Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai - qua thực tiễn tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (975.11 KB, 113 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



ĐẶNG ANH TUẤN



GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI - QUA THỰC TIỄN TỈNH
THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN QUỐC SỬU







HÀ NỘI - 2014




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN



Đặng Anh Tuấn


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục

Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI 8
1.1. KHIẾU NẠI, KHIẾU NẠI HÀNH CHÍNH, KHIẾU NẠI
TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI 8
1.1.1. Khiếu nại 8
1.1.2. Khiếu nại hành chính 9
1.1.3. Khiếu nại trong lĩnh vực đất đai 11
1.2. GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI 16
1.2.1. Quan niệm về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai 16
1.2.2. Các nguyên tắc giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai 17
1.2.3. Các giai đoạn giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai 20
1.2.4. Ý nghĩa của công tác giải quyết khiếu nại về đất đai 22
1.2.5. Tiêu chí đánh giá hiệu quả của hoạt động giải quyết khiếu nại
trong lĩnh vực đất đai 24
1.2.6. Các yếu tố tác động đến hiệu quả giải quyết khiếu nại trong lĩnh
vực đất đai 27
1.3. ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI 30
1.3.1. Quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại 30
1.3.2. Các trường hợp không thụ lý giải quyết khiếu nại 34


1.3.3. Thời hiệu khiếu nại, thời hạn giải quyết khiếu nại trong lĩnh
vực đất đai 35
1.3.4. Thẩm quyền, thủ tục giải quyết khiếu nại về đất đai 36
Kết luận chương 1 42
Chương 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT
ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN TRONG

THỜI GIAN QUA 44
2.1. TỔNG QUAN VỀ TỈNH THÁI NGUYÊN 44
2.1.1. Điều kiện tự nhiên 44
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 45
2.1.3. Công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 47
2.2. TÌNH HÌNH KHIẾU NẠI, KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÔNG TÁC
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
THÁI NGUYÊN 51
2.2.1. Tình hình, đặc điểm khiếu nại về đất đai trên địa bàn tỉnh 51
2.2.2. Kết quả thực hiện công tác giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực
đất đai 57
2.2.3. Đánh giá chung về công tác giải quyết khiếu nại về đất đai trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên 62
Kết luận chương 2 68
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN 69
3.1. QUAN ĐIỂM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT KHIẾU
NẠI TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
THÁI NGUYÊN 69
3.1.1. Bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong lĩnh
vực đất đai 69


3.1.2. Tăng cường pháp chế, đồng thời xử lý hài hòa lợi ích của các
bên trong quá trình giải quyết khiếu nại về đất đai 72
3.1.3. Bảo đảm trật tự xã hội, phục vụ quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh Thái Nguyên 74
3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT KHIẾU
NẠI TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

THÁI NGUYÊN 76
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đất đai, pháp luật về khiếu nại 76
3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức làm công
tác giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai 85
3.2.3. Tổ chức tốt công tác tiếp công dân 87
3.2.4. Huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội
vào công tác giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai 89
3.2.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm giải quyết
khiếu nại trong lĩnh vực đất đai 93
3.2.6. Nâng cao hiệu quả hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật về
đất đai, khiếu nại 95
3.2.7. Quan tâm đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất phục vụ công tác giải
quyết khiếu nại về đất đai 98
3.2.8. Ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại 98
Kết luận chương 3 99
KẾT LUẬN LUẬN VĂN 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103




DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ


STT
Số ký hiệu
bảng
Tên bảng
Trang

1.
Biểu đồ 2.1:
Tình hình tiếp công dân trên địa bàn tỉnh giai
đoạn 2009-2013
51
2.
Biểu đồ 2.2:
Tình hình tiếp nhận đơn, vụ việc khiếu nại thuộc
thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành
chính trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2009 - 2013
52
3.
Biểu đồ 2.3:
Tình hình khiếu nại đất đai trên địa bàn tỉnh
giai đoạn 2009-2013
52
4.
Biểu đồ 2.4:
Tỷ lệ vụ việc khiếu nại đất đai trong tổng số
vụ việc khiếu nại hành chính thuộc thẩm
quyền, giai đoạn 2009-2013
53
5.
Biểu đồ 2.5:
Tình hình khiếu nại về đất đai thuộc thẩm
quyền giải quyết của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện Đại Từ
54
6.
Biểu đồ 2.6:

Tỷ lệ vụ việc khiếu nại về đất đai theo các
khu vực
56
7.
Biểu đồ 2.7:
Nội dung khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
trên địa bàn tỉnh
57





1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt; là tài
sản, nguồn lực to lớn của đất nước, là nguồn sống của nhân dân. Với vị trí, vai
trò quan trọng như vậy, trong những năm qua, đất đai đã góp phần quan trọng
thúc đẩy kinh tế, xã hội của nước ta phát triển mạnh mẽ, cải thiện đáng kể đời
sống của nhân dân. Với việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về đất
đai, đặc biệt là Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai
năm 2003, mới đây nhất là Luật Đất đai năm 2013, hệ thống quy phạm pháp
luật về đất đai đã từng bước được hoàn thiện, cơ bản đáp ứng yêu cầu công
tác quản lý nhà nước về đất đai trong các thời kỳ, phục vụ sự nghiệp phát
triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và tạo điều kiện thuận lợi
cho cá nhân, hộ gia đình, cơ quan, tổ chức trong quản lý, sử dụng đất đai.
Quản lý nhà nước về đất đai là một hoạt động khó khăn, phức tạp, nhất
là đối với điều kiện, hoàn cảnh của nước ta - một đất nước còn non trẻ nhưng

đã phải tiến hành 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
đầy gian khổ, hy sinh; sau gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, những
tàn dư của thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp vẫn là một trở ngại không nhỏ
đối với công tác quản lý đất đai. Chính vì vậy, trong thực tiễn quản lý đất đai
chắc chắn khó tránh khỏi những bất đồng về quan điểm, quyền, lợi ích giữa
một bên là cơ quan quản lý nhà nước về đất đai và một bên là người sử dụng
đất. Mặt khác, cũng chính vì vị trí, vai trò là “tài nguyên đặc biệt của quốc
gia” nên đất đai ngày càng có giá trị về kinh tế, đặc biệt là ở những đô thị lớn
hay những nơi đã, đang và chuẩn bị triển khai dự án xây dựng kết cấu hạ tầng
phát triển kinh tế, xã hội Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến
ngày càng có nhiều vụ việc tranh chấp, khiếu nại liên quan đến đất đai. Theo


2
số liệu thống kê gần đây, trên toàn quốc, trong tổng số các vụ việc khiếu nại
được các cơ quan chức năng thụ lý, giải quyết có đến 70% số vụ việc liên
quan đến đất đai. [5, tr.1]
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước về khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai, với việc
xác định khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân, được Hiến
pháp và pháp luật quy định và bảo đảm, trong những năm qua, công tác giải
quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có những chuyển
biến tích cực, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước về đất
đai, đồng thời góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo
điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Bên cạnh đó, công tác giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên cũng còn những hạn chế như: một số vụ việc chưa
được giải quyết kịp thời hoặc được giải quyết nhưng chưa đúng quy định của
pháp luật; tinh thần trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức trong

thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai chưa cao; việc
giải quyết khiếu nại, giải quyết tranh chấp về đất đai có nơi làm chưa triệt để,
còn có biểu hiện ngại khó, ngại va chạm, chưa thực hiện tốt việc tổ chức đối
thoại với người khiếu nại; một số vụ việc đã thanh tra, kiểm tra, có kết luận
nhưng chậm ban hành quyết định giải quyết khiếu nại; kiến thức, ý thức tôn
trọng, chấp hành pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực
đất đai của một bộ phận cán bộ, công chức, nhân dân còn hạn chế…
Chính vì vậy, việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về khiếu
nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai; đánh giá tình hình khiếu nại
trong lĩnh vực đất đai, kết quả thực hiện công tác giải quyết khiếu nại trong
lĩnh vực đất đai trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên để làm rõ những ưu điểm, hạn


