Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Cơ sở xã hội của hoạt động lập pháp ở nước ta 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (881.12 KB, 106 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN THỊ HỒNG NHUNG




C¤NG CHøC CÊP X· ë TØNH THANH HãA
TRONG GIAI §O¹N HIÖN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG




HÀ NỘI - 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƯỜI CAM ĐOAN



Trần Thị Hồng Nhung









MỤC LỤC


Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA CÔNG CHỨC CÂ
́
P XA
̃
TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 7
1.1. Khái niệm về công chức cấp xã 7
1.1.1. Khái niệm về công chức 7
1.1.2. Khái niệm về công chức cấp xã 9
1.2. Hệ thống chức danh công chức cấp xã 11
1.3. Đặc điểm của công chức cấp xã 18
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC CẤP XÃ Ở TỈNH
THANH HÓA VÀ PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG, KIỆN TOÀN ĐỘI NGŨ CÔNG
CHỨC CẤP XÃ Ở TỈNH THANH HÓA TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY 23
2.1. Thực trạng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hoá 23
2.1.1. Sự ảnh hưởng của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở tỉnh
Thanh Hoá tới đội ngũ công chức cấp xã 23
2.1.2. Tình hình đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hoá hiện nay 28
2.1.3. Nguyên nhân của những ưu, hạn chế trong việc xây dựng đội
ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hoá 58
2.2. Phƣơng hƣớng nâng cao chất lƣợng công chức cấp xã ở tỉnh
Thanh Hoá 62

2.2.1. Yêu cầu của việc nâng cao chất lượng công chức cấp xã ở tỉnh
Thanh Hoá 62
2.2.2. Phương hướng nâng cao chất lượng công chức cấp xã ở tỉnh
Thanh Hoá 71
2.3. Những giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ công chức ở tỉnh
Thanh Hoá hiện nay 75
2.3.1. Cụ thể hoá tiêu chuẩn các chức danh công chức cấp xã của tỉnh
Thanh Hoá 75
2.3.2. Đánh giá đúng chất lượng đội ngũ công chức cấp xã 78
2.3.3. Quy hoạch đội ngũ công chức cấp xã của tỉnh Thanh Hoá 80
2.3.4. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức cấp
xã ở tỉnh Thanh Hoá 83
2.3.5. Đổi mới việc đánh giá, lựa chọn, bố trí công chức cấp xã của
tỉnh Thanh Hóa 87
2.3.6. Tăng cường công tác quản lý đội ngũ công chức cấp xã của tỉnh
Thanh Hoá 89
2.3.7. Đề cao việc tự học tập, tự rèn luyện của đội ngũ công chức cấp
xã của tỉnh Thanh Hoá 90
2.3.8. Tiếp tục đổi mới chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ công chức
cấp xã của tỉnh Thanh Hoá 91
2.3.9. Có chính sách thu hút người có trình độ đại học trở lên và người
trẻ tuổi về làm việc ở cấp xã, đồng thời hỗ trợ đối với công chức
chưa đạt chuẩn, mạnh dạn giải quyết chế độ đối với công chức
cấp xã có năng lực, trình độ, sức khoẻ không đảm bảo thực hiện
nhiệm vụ của địa phương 94
KẾT LUẬN 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98


DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1:
Về giới tính, dân tộc, tôn giáo, độ tuổi
32
Bảng 2.2:
Về trình độ văn hoá
40
Bảng 2.3:
Về trình độ chuyên môn
41
Bảng 2.4:
Về trình độ lý luận chính trị và quản lý hành chính
43






1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của nền hành chính nhà
nước Việt Nam, chính quyền cấp cơ sở luôn giữ một vị trí, vai trò rất quan
trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công hay thất bại của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chính quyền cơ sở là nền tảng của toàn bộ

hệ thống chính quyền, là cấp gần dân nhất, trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ
cụ thể của hoạt động quản lý nhà nước trên tất cả các mặt ở địa phương, đảm
bảo cho chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước
đi vào cuộc sống.
Tuy nhiên, chính quyền cơ sở không thể hoàn thành nhiệm vụ của mình
một cách hiệu lực và hiệu quả nếu thiếu một đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ
sở có đủ trình độ để đảm nhận công việc được giao. Công chức cấp cơ sở là
những người gần dân nhất, sát dân nhất. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ
của mình, công chức cấp cơ sở chính là những người trực tiếp truyền tải pháp
luật đến với nhân dân thông qua giải quyết các công việc liên quan tới quyền
và lợi ích của nhân dân, đồng thời cũng là người thấu hiểu nhất những tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân, những vướng mắc bất cập của chính sách, pháp
luật khi áp dụng chúng trong thực tế. Chủ trương, chính sách, pháp luật dù có
đúng đắn nhưng sẽ khó có được hiệu lực, hiệu quả cao nếu như không được
triển khai thực hiện bởi một đội ngũ công chức xã.
Chính vì đội ngũ công chức cấp xã có vai trò quan trọng như vậy nên
việc xây dựng đội ngũ công chức cấp xã vững vàng về chính trị, có đạo đức
trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và trình độ năng lực để thực hiện
các nhiệm vụ được giao luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước
ta. Đây cũng là một trong những nội dung rất quan trọng của công tác cán bộ.

