ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ TUẤN ANH
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC THANH TRA NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI
TRÊN ĐỊA BÀN THỦ ĐÔ
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số: 60.38.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hoàng Anh
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan
Lê Tuấn Anh
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng
Danh mục biểu đồ
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT XỬ
LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THANH TRA
CHUYÊN NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI 8
1.1. Vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông vận tải đƣờng bộ 8
1.1.1. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải 8
1.1.2. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải 13
1.2. Khái niệm, đặc điểm, các giai đoạn áp dụng pháp luật xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải 17
1.2.1. Khái niệm áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải 17
1.2.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong thanh
tra chuyên ngành giao thông vận tải 19
1.2.3. Nguyên tắc áp dung pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong thanh
tra chuyên ngành giao thông vận tải 24
1.2.4. Các giai đoạn của hoạt động áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính
trong chuyên ngành thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải 29
1.3. Vai trò và các trƣờng hợp áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành
chính trong thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải 36
1.3.1. Vai trò của áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải 36
1.3.2. Các trường hợp áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong
thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải 39
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM
HÀNH CHÍNH TRONG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH GIAO
THÔNG VẬN TẢI TRÊN ĐỊA BÀN THỦ ĐÔ HÀ NỘI 42
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, đặc điểm giao thông
của Hà Nội 42
2.1.1. Sơ lược đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, lịch sử của Thủ đô Hà Nội 42
2.1.2. Sơ lược về đặc điểm hệ thống giao thông của Thủ đô Hà Nội 44
2.2. Tổ chức bộ máy thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải của
Thành phố Hà Nội 51
2.2.1. Vị trí và chức năng 51
2.2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn 52
2.2.3. Cơ cấu tổ chức và biên chế 56
2.3. Thực trạng áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực thanh tra giao thông vận tải trên địa bàn Thủ đô Hà Nội 59
2.3.1. Trong lĩnh vực đường thủy nội địa 60
2.3.2. Trong lĩnh vực thanh tra giao thông cầu, đường bộ 65
2.3.3. Áp dung pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động thanh tra
giao thông vận tải đường bộ 71
2.4. Nhận xét chung về hoạt động áp dụng pháp luật xử lý vi phạm
hành chính qua thanh tra chuyên ngành tại Thanh tra Sở Giao
thông vận tải Hà Nội 78
2.4.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân 78
2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân 79
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC THANH TRA CHUYÊN NGÀNH GIAO THÔNG VẬN
TẢI ĐƢỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THỦ ĐÔ HÀ NỘI 85
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải
trên địa bàn Thủ đô Hà Nội 85
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp
luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thanh tra chuyên
ngành giao thông vận tải trên địa bàn Thủ đô Hà Nội 90
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động áp dụng pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính 90
3.2.2. Giải pháp phòng ngừa vi phạm hành chính trong hoạt động thanh tra
chuyên ngành giao thông vận tải trên địa bàn Thủ đô Hà Nội 94
3.2.3. Giải pháp tổ chức thực hiện áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải trên địa
bàn Thủ đô Hà Nội 100
3.2.4. Giải pháp khắc phục hậu quả do vi phạm pháp luật hành chính trong
lĩnh vực giao thông vận tải trên địa bàn Thủ đô Hà Nội 106
KẾT LUẬN 108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 112
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Tổng hợp đội ngũ cán bộ, công chức Thanh tra Sở GTVT Hà Nội 58
Bảng 2.2. Kết quả xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đường thủy nội địa 63
Bảng 2.3. Kết quả xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực cầu, đường từ
năm 2011 đến 2013 66
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu độ tuổi của cán bộ, công chức Thanh tra Sở 59
Biểu đồ 2.2. Trình độ đào tạo của Thanh tra Sở GTVT Hà Nội 59
Biểu đồ 2.3. Tình trạng vi phạm GTVT đường thủy nội địa 64
Biểu đồ 2.4. Tổng hợp công tác xử phạt vi phạm hành chính về hoạt động vận
tải bằng xe taxi 72
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kết quả áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc xảy ra trong thực tế
có đúng đắn, chính xác hay có thấu tình đạt lý hay không chủ yếu phụ thuộc
vào sự hiểu biết pháp luật và thái độ tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh pháp
luật của các chủ thể có thẩm quyền áp dụng. Trong thực tế cuộc sống hiện đại,
thực hiện pháp luật là hoạt động không thể thiếu và thậm chí là hoạt động cực
kỳ quan trọng vì nó có vai trò hiện thực hoá các quy định của pháp luật, biến
các quy định ấy từ trong văn bản thành cách xử sự thực tế hợp pháp của các
chủ thể khi tham gia vào những quan hệ pháp luật cụ thể. Thông qua hoạt
động thực hiện pháp luật, mục đích của nhà nước khi ban hành pháp luật được
hiện thực hoá, nhờ đó nhà nước có thể điều hành và quản lý xã hội, có thể
thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội trong những lĩnh vực nhất định. Ở nước ta
hiện nay, pháp luật đã trở thành một trong những công cụ có hiệu quả nhất để
Nhà nước quản lý xã hội. Song pháp luật chỉ thể hiện được vai trò đó của
mình khi nó được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và đặc biệt là được áp
dụng một cách đúng đắn, chính xác.