3
chế, nguyên nhân của những hạn chế trong công tác giải quyết khiếu nại về
đất đai, từ đó tìm ra quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giải
quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn tỉnh là vấn đề có ý nghĩa cả
về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ mục đích và ý nghĩa đó, tôi lựa chọn Đề tài “Giải quyết
khiếu nại trong lĩnh vực đất đai - qua thực tiễn tỉnh Thái Nguyên” làm Luận
văn Cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay, trong khoa học pháp lý đã có nhiều bài viết, công
trình nghiên cứu về pháp luật khiếu nại hành chính, giải quyết khiếu nại hành
chính, cũng như khiếu nại về đất đai và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất
đai. Từ nhiều hướng và mức độ tiếp cận khác nhau, các bài viết, công trình
nghiên cứu đã làm sáng tỏ những vấn đề mang tính lý luận về khiếu nại hành
chính, khiếu nại đất đai, thực trạng quy định của pháp luật về khiếu nại hành
chính, khiếu nại về đất đai, thực trạng công tác giải quyết khiếu nại hành
chính, khiếu nại đất đai, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp

luật về khiếu nại hành chính, khiếu nại về đất đai, cũng như những giải pháp
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại hành chính, khiếu
nại về đất đai. Một số công trình mà tác giả đã được tiếp cận như:
- Thanh tra Chính phủ, Tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong tình hình mới, Nhà xuất bản Hà Nội, Hà Nội năm 2006;
- ThS. Nguyễn Thế Thịnh (chủ biên), Công tác dân vận trong giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội năm 2007;
- TS. Trần Văn Sơn, Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt
động giải quyết khiếu nại, tố cáo, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội năm 2007;
- Viện Khoa học Thanh tra (Thanh tra Chính phủ), Khiếu nại, tố cáo
hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính ở Việt Nam hiện nay,
Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, Hà Nội năm 2012;


4
- Ngô Mạnh Toan (2007), Hoàn thiện pháp luật khiếu nại, tố cáo trong
điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Luận án Tiến sỹ Luật học;
- Nguyễn Thế Thuấn (2001), Tăng cường hiệu quả pháp luật về giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ
Luật học;
- Nguyễn Thị Thủy (2009), Quyền khiếu nại hành chính của công dân ở
Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ Luật học;
- Lê Văn Thành (2012), Áp dụng pháp luật trong quản lý nhà nước về
đất đai của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, Luận án Tiến
sỹ Luật học;
- Nguyễn Thị Thu Hằng (2011), Giải quyết khiếu nại về đất đai tại các
khu công nghiệp của các cơ quan hành chính nhà nước ở tỉnh Bắc Giang hiện
nay, Luận văn Thạc sỹ Luật học.
Ngoài các công trình nêu trên, còn có một số công trình là luận văn
thạc sỹ quản lý hành chính công ở Việt Nam như: Bùi Thị Thúy Ngân (2011),

Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong công tác giải phóng mặt bằng ở thành phố
Hà Nội; Trần Văn Anh (2010), Nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo ở cấp xã của tỉnh Bắc Ninh; Trần Anh Hùng (2007),
Thủ tục giải quyết khiếu nại về đất đai của các cơ quan hành chính nhà nước
ở thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Thị Lệ Hằng (2010), Giải quyết khiếu nại
trong lĩnh vực quản lý đất đai của Ủy ban nhân dân cấp huyện tỉnh Khánh
Hòa; Phạm Thị Hồng Uyên (2011), Giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến
đất đai tôn giáo trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay; Lê Hồng Oanh Ngọc
(2009), Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại ở thành phố Hà Nội…
Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về
giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Do
đó, việc nghiên cứu đề tài “Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai - qua