2
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của hệ
thống chính trị và đội ngũ công chức cấp xã đối với sự nghiệp CNH-HĐH phát
triển đất nước. "Đầu tư xây dựng đội ngũ công chức cấp xã có phẩm chất, đạo
đức và năng lực ngang tầng sự nghiệp đổi mới mang ý nghĩa như sự đầu tư cho
hạ tầng cơ sở trong công tác cán bộ" [7]. Do vậy, nâng cao năng lực cho công
chức cấp xã là một yêu cầu bức thiết nhằm góp phần xây dựng đội ngũ công
chức cấp xã trong sạch, vững mạnh, đủ khả năng thực thi hành chức năng,

nhiệm vụ theo đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức, để thực hiện trọng trách là "công bộc" của nhân dân.
Thanh Hóa là tỉnh lớn với hơn 3,4 triệu dân. Trước yêu cầu xây
dựng đội ngũ cán bộ, Công chức ngang tầm với thời kỳ đẩy mạnh CNH -
HĐH, Thanh Hóa đang thực hiện nhiều giải pháp để tạo bước chuyển mới
trong việc xây dựng đội ngũ công chức gắn với Nghị quyết Trung ương 4
(khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”[6]. Tháng 3-
2012, Đảng bộ đã ban hành Nghị quyết 04 về “Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức và đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, đáp ứng yêu cầu Thanh
Hóa thành tỉnh tiên tiến vào năm 2020” với mục tiêu xây dựng đội ngũ công
chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm
chất lượng, đạt yêu cầu về tiêu chuẩn, có sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng
giữa các thế hệ. Tuy nhiên, một thực tế khách quan đội ngũ công chức cấp xã
của tỉnh hiện nay chất lượng còn thấp (đặc biệt đối với các vùng núi, vùng
cao) không tương xứng với vai trò, vị trí của họ cũng như chức trách của các
chức danh do Nhà nước quy định. Điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở nói riêng và của Đảng và
nhà nước nói chung; tình trạng bất ổn cục bộ ở một số địa phương, làm suy
giảm niềm tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước.

3
Để có một đội ngũ công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh có chất lượng,
đảm bảo "vừa hồng, vừa chuyên" hết lòng phụng sự nhân dân, giữ gìn đoàn
kết ở cơ sở, tăng uy tín của Đảng và Nhà nước với nhân dân đáp ứng yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân đã đặt ra
nhiều vấn đề lí luận, pháp lí cần phải giải đáp thấu đáo, có căn cứ khoa học và
thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Công chức cấp xã ở tỉnh Thanh
Hoá trong giai đoạn hiện nay" là yêu cầu tất yếu khách quan, cấp thiết cả về
lí luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu

2.1. Mục tiêu tổng quát
Luận văn hướng tới làm sáng tỏa cơ sở lí luận và thực trạng của đội ngũ
công chức cấp xã của tỉnh Thanh hóa để đưa ra các quan điểm, phương hướng
và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện đội ngũ công chức cấp xã trên địa bàn
tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Nghiên cứu các mặt lý luận về công chức cấp xã, liên hệ tới thực tiễn
về công chức tại tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay từ đó đưa ra một số
giải pháp để hoàn thiện đội ngũ công chức cấp xã tại tỉnh.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Làm rõ khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của công chức cấp xã, hệ
thống chức danh, chức trách, cơ cấu, trình độ năng lực của đội ngũ công chức
cấp xã; Đánh giá thực trạng đội ngũ công chức cấp xã của tỉnh Thanh hóa với
những kết quả bước đầu về nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã đề
xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm kiện toàn đội ngũ công
chức cấp xã ở tỉnh Thanh hóa trong giai đoạn hiện nay, góp phần vào công
cuộc cải cách hành chính của tỉnh.