Hoạt động áp dụng pháp luật diễn ra trong nhiều lĩnh vực như hình sự,
dân sự, lao động, giải quyết tranh chấp… trong đó, áp dụng pháp luật trong
lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính nói chung, xử phạt vi phạm hành chính
qua thanh tra giao thông đường bộ nói riêng có vai trò quan trọng trong việc
bảo đảm cho các quy định của pháp luật thuộc lĩnh vực giao thông vận tải
được thực thi trên thực tế, làm cho pháp luật về giao thông vận tải được tôn
trọng, ý thức pháp luật được nâng cao, góp phần giảm thiểu tai nạn giao
thông, xây dựng văn hóa giao thông đô thị
Là cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành thanh tra chuyên ngành,
2
trong công tác bảo đảm trật an toàn giao thông, Thanh tra Sở Giao thông vận
tải Hà Nội có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra,
kiểm tra việc chấp hành những quy định của pháp luật đối với các tổ chức, cá
nhân hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực giao thông vận tải và tham gia giao
thông; xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; giải quyết khiếu
nại, tố cáo thuộc lĩnh vực quản lý của Ngành và Công tác phòng, chống tham
nhũng theo thẩm quyền.
Trong những năm qua, việc áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thanh tra giao thông vận tải ở thành phố Hà Nội đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng như: Thanh tra Sở Giao thông vận tải thành
phố Hà Nội đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của mình; chất lượng công tác áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính
qua công tác thanh tra đã được nâng lên một bước, Thanh tra Sở đã tiến hành
thanh tra, kiểm tra, xử lý nhiều vụ việc vi phạm về các điều kiện trong kinh
doanh vận tải và về bảo đảm trật tự, an toàn trong quá trình tham gia giao
thông, vận tải; tuyên truyền, nâng cao ý thức của người dân khi tham gia hoạt
động vận tải hành khách và tham gia giao thông,…; góp phần giữ vững an
ninh, trật tự an toàn xã hội, giảm thiểu tai nạn giao thông, tạo môi trường ổn
định cho sự phát triển của Thành phố cũng như cả nước.
Bên cạnh thành tựu đó, công tác xử lý vi phạm hành chính thực hiện
bởi cơ quan thanh tra vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót và bất cập như: Công
tác xử lý vi phạm còn thiếu chính xác, kịp thời, nghiêm minh trong các tình
huống vi phạm pháp luật; áp dụng các điều khoản chưa phù hợp với thực tế…
Những hạn chế này đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động xử lý vi
phạm hành chính của lực lượng thanh tra, làm nảy sinh tâm lý coi thường
pháp luật, gây bức xúc, khiếu kiện trong nhân dân… Nguyên nhân của hạn
chế này xuất phát từ nhiều phía, cả khách quan lẫn chủ quan, tuy nhiên,
3
nguyên nhân cốt lõi và trực tiếp nhất chính là bất cập từ các quy định của
pháp luật cũng như thiết chế thực thi pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
qua thanh tra. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện
hành và hoạt động áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải tại thủ đô là vấn đề cấp bách.
Bên cạnh việc thực hiện chủ trương, chính sách pháp luật thì việc
nghiên cứu, tìm ra những bất cập của pháp luật, hạn chế trong công tác tổ
chức thực hiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thanh tra
chuyên ngành giao thông vận tải càng có ý nghĩa quan trọng nhằm nâng cao
hơn nữa chất lượng hoạt động áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực này. Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi quyết định chọn vấn
đề: “Áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thanh tra
chuyên ngành giao thông vận tải trên địa bàn Thủ đô Hà Nội” làm đề tài
cho luận văn tốt nghiệp của mình với mong muốn nâng cao hơn nữa hiệu quả
của hoạt động áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông vận tải tại Thủ đô Hà Nội.