5
thực tiễn tỉnh Thái Nguyên” vừa có ý nghĩa thực tiễn vừa có giá trị nhất định
về lý luận.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Phân tích thực trạng công tác giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
của các cơ quan hành chính trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Trên cơ sở đó, đưa
ra quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại trong
lĩnh vực đất đai của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, lợi ích của nhà
nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai ở địa phương.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ quan niệm về khiếu nại, khiếu nại hành chính, khiếu nại về đất
đai; các nguyên tắc, ý nghĩa, tiêu chí đánh giá hiệu quả, các yếu tố tác động
đến công tác giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai.
- Nắm vững nội dung quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về

giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai: quyền, nghĩa vụ của người khiếu
nại, người bị khiếu nại; các trường hợp không thụ lý giải quyết khiếu nại; thời
hiệu khiếu nại, thời hạn giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai; thẩm
quyền, thủ tục giải quyết khiếu nại về đất đai.
- Phân tích, đánh giá khái quát các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giải
quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên; thực trạng công tác
giải quyết khiếu nại về đất đai của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa
bàn tỉnh (làm rõ ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế).
- Đưa ra một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai của các cơ quan hành chính nhà
nước trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới.


6
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết khiếu nại trong lĩnh
vực đất đai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên trong 5 năm qua, từ năm 2009 đến hết năm 2013.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp luận triết học Mác - Lê nin:
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đồng thời có sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích - tổng hợp, logic, so sánh,
khảo sát, thống kê, tổng kết thực tiễn trong quá trình giải quyết các vấn đề đặt
ra của đề tài và kế thừa những kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài của
các tác giả trước đó.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài
Luận văn là nguồn tư liệu tổng hợp về thực trạng giải quyết khiếu nại

trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Cung cấp thêm các luận
cứ khoa học trong công tác giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên trong thời gian tới.
Luận văn có giá trị tham khảo đối với sinh viên đại học, cao học luật và
hành chính, có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy,
nghiên cứu ở Trường Chính trị tỉnh, Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện,
hoặc làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
Từ các đề xuất tại Luận văn có thể là những gợi ý để tiếp tục hoàn thiện
hệ thống pháp luật về khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên nói riêng và cả nước nói chung, góp phần nâng
cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
thực hiện quyền khiếu nại và giải quyết khiếu nại.


7
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
Chương 2: Thực trạng về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong thời gian qua
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giải
quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.















8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI

1.1. KHIẾU NẠI, KHIẾU NẠI HÀNH CHÍNH, KHIẾU NẠI TRONG
LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI
1.1.1. Khiếu nại
Khiếu nại là một hiện tượng xã hội, do đó có nhiều quan niệm và cách
hiểu khác nhau về khiếu nại.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, “khiếu nại”
được hiểu là “thắc mắc, đề nghị xem lại những kết luận, quyết định do cấp có
thẩm quyền đã làm, đã chuẩn y”. [41, tr.904]
Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học thì “khiếu nại”
là: Những đề nghị của công dân, cơ quan, tổ chức với cơ quan nhà
nước hoặc người có chức vụ về sự vi phạm hoặc cho là vi phạm
quyền và lợi ích chính đáng của họ; khiếu nại được thể hiện dưới
hình thức viết hoặc trình bày miệng. Nếu là khiếu nại viết thì đơn
khiếu nại phải được ký bởi chính người có quyền hoặc lợi ích bị vi
phạm hoặc người giám hộ của người đó, trong đó ghi rõ họ, tên, địa
chỉ (hoặc nơi công tác, học tập). [29, tr.67]
Dưới góc độ xã hội, khiếu nại là hiện tượng phát sinh trong đời sống
xã hội, đó là sự phản ứng có tính tự nhiên của chủ thể này đối với hành vi

của chủ thể khác khi họ cho rằng hành vi đó không phù hợp với các quy
tắc, chuẩn mực trong đời sống cộng đồng, xâm phạm đến quyền, lợi ích của
mình. Như vậy, theo quan niệm này thì khiếu nại phản ánh hiện tượng vi
phạm những quy tắc của cộng đồng và xã hội cần phải có phương thức giải
quyết. [39, tr.10]