4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu đội ngũ
công chức cấp xã bao gồm các chức danh thuộc công chức cấp xã; làm rõ hệ
thống các chức danh, chức trách, trình độ năng lực, khả năng công tác trên cơ
sở đó đề xuất những giải pháp để hoàn thiện đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh
Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống cơ
cấu, chất lượng, chức trách chế độ làm việc, chế độ chính sách đối với công
chức cấp xã của tỉnh Thanh Hóa từ năm 2010 đến năm 2013.
5. Tổng quan của đề tài
Vấn đề công chức đã được nhiều chuyên gia, nhà khoa học, nhà nghiên

cứu và nhiều công trình khoa học cũng đã nghiên cứu vấn đề này dưới nhiều gốc
độ khác nhau. Có thể liệt kê một số công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh
vực trên như sau:
GS. Hồ Văn Thông: Tình hình các tổ chức chính trị ở nông thôn nước ta
được in trong cuốn sách Kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam ngày nay, tập 2,
Nxb Tư tưởng văn hóa, Hà Nội 2008;
Nguyễn Thị Hải: Về đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã
ở Thái Bình trong điều kiện cải cách nền hành chính nhà nước, Hà Nội, 2009.
Trong điều kiện cải cách hành chính nhà nước, vấn đề công chức chính
quyền cấp xã được đặc biệt quan tâm. Một số đề tài khoa học, công trình
nghiên cứu đề cập trực tiếp đến vấn đề này và hoàn chỉnh hơn.
PGS, TS Bùi Tiến Quý: Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của
chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội 2009;
TS Thang Văn Phúc và TS Chu Văn Thành đồng chủ biên: Chính
quyền cấp xã và quản lý nhà nước cấp xã của Viện Khoa học Tổ chức Nhà
nước, Ban Tổ chức Cán bộ chính phủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010;

5
TS Nguyễn Ngọc Hiến chủ biên: Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành
chính ở Việt Nam của Học viện Hành chính Quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội 2010;
TS Nguyễn Văn Sáu và GS Hồ Văn Thông chủ biên: Thực hiện quy chế
dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010;
Th.S Dương Hương Sơn, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Trị hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2009;
Ngoài ra, một số bài viết, nghiên cứu được đăng trên các Tạp chí
Thông tin Chính trị học, Tạp chí Quản lý nhà nước, Nhà nước pháp luật như:

TS Lê Văn Hòe: Về hoàn thiện tổ chức bộ máy hệ thống chính trị ở các
tỉnh miền núi, Đề tài độc lập cấp nhà nước: Các giải pháp đổi mới hoạt động
của hệ thống chính trị các tỉnh miền núi, Hà Nội, 2009;
Dưới góc độ khoa học, các công trình nói trên là hết sức có giá trị đối
với những người đã và đang nghiên cứu về công chức. Tuy nhiên, đến nay đề
tài: "Công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay" là
công trình nghiên cứu đầu tiên mang tính toàn diện đối với công chức chính
quyền cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như:
Phương pháp lịch sử: Xem xét công chức cấp xã và pháp luật về công
chức cấp xã qua từng giai đoạn, từng quá trình. Từ đó tìm ra quy luật của sự phát
triển cũng như vai trò, vị trí của công chức cấp xã trong giai đoạn hiện nay.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận văn kế thừa, tổng kết lại những
kết quả của các công trình nghiên cứu về công chức cấp xã. Tuy nhiên đây

6
không phải là sự sao chép vì đã có sự sắp xếp theo kết cấu khác theo góc nhìn
của tác giả.
Phương pháp thống kê: Từ những kết quả thống kê, điều tra, khảo sát
về thực trạng công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa để đưa ra những giải
pháp hợp lý.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Vị trí, vai trò của công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa trong
giai đoạn hiện nay.
Chương 2. Thực trạng đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa và
phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, kiện

toàn đội ngũ công chức cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa trong giai
đoạn hiện nay.