2. Tình hình nghiên cứu
Hoạt động áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính là vấn đề có
tính thời sự cao nên đã thu hút được rất nhiều các học giả nghiên cứu. Có thể
nêu một vài công trình nghiên cứu có giá trị cao như:
Luận văn thạc sỹ Luật học: “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính ở nước ta hiện nay” của Đặng
Thanh Sơn năm 2003; Đề tài “Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của
Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Xuân Thân (2004),
luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc Gia Hồ Chí Minh; hay như
đề tài “Hoạt động thanh tra chuyên ngành qua thực tiễn tại Thanh tra Sở
Giao thông vận tải Hà Nội” của tác giả Vũ Thị Giang (2012), Học viện Hành
4
chính và nhiều công trình khác. Khi nghiên cứu tác công trình trên, có thể
thấy rằng, hầu hết các công trình đều đã bước đầu đi phân tích về hoạt động
áp dụng pháp luật như tác giả Đặng Thanh Sơn và tác giả Lê Xuân Thân
nhưng các tác giả này chủ yếu phân tích hoạt động áp dụng pháp luật gắn với
hoạt động xét xử của tòa án hoặc đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa qua hoạt động xử lý vi phạm hành chính…, hơn nữa các
đề tài này có đối tượng hướng đến rất rộng, không tập trung vào địa bàn cụ
thể. Ngược lại, tác giả Vũ Thị Giang lại đi sâu phân tích về thực trạng tổ chức
và hoạt động của Thanh tra Sở Giao thông vận tải Hà Nội, đưa ra một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Thanh tra Sở mà chưa đề cập
đến hoạt động áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính của cơ Thanh tra
Sở. Bên cạnh đó, các đề tài này cũng như các bài viết khác, các tác giả đều
chưa đề cập đến hoạt động áp dụng pháp luật gắn với xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải. Dường như
vẫn chưa có một công trình nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ
thống về việc áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong thanh tra
chuyên ngành giao thông vận tải trên địa bàn thành phố Hà Nội nhằm đưa ra
những giải pháp có giá trị khoa học để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
xử lý vi phạm hành chính trong thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải ở
Hà Nội. Do đó, đề tài nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động áp dụng pháp luật
xử lý vi phạm hành chính của Thanh tra Sở Giao thông vận tải trên địa bàn
Thủ đô Hà Nội không bị trùng về nội dung với các đề tài trước đó, đồng thời
đã đáp ứng được tính mới của công trình nghiên cứu khoa học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến
hoạt động áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong thanh tra, Luận
5
văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật, thiết chế thực thi, góp phần
bảo đảm việc áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong Thanh tra
chuyên ngành giao thông vận tải trên địa bàn thành phố Hà Nội có hiệu quả.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nói trên, Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu cụ
thể các vấn đề sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính;
áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực Thanh tra chuyên
ngành giao thông vận tải;
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải trên địa bàn
thành phố Hà Nội;
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng
pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thanh tra chuyên ngành
giao thông vận tải trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, Luận văn tập trung nghiên cứu về hoạt
động áp dụng pháp luật trong việc xử lý vi phạm hành chính qua công tác
thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải trên địa bàn Thủ đô Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong thanh tra
chuyên ngành giao thông vận tải là hoạt động có phạm vi rộng lớn, gồm nhiều
giai đoạn, quá trình, nhiều nhóm hành vi vi phạm và trách nhiệm hành chính;
bên cạnh đó, giao thông vận tải gồm nhiều lĩnh vực như: Đường bộ, đường
sắt, đường thủy nội địa, hàng hải, hàng không. Tuy nhiên, theo quy định tại
Nghi định số 13/2008/NĐ-CP ngày của Chính phủ, Sở GTVT Hà Nội chỉ
6
quản lý hai lĩnh vực là đường bộ và đường thủy nội địa (lĩnh vực hàng hải,
hàng không và đường sắt do Bộ Giao thông vận tải trực tiếp quản lý), do đó,
Luận văn chỉ nghiên cứu, đánh giá về hoạt đông áp dụng xử phạt vi phạm
hành chính qua công tác thanh tra chuyên ngành đối với hai lĩnh vực này, từ
đó đưa ra những nhận định khái quát và giải pháp chung nhằm nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
vận tải trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phù hợp với mục tiêu, nội dung nghiên cứu, Luận văn được xây dựng
dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật.
Luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử; đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
cụ thể như: Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp phân tích
và tổng hợp và so sánh, phương pháp thống kê v.v để thực hiện nhiệm vụ đặt
ra của luận văn.
6. Những đóng góp mới của Luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu tương đối có hệ thống cơ sở lý luận
và thực tiễn của việc áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong thanh
tra, do đó, Luận văn có một số đóng góp sau:
Một là, làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của áp dụng pháp luật xử lý
vi phạm hành chính trong lĩnh vực thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải.
