tích ở tiểu mục dƣới đây).
Đặc điểm này cho phép phân biệt với thẩm quyền của tòa án trong tố
tụng dân sự thông thƣờng (chỉ căn cứ vào pháp luật trong nƣớc), phân biệt với
thẩm quyền của tòa án trong tố tụng Công pháp quốc tế (chỉ căn cứ vào các
điều ƣớc quốc tế do các quốc gia hoặc các chủ thể khác của công pháp quốc tế
thỏa thuận chấp nhận hoặc xây dựng nên).
1.1.3.3. Có quyền áp dụng tập quán quốc tế và pháp luật nội dung của
quốc gia khác
Việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nƣớc ngoài thƣờng liên
quan đến tập quán quốc tế và nhiều hệ thống pháp luật nên pháp luật Việt
Nam cũng nhƣ pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều cho phép
Tòa án quốc gia đƣợc áp dụng tập quán quốc tế và pháp luật nội dung của
nƣớc ngoài trong một số trƣờng hợp nhất định. Đây không phải là nghĩa vụ
pháp lý của mỗi quốc gia mà thuộc chủ quyền quốc gia. Vì nếu Tòa án chỉ áp
dụng pháp luật nội dung của nƣớc mình để điều chỉnh các vụ việc dân sự có
yếu tố nƣớc ngoài hoặc bằng mọi cách để mở rộng hiệu lực của pháp luật
nƣớc mình mà không tính đến trƣờng hợp cụ thể cần áp dụng pháp luật nƣớc

×