7
Chương 1
VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA CÔNG CHỨC CÂ
́
P XA
̃

TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1.1. Khái niệm về công chức cấp xã
1.1.1. Khái niệm về công chức
Khái niệm công chức được hình thành, phát triển và hoàn thiện gắn với
sự phát triển của nền hành chính nhà nước. Điểm khởi đầu của sự hình thành
khái niệm công chức ở Việt Nam nằm trong giai đoạn 1946-1960, đó là việc
ban hành Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa về Quy chế công chức. Theo đó khái niệm Công chức được hiểu
như sau: " Những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để
giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ, ở trong hay
ngoài nước đều là công chức theo quy chế này, trừ những trường hợp do
Chính phủ quy định" [32]. Đây là lần đầu tiên ở Việt Nam, khái niệm Công
chức đã được nêu ra trong văn bản chính thức của nhà nước. Theo Quy chế
này, phạm vi công chức còn rất hẹp, chỉ là những người được tuyển dụng giữ

một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ. Đây chính là đội
ngũ công chức làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước theo cách hiểu
hiện nay. Sau đó một thời gian dài, (Giai đoạn từ năm 1960 đến cuối những
năm 1980), do hoàn cảnh chiến tranh, Việt Nam không sử dụng khái niệm
công chức mà thay vào đó là một khái niệm khác với cụm từ “cán bộ, công
nhân, viên chức nhà nước”, không phân biệt công chức, viên chức với công
nhân. Đến năm 1990, do yêu cầu khách quan của tiến trình cải cách nền hành
chính nhà nước và đòi hỏi phải chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nước cho phù hợp với quan niệm chung của quốc tế, thuật ngữ “công chức”
lại được sử dụng trở lại và khái niệm công chức lại được quy định tại Nghị

8
định 169/HĐBT ngày 25/5/1991 của Hội đồng Bộ trưởng như sau: “Công
dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên
trong một công sở của Nhà nước ở Trung ương hay địa phương, ở trong nước
hay ngoài nước đã được xếp vào một ngạch, hưởng lương do Ngân sách nhà
nước cấp, gọi là công chức”[9]. Khái niệm này đã nêu khá đầy đủ các dấu
hiệu cơ bản về công chức trong nền hành chính hiện đại, phù hợp với quan
niệm chung của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên về mặt pháp lý, khái
niệm này mới chỉ dừng lại ở mức độ thể hiện ở văn bản lập quy của Chính
phủ. Năm 1998, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh cán bộ,
công chức. Văn bản Luật này không chỉ điều chỉnh người làm việc trong
phạm vi các cơ quan nhà nước mà còn điều chỉnh cả những người làm việc
trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội. Trong đó những người thuộc
phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh này đều gọi chung trong một cụm từ là
“cán bộ, công chức”. Trong quá trình thực hiện cải cách nền hành chính nhà
nước, để thực hiện và đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp, đổi mới
cơ chế quản lý đối với cán bộ, công chức và nâng cao chất lượng đội ngũ
công chức hành chính nhà nước, ngày 13/11/2008 Quốc Hội đã ban hành Luật
cán bộ, công chức. Theo đó Luật đã phân định rõ đối tượng cán bộ và công

chức và tách biệt với đối tượng làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập
sẽ do luật khác quy định, trừ một số vị trí quản lý trong các đơn vị sự nghiệp
công lập vẫn là công chức. Đây là bước cải cách lớn nhất trong lịch sử nền
công vụ ở Việt Nam, tách ra gần 1,5 triệu người làm việc trong khu vực sự
nghiệp công lập, chiếm hơn 70% cán bộ công chức từ cấp Trung ương đến
cấp huyện trong hệ thống chính trị.
Cũng nhờ có việc phân định rõ các đối tượng này nên các chính sách đối
với công chức được rõ ràng, phù hợp với đặc thù vị trí việc làm của công chức,
không lẫn lộn với các đối tượng làm việc trong lĩnh vực sự nghiệp công lập.

9
Theo khoản 2 Điều 4 Luật cán bộ, công chức thì công chức năm 2008:
Công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức Chính trị - Xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không
phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng;
trong cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân mà không phải là sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý
của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị
sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị
sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [7].
Như vậy, Luật Cán bộ, Công chức là một sự kế thừa và phát triển
những quy định trước đây về công chức. Khái niệm công chức được luật hoá.
Luật Cán bộ, Công chức là cơ sở pháp lý cơ bản để phân định rõ giữa cán bộ
với công chức. Việc phân định rõ cán bộ, công chức sẽ tạo điều kiện thuận lợi
để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng các chính sách đối với công

chức một cách phù hợp, phát huy được vai trò quan trọng của đội ngũ công
chức trong hệ thống chính trị.
1.1.2. Khái niệm về công chức cấp xã
Sự nhận thức đối với quan niệm về công chức cấp xã ở Việt Nam cũng
nằm trong sự vận động chung của quan niệm về công chức Việt Nam qua
từng thời điểm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Các quy định liên
quan đến công chức xã được điều chỉnh bởi các văn bản như Quyết định số
112/HĐBT ngày 15/10/1981 quy định về chức năng, nhiệm vụ của chính