9
Dưới góc độ chính trị - pháp lý, khiếu nại là một quyền tự do, dân chủ
quan trọng của công dân được Hiến pháp, pháp luật quy định và bảo đảm thực
hiện bởi bộ máy nhà nước. Quyền khiếu nại được coi là “quyền để bảo vệ
quyền”, là công cụ pháp lý để công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình khi bị hành vi của người khác xâm phạm, nghĩa là “khiếu nại được sử
dụng khi quyền chủ thể khác của chính người khiếu nại hoặc của người được
bảo hộ bị xâm phạm”. [40, tr.720]
Xét trong mối quan hệ giữa nhà nước (chủ thể quản lý) với công dân
(đối tượng quản lý) thì khiếu nại là sự phản ứng của đối tượng quản lý đối với
chủ thể quản lý (nhà nước hoặc nhân viên nhà nước). Do đó, khiếu nại là kênh
thông tin “phản hồi” của đối tượng quản lý với các chủ thể quản lý về những
tồn tại khuyết điểm của hệ thống quản lý nhà nước. Thông qua khiếu nại và
giải quyết khiếu nại, nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà
nước và hoàn thiện hoạt động quản lý của mình. Khiếu nại là một kênh thông
tin có giá trị quan trọng, phản ánh hoạt động của bộ máy nhà nước. Vì vậy,
khiếu nại còn được coi là công cụ để công dân và các thiết chế chính trị - xã hội
giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước. [39, tr.10]
1.1.2. Khiếu nại hành chính
Là một hiện tượng xã hội nên khiếu nại có thể xảy ra ở nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội. Do đó, dựa vào các tiêu chí khác nhau có thể phân loại
khiếu nại thành các nhóm khác nhau. Xét trong mối quan hệ giữa công dân
với nhà nước, khiếu nại có thể xảy ra ở cả 3 lĩnh vực thực hiện quyền lực nhà

nước: lĩnh vực lập pháp, lĩnh vực hành pháp và lĩnh vực tư pháp.
Trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, quyền khiếu nại của công
dân là quyền khiếu nại hành chính. Theo Từ điển Luật học, khiếu nại hành
chính là việc “yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại
quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ,


10
công chức, viên chức khi có căn cứ cho rằng các quyết định hay hành vi đó
xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình.” [32, tr.422]
Dưới góc độ pháp lý, khiếu nại hành chính là quyền công dân, được ghi
nhận trong Hiến pháp, được bảo đảm bởi hệ thống các văn bản pháp luật và
bộ máy các cơ quan nhà nước. Khiếu nại hành chính là một trong những biểu
hiện của mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, phát sinh trong quan hệ
pháp luật hành chính, khi mà đối tượng quản lý cho rằng những quyết định
hành chính, hành vi hành chính của chủ thể quản lý là trái pháp luật, xâm
phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của bản thân. Khi công dân thực hiện
quyền khiếu nại hành chính, phát sinh mối quan hệ pháp lý giữa chủ thể quản
lý với đối tượng quản lý. Trong mối quan hệ pháp lý này, đối tượng quản lý
có quyền yêu cầu chủ thể quản lý xem xét lại quyết định hành chính, hành vi
hành chính, chủ thể quản lý có nghĩa vụ phải giải quyết khiếu nại hành chính
và bảo đảm cho công dân thực hiện quyền khiếu nại hành chính; ngược lại,
công dân cũng phải có nghĩa vụ thực hiện quyền khiếu nại hành chính theo
các quy định của pháp luật.
Khoản 1 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định:
Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ,
công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi có căn cứ cho

rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền,
lợi ích hợp pháp của mình. [16]
“Người khiếu nại” có thể là công dân, cơ quan, tổ chức hoặc
cán bộ, công chức thực hiện quyền khiếu nại. Cơ quan, tổ chức có
quyền khiếu nại bao gồm: cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ


11
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp,
tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân. (Điều 2 Luật Khiếu nại
năm 2011). [16]
Dựa vào quy định trên của Luật Khiếu nại năm 2011 có thể phân loại
đối tượng của khiếu nại hành chính thành hai nhóm:
Một là, quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành
chính nhà nước. Cơ quan hành chính nhà nước bao gồm: Uỷ ban nhân dân các
cấp; cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; cơ quan thuộc sở và tương
đương; sở và tương đương; cơ quan thuộc bộ, thuộc cơ quan ngang bộ, thuộc
cơ quan thuộc Chính phủ; bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
Hai là, quyết định hành chính, hành vi hành chính của người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, tức là của cá nhân, bao gồm: Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân các cấp; thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện;
thủ trưởng cơ quan thuộc sở và tương đương; Giám đốc sở và tương đương; thủ
trưởng cơ quan thuộc bộ, thuộc cơ quan ngang bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính
phủ; Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; và các
cá nhân có thẩm quyền trong các cơ quan thuộc nhóm thứ nhất.
Từ những phân tích trên, có thể thống nhất quan niệm về khiếu nại
hành chính như sau: “Khiếu nại hành chính là việc công dân, cơ quan, tổ chức
theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định đề nghị cơ quan nhà nước, cá nhân có
thẩm quyền trong cơ quan nhà nước xem xét lại quyết định hành chính, hành
vi hành chính khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành

chính đó là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.
1.1.3. Khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
Khoản 1 Điều 138 Luật Đất đai năm 2003 (được sửa đổi, bổ sung tại
khoản 2 Điều 264 Luật Tố tụng hành chính năm 2010) quy định: “Người sử
dụng đất có quyền khiếu nại quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính
về quản lý đất đai”.


12
Như vậy, khiếu nại trong lĩnh vực đất đai là một dạng khiếu nại hành
chính, đó là việc “người sử dụng đất” khiếu nại các quyết định hành chính
hoặc hành vi hành chính của cơ quan quản lý đất đai hoặc của người có thẩm
quyền trong cơ quan quản lý đất đai khi thi hành công vụ, xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của “người sử dụng đất”.
Chủ thể thực hiện quyền khiếu nại trong lĩnh vực đất đai là “người sử
dụng đất”. Theo quy định tại Điều 9 Luật Đất đai năm 2003, “người sử dụng
đất” bao gồm:
1. Các tổ chức trong nước bao gồm cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội -
nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức
kinh tế, tổ chức kinh tế – xã hội, tổ chức sự nghiệp công, đơn vị vũ
trang nhân dân và các tổ chức khác theo quy định của Chính phủ
(sau đây gọi chung là tổ chức) được Nhà nước giao đất, cho thuê
đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất; tổ chức kinh tế nhận chuyển
quyền sử dụng đất;
2. Hộ gia đình, cá nhân trong nước (sau đây gọi chung là hộ
gia đình, cá nhân) được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công
nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất;
3. Cộng đồng dân cư gồm cộng đồng người Việt Nam sinh
sống trên cùng địa bàn thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc và các

điểm dân cư tương tự có cùng phong tục, tập quán hoặc có chung
dòng họ được Nhà nước giao đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất;
4. Cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh
đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức
tôn giáo và các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước công nhận
quyền sử dụng đất hoặc giao đất;


13
5. Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao gồm cơ quan
đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác của
nước ngoài có chức năng ngoại giao được Chính phủ Việt Nam
thừa nhận; cơ quan đại diện của tổ chức thuộc Liên hợp quốc, cơ
quan hoặc tổ chức liên chính phủ, cơ quan đại diện của tổ chức liên
chính phủ được Nhà nước Việt Nam cho thuê đất;
6. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư, hoạt
động văn hoá, hoạt động khoa học thường xuyên hoặc về sống ổn
định tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam giao đất, cho thuê đất,
được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở;
7. Tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam theo
pháp luật về đầu tư được Nhà nước Việt Nam cho thuê đất. [13]
Do đó, các chủ thể nêu trên (gọi tắt là cá nhân, tổ chức) đều có quyền
thực hiện quyền khiếu nại trong lĩnh vực đất đai khi có căn cứ cho rằng quyết
định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai là trái pháp luật, xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Về đối tượng khiếu nại trong lĩnh vực đất đai, đó là các quyết định hành
chính, hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về đất đai của cơ quan hành
chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước.
Điều 6 Luật Đất đai năm 2003 quy định nội dung quản lý nhà nước về
đất đai bao gồm:

a) Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng
đất đai và tổ chức thực hiện các văn bản đó;
b) Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành
chính, lập bản đồ hành chính;
c) Khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất; lập bản đồ địa chính,
bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất;
d) Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;