Hai là, thông qua đánh giá tổng quát thực trạng áp dụng pháp luật xử lý
vi phạm hành chính trong lĩnh vực thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải
trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, Luận văn đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng
cao hơn nữa hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải trên địa bàn Thủ đô.
7
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Luận văn đã phân tích và đưa ra một số vấn đề có tính lý luận về hoạt
động áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong thanh tra, bên cạnh
đó, Luận văn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật xử lý
vi phạm hành chính trong lĩnh vực thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải
trên địa bàn Thủ đô Hà Nội.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ
thanh tra nói chung, thanh tra giao thông vận tải nói riêng. Ngoài ra, Luận văn
cũng có thể là tài liệu tham khảo có giá trị cho công tác giảng dạy, học tập và
nghiên cứu khoa học ở các cơ sở đào tạo luật về vấn đề liên quan.
8. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục của tài liệu tham khảo, nội
Luận văn được thiết kế thành 03 chương, cụ thể như sau:
- Chương 1. Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải.
- Chương 2. Thực trạng hoạt động áp dụng pháp luật xử lý vi phạm
hành chính trong thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải trên địa bàn Thủ
đô Hà Nội.
- Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong thanh tra chuyên ngành giao thông
vận tải trên địa bàn Thủ đô Hà Nội.
8
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT XỬ LÝ
VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THANH TRA
CHUYÊN NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI
1.1. Vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông vận tải đƣờng bộ
1.1.1. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải
Để phân tích vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải,
trước hết cần khái quát về pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông vận tải để khi giải quyết những vấn đề cụ thể không phải quay lại
xem xét những vấn đề chung. Vì vậy, trong phần này bên cạnh việc tập trung
phân tích các yếu tố các dấu hiệu vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông vận tải, luận văn khái quát về pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông vận tải.
Trong khoa học pháp lý, pháp luật là những quy tắc hành vi, quy tắc xử
sự mang tính bắt buộc chung, do nhà nước ban hành, thừa nhận nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Hệ thống pháp luật là một chỉnh thể thống nhất,
được chia thành các ngành luật, mỗi ngành lập là tổng thể các quy phạm pháp
luật điều chỉnh một lĩnh vực pháp luật, có đối tượng điều chỉnh và phương
pháp điều chỉnh riêng. Mỗi ngành luật được chia thành các chế định, mỗi chế
định pháp luật là một nhóm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã
hội gần gũi nhau, cùng tính chất. Chế định pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính là một chế định pháp luật thuộc ngành luật hành chính, là tổng thể các
quy phạm pháp luật quy định về hành vi vi phạm hành chính, các biện pháp
xử lý vi phạm hành chính, thẩm quyền của các cơ quan nhà nước, người có
thẩm quyền trong xử lý vi phạm hành chính, trình tự thủ tục áp dụng các biện
9
pháp xử lý vi phạm hành chính. Do tính đặc thù của quản lý hành chính nhà
nước, sự đa dạng, phức tạp của vi phạm hành chính, nên trong mọi lĩnh vực
của quản lý hành chính nhà nước đều có những hành vi vi phạm quy tắc quản
lý hành chính nhà nước. Vì vậy, chế định xử lý vi phạm hành chính là một
chế định rất lớn, bao gồm nhiều những “chế định” nhỏ, hay “tiểu chế định”,
trong đó có “chế định” xử lý vi phạm hành chính [12, tr.186]. Từ đây có thể
suy ra pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải
là tập hợp các quy phạm pháp luật quy định những hành vi vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông vận tải, các biện pháp xử lý vi phạm hành
chính, thẩm quyền của các cơ quan, cá nhân trong xử lý vi phạm hành chính,
thủ tục xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải. Trong đó
thanh tra giao thông chuyên ngành chỉ là một chủ thể có quyền xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải. Các quy định đó được thể hiện
trong các văn bản quy phạm pháp luật, trước hết là Luật Xử lý vi phạm hành
chính năm 2012, các Nghị định của Chính phủ quy định về vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông vận tải như Nghị định số 34/2010/NĐ-CP
ngày 02/4/2010 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông vận tải đường bộ, Nghị định số 71/2012/NĐ-CP, Nghị
định số 60/2012/NĐ-CP ngày 20/7/2011 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa, Thông tư
hướng dẫn Nghị định của Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an, điển hình như
Thông tư liên tịch số 37/2012/TTLT-BGTVT-BCA ngày 17/9/2012 của liên
Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an hướng dẫn Nghị định số 60/2011/NĐ-CP,
Thông tư 11/2013/TT-BCA ngày 01/3/2013 của Bộ Công an hướng dẫn Nghị
định số 34/2010/NĐ-CP và 71/2012/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
Theo Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính, vi phạm hành chính là
10
hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện vi phạm quy định của pháp luật
về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp
luật phải bị xử lý vi phạm hành chính. Trên cơ sở quy định này có thể thấy
các dấu hiệu, các yếu tố cấu thành của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông vận tải bao gồm: Mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể.