10
quyền cấp xã; Thông tư 477/TT ngày 10/12/1981 hướng dẫn thực hiện Quyết
định số 112/HĐBT ngày 15/10/1981; Nghị định số 50/CP ngày 26/7/1995 quy
định về số lượng và chế độ chính sách của cán bộ công tác Đảng, chính
quyền, đoàn thể ở cấp xã; Thông tư 97/TTLB/TT-BTC ngày 16/8/1995 hướng
dẫn thực hiện Nghị định số 50/CP ngày 26/7/1995. Pháp lệnh Cán bộ, Công
chức năm 1998 không quy định cụ thể về công chức cấp xã mà chỉ quy định
chung về công chức. Trong các văn bản trên chỉ ra những chức danh công
chức tại xã được hưởng sinh hoạt phí chứ không nêu khái niệm về công chức
cấp xã. Trải qua một thời gian tương đối dài, lực lượng công chức cấp xã
chưa được quan tâm đúng mức. Năm 2003, Uỷ ban thường vụ Quốc hội sửa
đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cán bộ, Công chức năm 1998 mới
quy định chung về công chức cấp xã: Công chức quy định tại Pháp lệnh này
là công dân Việt Nam, trong biên chế, bao gồm:
- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm
kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư,
Phó bí thư Đảng uỷ; người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội,
phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);
- Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh
chuyên môn nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã [19].
Mặc dù quy định trên cũng chưa phân định rõ quan niệm về công chức

cấp xã nhưng trên cơ sở tiêu chí chung đã có quy định riêng dành cho công
chức xã và Nghị định 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về cán bộ, công
chức cấp xã thì chúng ta vẫn có thể xác định được những đối tượng là công
chức cấp xã.
Ngày 13/11/2008, Quốc hội thông qua Luật Cán bộ, Công chức là bước
tiến mới trong hoạt động lập pháp ở nước ta. Đây là các quy định kế thừa các
quy định của Pháp lệnh Cán bộ, Công chức và các Nghị định của Chính phủ

11
nhằm nâng cao giá trị pháp lý và cụ thể việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý;
nghĩa vụ, quyền của đội ngũ công chức cấp xã.
Điểm mới trong việc quy định công chức cấp xã lần này là quy định
chặt chẽ quyền, nghĩa vụ của công chức cấp xã, các chế độ tập sự, quyền
hưởng lương, bảo hiểm; vấn đề bầu cử, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng công
chức cấp xã; đánh giá, phân loại, xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm,
thôi việc, nghỉ hưu đối với công chức cấp xã.
Việc luật hóa Công chức cấp xã có tác động rất lớn đến hệ thống chính
quyền cơ sở, tạo sự ổn định về mặt chính trị đối với cấp xã; đồng thời, khắc
phục tình trạng “phình biên chế” cơ sở cấp xã hiện nay. Có thể nói, chế định
về công chức cấp xã là tâm điểm trong toàn bộ các quy định mới của Luật
Cán bộ, Công chức.
Công chức cấp xã là công dân Việt Nam trong biên chế, được hưởng
lương từ ngân sách Nhà nước, được tuyển dụng, giao giữ một chức danh
chuyên môn nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện nhiệm vụ
theo quy định của Hiến pháp và Pháp luật.
1.2. Hệ thống chức danh công chức cấp xã
Công chức xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là công chức cấp xã)
làm công tác chuyên môn thuộc biên chế của Ủy ban nhân dân cấp xã, có
trách nhiệm tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác được phân công và thực hiện các

nhiệm vụ khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao.
Theo khoản 3, điều 61 Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 thì Công
chức cấp xã có các chức danh sau:
- Trưởng công an;
- Chỉ huy trưởng quân sự;
- Văn phòng thống kê;