14
đ) Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích
sử dụng đất;
e) Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
g) Thống kê, kiểm kê đất đai;
h) Quản lý tài chính về đất đai;
i) Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị
trường bất động sản;
k) Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất;
l) Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về
đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai;
m) Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các
vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai;
n) Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai. [13]
Như vậy, các quyết định hành chính được ban hành trong các hoạt động
trên gọi chung là các quyết định quản lý đất đai; các hành vi được thực hiện
trong những quá trình đó gọi là hành vi hành chính về quản lý đất đai.
Tuy nhiên, không phải mọi quyết định, hành vi liên quan đến quản lý
đất đai đều là đối tượng của khiếu nại về đất đai. Qua nghiên cứu các quy

định của pháp luật về khiếu nại hành chính nói chung và khiếu nại về đất đai
nói riêng thì đối tượng khiếu nại về đất đai được xác định như sau:
Thứ nhất, đối với các quyết định thì chỉ những quyết định bằng văn bản
do các cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính nhà nước ban hành trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai
nhằm áp dụng một lần cho một hoặc một số đối tượng cụ thể.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 162 Nghị định 181/2004/NĐ-CP của


15
Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì các quyết định hành chính về đất đai bị
khiếu nại bao gồm 4 nhóm đối tượng: “Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu
hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; quyết định
bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất; quyết định gia hạn thời hạn sử dụng đất”. [6]
Ngoài ra, theo quy định của pháp luật về khiếu nại thì một số quyết
định hành chính liên quan đến quản lý đất đai khác cũng là đối tượng
khiếu nại như: Quyết định giải quyết khiếu nại (lần đầu) về đất đai; quyết
định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; quyết định giải
quyết tranh chấp đất đai.
Thứ hai, đối với các hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về đất đai.
Theo quy định tại khoản 2, Điều 162 Nghị định 181/2004/NĐ-CP và
Điều 65 Nghị định 84/2007/NĐ-CP thì “Hành vi hành chính trong quản lý
đất đai bị khiếu nại là hành vi của cán bộ, công chức nhà nước khi giải quyết
công việc thuộc phạm vi quy định tại khoản 1 Điều này.” [7]. Tức là các hành
vi của cán bộ, công chức khi giải quyết các công việc về “giao đất, cho thuê
đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi
thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất; gia hạn thời hạn sử dụng đất”.
Từ những phân tích trên, có thể thống nhất quan niệm về khiếu nại

trong lĩnh vực đất đai như sau: Khiếu nại trong lĩnh vực đất đai là việc cá
nhân, tổ chức theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định đề nghị cơ quan nhà
nước, cá nhân có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước xem xét lại quyết định
hành chính, hành vi hành chính trong quản lý đất đai khi có căn cứ cho rằng
quyết định hành chính, hành vi hành chính đó là trái pháp luật, xâm phạm
đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình.


16
1.2. GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI
1.2.1. Quan niệm về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
Hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước bao gồm hoạt động
hành chính tích cực - tổ chức điều hành các quá trình xã hội và hoạt động
mang tính tài phán - giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực hành
chính bằng con đường hành chính. Khi phát sinh khiếu nại hành chính, các cơ
quan hành chính nhà nước có nhiệm vụ kiểm tra, đánh giá, kết luận, phán
quyết về phương diện pháp lý của các quyết định hành chính, hành vi hành
chính bị khiếu nại. Hoạt động giải quyết khiếu nại cũng như các hoạt động
hành chính khác được thực hiện bằng các hoạt động nối tiếp nhau theo một
trình tự, cách thức nhất định, hay nói cách khác là chúng diễn ra theo một thủ
tục nhất định. [39, tr.25]
Khoản 11 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định “Giải quyết khiếu
nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại”.
Như vậy, có thể quan niệm về giải quyết khiếu nại hành chính của cơ quan
hành chính nhà nước như sau: “Giải quyết khiếu nại hành chính là việc cơ
quan hành chính nhà nước, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước
xem xét, đánh giá tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính,
hành vi hành chính bị khiếu nại thuộc thẩm quyền của mình nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại.” [39, tr.26]
Từ quan niệm về giải quyết khiếu nại hành chính trên, chúng ta có thể

đưa ra quan niệm về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai như sau: “Giải
quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai là việc cơ quan hành chính nhà nước,
người đứng đầu của cơ quan hành chính nhà nước xem xét, đánh giá tính hợp
pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản
lý đất đai bị khiếu nại thuộc thẩm quyền của mình nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người khiếu nại.”