- Dấu hiệu về mặt khách quan
Dấu hiệu bắt buộc về mặt khách quan của vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông vận tải là sự biểu hiện bên ngoài của hành vi, đó là hành vi vi
phạm hành chính do pháp luật trong lĩnh vực giao thông vận tải quy định. Như
vậy, khi xem xét để đi đến kết luận rằng hành vi của cá nhân hay tổ chức có
phải là vi phạm hành chính hay không, thì chúng ta phải có những căn cứ pháp
lý xác định hành vi đó và phải được pháp luật về lĩnh vực giao thông vận tải
quy định là hành vi vi phạm hành chính; đồng thời, hành vi đó phải bị ngăn
chặn, xử phạt bằng các biện pháp hành chính được pháp luật về lĩnh vực giao
thông vận tải quy định. Cần tránh tình trạng áp dụng “tương tự pháp luật”
trong việc xác định vi phạm hành chính đối với tổ chức và cá nhân.
Đối với một số loại vi phạm hành chính thì dấu hiệu về mặt khách
quan của nó còn có thể có sự kết hợp với những yếu tố khác. Những yếu tố
khác có thể là: (i) Thời gian thực hiện hành vi vi phạm; (ii) Địa điểm thực
hiện hành vi vi phạm; (iii) Công cụ, phương tiện vi phạm; (iv) Hậu quả và
mối quan hệ nhân quả.
- Dấu hiệu về mặt chủ quan
Dấu hiệu bắt buộc về mặt chủ quan của vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông vận tải là dấu hiệu lỗi của chủ thể vi phạm. Vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông vận tải là hành vi có lỗi thể hiện dưới dạng lỗi
cố ý hoặc lỗi vô ý của tổ chức, cỏ nhân. Người thực hiện hành vi này phải
trong trạng thái có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của
11
mình nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng mà không nhận thức được điều đó
hoặc nhận thức được nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi vi phạm hành
chính. Ngược lại, nếu chủ thể thực hiện hành vi đó khi không có khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì hành vi do họ thực hiện
không phải là vi phạm hành chính.
Ngoài yếu tố lỗi là dấu hiệu bắt buộc về mặt chủ quan của mọi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải thì trong một số vi phạm hành
chính cụ thể, pháp luật còn xác định dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt buộc.
Vì thế khi xử phạt hành chính cá nhân, tổ chức về vi phạm hành chính này
cần xác định rõ hành vi của họ có thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu mục đích hay
không, ngoài việc xem xét các dấu hiệu khác.
Khi xác định dấu hiệu lỗi trong mặt chủ quan của vi phạm hành chính
về lĩnh vực giao thông vận tải, thì dấu hiệu lỗi trong vi phạm hành chính của
tổ chức là vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, lỗi là
trạng thái tâm lý của cá nhân trong khi thực hiện hành vi hành chính nên
không đặt ra vấn đề lỗi đối với tổ chức vi phạm hành chính. Khi xử phạt vi
hành chính đối với tổ chức chỉ cần xác định tổ chức đó có hành vi trái pháp
luật và hành vi đó theo quy định của pháp luật bị xử phạt bằng các biện pháp
xử phạt vi phạm hành chính là đủ điều kiện để xử phạt hành chính. Ngược lại,
có quan điểm khác cho rằng, cần xác định lỗi của tổ chức khi vi phạm hành
chính thì mới có đầy đủ cơ sở để tiến hành hoạt động xử phạt vi phạm hành
chính đối với tổ chức vi phạm. Theo quan điểm này, lỗi của tổ chức được xác
định bằng lỗi của các thành viên trong tổ chức khi thực hiện nhiệm vụ, công
vụ được tổ chức đó giao cho. Đồng thời, tổ chức phải có trách nhiệm xác định
lỗi của người thuộc tổ chức mình trực tiếp gây ra vi phạm hành chính trong
khi thi hành công vụ được giao để truy cứu trách nhiệm kỷ luật và bồi thường
thiệt hại theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Luật Xử lý vi phạm hành
12
chính hiện hành chỉ quy định chung rằng tổ chức phải chịu trạch nhiệm về
mọi vi phạm hành chính do mình dây ra và có nghĩa vụ chấp hành quyết định
xử phạt vi phạm hành chính.
- Dấu hiệu về chủ thể
Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông vận tải là các tổ chức, cá nhân có năng lực chủ thể.
Theo quy định của pháp luật về giao thông vận tải hiện hành, cá nhân là
chủ thể của vi phạm hành chính là người không mắc bệnh tâm thần hoặc các
bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của
mình và đủ độ tuổi do pháp luật quy định, cụ thể là:
(i) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể là chủ thể của vi phạm
hành chính với lỗi cố ý. Như vậy, khi xác định người ở độ tuổi này có vi phạm
hành chính hay không, cần xác định yếu tố lỗi trong mặt chủ quan của họ.
(ii) Người đủ 16 tuổi trở lên có thể là chủ thể của vi phạm hành chính
trong mọi trường hợp.
(iii) Tổ chức có thể là chủ thể vi phạm hành chính, bao gồm các cơ
quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực
lượng vũ trang nhân dân.
(iv) Cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng có thể là chủ thể của vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải theo quy định của pháp luật Việt
Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có
quy định khác.
- Dấu hiệu về khách thể
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải cũng như các vi
phạm pháp luật khác đều xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo
vệ. Dấu hiệu khách thể để xác định vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông vận tải là hành vi vi phạm này đã xâm hại đến trật tự quản lý hành
13
chính nhà nước trong lĩnh vực giao thông vận tải, hay vi phạm hành chính là
hành vi trái với các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực
giao thông vận tải như quy tắc về an toàn giao thông, quy tắc về phòng ngừa
đua xe trái phép … được quy định trong các văn bản pháp luật của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền.
Từ những đặc điểm nêu trên, có thể đưa ra một số khái niệm:
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải là những hành vi
của cá nhân, tổ chức vi phạm quy định của pháp luật trong lĩnh vực giao
thông vận tải một cách cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm và theo quy
định của pháp luật phải bị xử lý vi phạm hành chính, bao gồm: Các hành vi vi
phạm quy tắc giao thông vận tải; các hành vi vi phạm quy định về kết cấu hạ
tầng giao thông vận tải; các hành vi vi phạm quy định về phương tiện tham
gia giao thông vận tải; các hành vi vi phạm quy định về người điều khiển
phương tiện tham gia giao thông; các hành vi vi phạm quy định về vận tải;
các hành vi vi phạm khác về giao thông vận tải.
1.1.2. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải
Xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải, thực chất là việc
áp dụng các chế tài biện pháp xử phạt đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải. Đây là hoạt động đặc biệt
và rất phức tạp bao gồm một loạt các hành vi cụ thể liên quan mật thiết với
nhau như phân tích, đánh giá tính chất, mức độ của vi phạm hành chính, xác
định thẩm quyền xử phạt, đối chiếu với quy định của pháp luật, áp dụng hình
thức và mức phạt và ra quyết định xử phạt hành chính.
Quyết định xử phạt hành chính khi được ban hành sẽ gây một hậu quả
pháp lý đặc biệt, làm phát sinh trách nhiệm hành chính của cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính, tức là buộc họ phải chịu hậu quả bất lợi trước Nhà nước về
tinh thần (bị hạn chế quyền) hoặc về tài sản (bị phạt tiền, bị tịch thu tang vật,
phương tiện v.v).
14
Là hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải vừa
có đặc điểm chung so với hoạt động xử phạt trong lĩnh vực khác, vừa có đặc
điểm đặc thù. Do đó, hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông vận tải có đặc điểm chung sau:
Một là, xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải là một loại
hoạt động cưỡng chế nhà nước, mang tính quyền lực nhà nước.
Tính cưỡng chế và tính quyền lực nhà nước thể hiện ở chỗ hoạt động
xử phạt hành chính luôn được các cơ quan nhà nước hoặc cán bộ có thẩm
quyền trong lĩnh vực giao thông vận tải thực hiện. Chỉ có các cơ quan nhà
nước; hoặc cán bộ nhà nước nào được Nhà nước trao thẩm quyền xử phạt
hành chính và được ghi rõ trong các văn bản pháp luật có quy định về xử phạt
hành chính mới có thẩm quyền quyết định xử phạt.