17
Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai là hoạt động mang
tính quyền lực nhà nước. Nó là hoạt động xem xét, giải quyết do người có
thẩm quyền (chủ tịch Uỷ ban nhân dân, thủ trưởng cơ quan tài nguyên và môi
trường các cấp…) thực hiện. Quyết định giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực
đất đai là quyết định hành chính (bằng văn bản) khi có hiệu lực pháp luật
buộc các chủ thể có liên quan phải nghiêm chỉnh thực hiện. Trong trường hợp
cần thiết nó được đảm bảo thực hiện thông qua việc cưỡng chế bởi các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Nếu vi phạm, tuỳ theo mức độ, có thể bị xử lý
bằng biện pháp hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật.
Thứ hai, giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai phải tuân theo
những hình thức, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định, phải công khai, dân
chủ (từ khâu thụ lý, tiến hành kiểm tra, xác minh, ban hành quyết định giải
quyết khiếu nại).
Thứ ba, giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai là hoạt động áp dụng
pháp luật, do đó nó mang tính cá biệt, cụ thể. Việc giải quyết khiếu nại trong
lĩnh vực đất đai được thực hiện và có hiệu lực đối với từng chủ thể, từng tình
huống cụ thể và chỉ có giá trị pháp lý đối với chủ thể xác định được nêu trong
văn bản áp dụng, nó không làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý đối
với các chủ thể khác. [39, tr.27]

1.2.2. Các nguyên tắc giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
Việc giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai được tiến hành dựa trên
nhiều nguyên tắc khác nhau như: pháp chế; đối thoại; khách quan; công khai,
minh bạch; dân chủ; kịp thời; bình đẳng trước pháp luật…
Thứ nhất, nguyên tắc pháp chế
Nguyên tắc này yêu cầu sự hiện diện của hệ thống các văn bản quy


18
phạm pháp luật cần và đủ để quy định về hoạt động giải quyết khiếu nại trong
lĩnh vực đất đai. Đồng thời, yêu cầu mọi chủ thể liên quan đến hoạt động giải
quyết khiếu nại phải tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật về giải quyết
khiếu nại đất đai. Khi nhận được khiếu nại, cơ quan nào có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại theo luật định đều phải thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định từ việc tiếp nhận, thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết
định giải quyết khiếu nại, phải tuân theo quy định về thời hạn giải quyết khiếu
nại… Chẳng hạn khi nhận được đơn khiếu nại Quyết định cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn A, sau khi xét thấy đơn khiếu
nại thuộc thẩm quyền giải quyết thì trong 10 ngày Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
huyện X phải có trách nhiệm thụ lý giải quyết, thông báo bằng văn bản cho
ông Nguyễn Văn A biết. Đối với người khiếu nại, khi thực hiện quyền khiếu
nại về đất đai thì đồng thời cũng phải chấp hành các quy định của pháp luật về
nghĩa vụ của người khiếu nại.
Nguyên tắc pháp chế đảm bảo cho việc xác lập hệ thống các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình giải quyết khiếu nại về đất đai trong một trật tự
đã được pháp luật định hướng.
Thứ hai, nguyên tắc đối thoại
Mục đích của đối thoại là tìm ra sự đồng thuận giữa các bên, làm sáng
tỏ sự thật khách quan của vụ việc. Luật Khiếu nại năm 2011 quy định trong
quá trình giải quyết khiếu nại, nếu yêu cầu của người khiếu nại và kết quả xác

minh nội dung khiếu nại còn khác nhau thì người giải quyết khiếu nại phải tổ
chức đối thoại với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền và
nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để làm rõ nội dung
khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại; việc đối
thoại phải tiến hành công khai, dân chủ. Khi đối thoại, người giải quyết khiếu
nại phải nêu rõ nội dung cần đối thoại, kết quả xác minh nội dung khiếu nại;
người tham gia đối thoại có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ liên quan

×