Xử phạt hành chính là phản ứng (chế tài) của Nhà nước trước các hành
vi xâm hại quy tắc quản lý nhà nước trong lĩnh vực giao thông vận tải. Biểu
hiện của phản ứng đó là việc áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính. Việc
áp dụng các biện pháp xử phạt này có tác dụng trực tiếp điều chỉnh hành vi xử
sự của chủ thể vi phạm; tức là buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi
trước Nhà nước và có tác dụng đình chỉ vi phạm hành chính qua đó mà bảo
vệ và duy trì trật tự quản lý nhà nước.
Hai là, cơ sở để xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải là
vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải.
Chỉ có hành vi nào xâm phạm quy tắc quản lý nhà nước trong lĩnh vực
giao thông vận tải mà chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự do các
cá nhân, tổ chức đủ năng lực chủ thể thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý mới bị
xử phạt hành chính.
Từ quy định trên, khi áp dụng các biện pháp xử phạt đòi hỏi các cơ
15
quan nhà nước hoặc cán bộ nhà nước có thẩm quyền phải xác định rõ có vi
phạm hành chính xảy ra hay không, tính chất và mức độ của vi phạm như thế
nào, hành vi vi phạm đó có quy định trong các văn bản pháp luật quy định về
xử phạt hành chính hay chưa.
Ba là, hoạt động xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải
được quy định qua nhiều trình tự, thủ tục, nhiều giai đoạn nhưng kết quả của
hoạt động này phải được thể hiện bằng quyết định xử phạt hành chính về lĩnh
vực giao thông vận tải.
Trong xử phạt hành chính, các chủ thể có thẩm quyền xử phạt được
thực hiện hai loại hành vi:
- Hành vi ban hành quyết định xử phạt, quyết định xử phạt hành
chính phải được thể hiện bằng văn bản hay bằng một hình thức khác do
pháp luật quy định;
- Hành vi hành chính khác như nhằm đình chỉ hành vi vi phạm, lập biên
bản vi phạm, áp dụng các biện pháp để đảm bảo cho xử phạt (giữa các
phương tiện vi phạm, giấy tờ của người vi phạm) và áp dụng các biện pháp
khắc phục hậu quả vi phạm hành chính.
Hai loại hành vi trên luôn có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn
nhau. Trong đó, hành vi ban hành quyết định xử phạt là cơ bản và chủ yếu
nhất. Các hành vi hành chính khác được thực hiện nhằm hướng tới việc ra
quyết định xử phạt hoặc thực hiện trên cơ sở quyết định xử phạt. Đặc biệt, khi
ban hành quyết định xử phạt sẽ gây ra hậu quả pháp lý là làm phát sinh trách
nhiệm hành chính. Quyết định xử phạt hành chính là hình thức thể hiện công
khai ý chí và thái độ của Nhà nước phản ứng trước các hành vi vi phạm hành
chính và mức cưỡng chế của Nhà nước đối với chủ thể vi phạm.
Bốn là, hoạt động xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải
được tiến hành trong khuôn khổ pháp luật và phải tuân theo pháp luật về trình
tự, thủ tục hành chính.
16
Tất cả các cơ quan nhà nước, cán bộ có thẩm quyền xử phạt hành chính
trong lĩnh vực giao thông vận tải khi thực hiện các hành vi xử phạt đều phải
tuân theo trình tự, thủ tục hành chính do pháp luật quy định chứ không tuân
theo các quy định về tố tụng hình sự.
Ngoài những đặc điểm chung trên, xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông vận tải còn có một số đặc trưng sau:
- Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận
tải chỉ được tiến hành bởi chủ thể có thẩm quyền đặc thù, do tính chất, mức
độ gây thiệt hai cho xã hội của hành vi vi phạm pháp luật về giao thông vận
tải nên pháp luật chỉ quy định cho hai loại cơ quan đặc thù có thẩm quyền xử
phạt, đó là cơ quan có thẩm quyền chung (Ủy ban nhân dân các cấp) và cơ
quan có thẩm quyền chuyên biệt (các Sở, Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Cục
Đường thủy nội địa Việt Nam), cụ thể là các cơ quan: Chủ tịch Ủy ban nhân
dân các cấp; Cảnh sát giao thông đường bộ, đường thủy nội địa; Cảnh sát trật
tự, Cảnh sát phản ứng nhanh, Cảnh sát cơ động, Cảnh sát quản lý hành chính
về trật tự xã hội, Trưởng Công an cấp xã (trong một số trường hợp); Thanh tra
đường bộ, đường thủy nội địa và Cảnh sát trật tự, Cảnh sát phản ứng nhanh,
Cảnh sát cơ động, Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội.
- Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thanh tra giao
thông vận tải thường diễn ra nhanh chóng, ngay khi có hành vi vi phạm và
trình tự, thủ tục áp dụng cũng tương đối gọn nhẹ. Do xuất phát từ thực tế công
việc, thường khi xảy ra trường hợp vi phạm pháp luật thuộc thẩm quyền xử
phạt, lực lượng chức năng sẽ xem xét, đánh giá, phân tích các khía cạnh của
vụ việc để đưa ra cách giải quyết phù hợp. Đối với những trường hợp tiến
hành thanh tra theo đoàn, việc áp dụng pháp luật trong hoạt động này có thể
kéo dài hơn, tuy nhiên, nếu so sánh với các lĩnh vực khác như văn hóa, điện
lực, trật tự đô thị thì hoạt động này diễn ra tương đối nhanh chóng.
17
- Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông vận
tải qua thanh tra chuyên ngành thường gắn liền với hành vi hành chính cụ thể,
mang tính trực tiếp; là những hành vi phương hại đến kết cấu hạ tầng giao
thông, hành vi gây nguy hại cho chính chủ thể vi phạm và những người tham
gia giao thông. Nó đòi hỏi phải nhanh chóng kịp thời và chính xác, nếu không
được phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý kịp thời sẽ dễ dẫn đến hậu quả là tai
nạn và tai nạn nghiêm trọng. Đặc trưng này tạo nên tính đặc thù trong Hoạt
động xử phạt vi phạm hành chính của lực Thanh tra Giao thông, nó khác với
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng hay trong các lĩnh vực
quản lý nhà nước khác
Từ những đặc điểm trên có thể đi đến định nghĩa sau: Xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông vận tải là một loại hoạt động cưỡng chế
hành chính cụ thể mang tính quyền lực nhà nước phát sinh khi có vi phạm
hành chính về giao thông vận tải; biểu hiện ở việc áp dụng các chế tài hành
chính mang tính chất trừng phạt do các chủ thể có thẩm quyền nhân danh
Nhà nước thực hiện theo quy định của pháp luật nhằm phục hồi quan hệ xã
hội đã bị hành vi vi phạm hành chính xâm phạm tới.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, các giai đoạn áp dụng pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải
1.2.1. Khái niệm áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải
Khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông vận tải, Nhà nước hướng tới sử dụng các quy
phạm đó để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh do vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông vận tải gây nên, nhằm xử lý những đối tượng vi
phạm, giáo dục đối với những đối tượng vi phạm, duy trì trật tự quản lý trong
lĩnh vực giao thông vận tải, phục hồi những quan hệ xã hội đã bị hành vi hành
chính xâm phạm.
18
Tuy nhiên, để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống thì ngoài những yếu
tố như sự phù hợp của pháp luật với các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội,
trình độ phát triển của xã hội, Nhà nước còn quan tâm đến tổ chức thực hiện
pháp luật và áp dụng pháp luật một cách nghiêm minh. Bởi lẽ, cho dù có ban
hành ra những văn bản pháp luật hoàn chỉnh đến đâu đi chăng nữa nhưng nếu
các quy định của những văn bản đó không được thực hiện trên thực tế thì mục
đích điều chỉnh pháp luật vẫn chưa đạt được.
Trong khoa học pháp lý Việt Nam, khái niệm áp dụng pháp luật được
đề cập đến trong nhiều ấn phẩm khoa học, nhưng các nhà khoa học có quan
niệm khác nhau. Đa số các nhà khoa học quan niệm áp dụng pháp luật chỉ là
một trong các hình thức thực hiện pháp luật, song cũng có người quan niệm
áp dụng pháp luật đồng nghĩa với thực hiện pháp luật, tức là bao gồm tất cả
các hình thức thực hiện pháp luật [16, tr.34].
Theo Từ điển Luật học, áp dụng pháp luật được hiểu là “Hoạt động
thực hiện pháp luật mang tính tổ chức quyền lực nhà nước, được thực hiện
bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc tổ chức xã hội
được Nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa quy phạm pháp luật vào các
trường hợp cụ thể, đối với cá nhân, tổ chức cụ thể. Quan điểm khác thì cho
rằng, áp dụng pháp luật là: “Hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
hoặc cá nhân, tổ chức xã hội được Nhà nước trao quyền vận dụng những quy
phạm pháp luật thích hợp nhằm xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý của các
cá nhân hay tổ chức trong trường hợp cụ thể đưa ra áp dụng”[21].
Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật của Viện Nhà nước
và Pháp luật - Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh thì: Áp
dụng pháp luật vừa là một hình thức thực hiện pháp luật diễn ra trong hoạt
động thực hiện quyền hành pháp và thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước.
Đây là hoạt động thực hiện pháp luật của cơ quan Nhà nước, được xem như là