12
- Địa chính - Xây dựng - Đô thị và môi trường (đối với
phường, thị trấn) hoặc địa chính - Nông nghiệp - Xây dựng và môi
trường (đối với xã);
- Tài chính - Kế toán;
- Tư pháp - Hộ tịch;
- Văn hoá - Xã hội [7, Điều 61, Khoản 3].
Trong bất kỳ một hệ thống công chức nào, tiêu chuẩn công chức theo
ngạch hay theo vị trí việc làm đều có vai trò rất quan trọng. Đó là cơ sở để
tuyển dụng, bố trí sử dụng, đào tạo bồi dưỡng. Tiêu chuẩn cũng là căn cứ để
mỗi công chức yên tâm làm việc theo chức trách được giao, xác định hướng
phấn đấu, nâng cao trình độ và khả năng làm việc, các cấp quản lý cũng căn
cứ vào đó để tạo điều kiện cho cán bộ, công chức có cơ hội được học tập, bồi
dưỡng. Thực hiện việc công chức hóa công chức cấp xã, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ngày 05 tháng 12 năm 2011 về Công
chức xã, phường, thị trấn và Thông tư số 06/2012/TT-BNV ngày 30 tháng 10
năm 2012 của Bộ Nội vụ hướng dẫn về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm
vụ và tuyển dụng công chức xã, phường, thị trấn; đã xác định rõ chức trách,
nhiệm vụ của từng chức vụ, chức danh trong công chức cấp xã. Để thực hiện
được chức trách, nhiệm vụ được giao đòi hỏi công chức cấp xã phải đáp
những tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn cụ thể.
* Tiêu chuẩn chung
Đối với các Công chức Văn phòng - Thống kê, Địa chính - Xây dựng -

Đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc Địa chính - Nông nghiệp
- Xây dựng và Môi trường (đối với xã), Tài chính - Kế toán, Tư pháp - Hộ
tịch, Văn hóa - Xã hội:
- Hiểu biết về lý luận chính trị, nắm vững quan điểm, chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước;

13
- Có năng lực tổ chức vận động nhân dân ở địa phương thực hiện có hiệu
quả chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước;
- Có trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp yêu
cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm, có đủ năng lực và sức khỏe để hoàn thành
nhiệm vụ được giao;
- Am hiểu và tôn trọng phong tục, tập quán của cộng đồng dân cư trên
địa bàn công tác.
Đối với công chức Chỉ huy trưởng Quân sự cấp xã và Trưởng Công an
xã: ngoài những tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này còn phải có khả
năng phối hợp với các đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và lực
lượng khác trên địa bàn tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thực
hiện một số nhiệm vụ phòng thủ dân sự; giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân
dân, tài sản của Nhà nước.
* Tiêu chuẩn cụ thể
Công chức cấp xã ngoài điều kiện về tiêu chuẩn chung thì còn có các
tiêu chuẩn cụ thể sau:
- Độ tuổi: Đủ 18 tuổi trở lên;
- Trình độ văn hóa: Tốt nghiệp trung học phổ thông;
- Trình độ chuyên môn: Tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp trở lên của
ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của chức danh công chức được
đảm nhiệm;
- Trình độ tin học: Có chứng chỉ tin học văn phòng trình độ A trở lên;

- Tiếng dân tộc thiểu số: Ở địa bàn công tác phải sử dụng tiếng dân tộc
thiểu số trong hoạt động công vụ thì phải biết thành thạo tiếng dân tộc thiểu
số phù hợp với địa bàn công tác đó; nếu khi tuyển dụng mà chưa biết tiếng
dân tộc thiểu số thì sau khi tuyển dụng phải hoàn thành lớp học tiếng dân tộc
thiểu số phù hợp với địa bàn công tác được phân công;

14
- Sau khi được tuyển dụng phải hoàn thành lớp đào tạo, bồi dưỡng quản
lý hành chính nhà nước và lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo
chương trình đối với chức danh công chức cấp xã hiện đảm nhiệm.
Tiêu chuẩn cụ thể của công chức cấp xã là căn cứ để các địa phương thực
hiện việc quy hoạch, kế hoạch, bầu cử, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng,
xếp lương, nâng bậc lương và các chế độ, chính sách khác. Tiêu chuẩn cụ thể
của công chức cấp xã được xác định theo từng chức vụ, chức danh như sau:
- Đối với Công chức Tài chính - Kế toán:
+ Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng
và đô thị, tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý
luận chính trị với trình độ tương đương sơ cấp trở lên.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: Ở khu vực đồng bằng có trình độ trung cấp
Tài chính Kế toán trở lên. Với công chức đang công tác ở khu vực miền núi
hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn Tài chính - Kế toán;
nếu mới được tuyển dụng lần đầu phải có trình độ trung cấp Tài chính - Kế
toán trở lên. Phải qua bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước sau khi tuyển
dụng. ở khu vực đồng bằng và đô thị phải sử dụng được kỹ thuật tin học trong
công tác chuyên môn.
- Đối với công chức Tư pháp - Hộ tịch
+ Tuổi đời: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng

và đô thị; tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý
luận chính trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: Ở khu vực đồng bằng có trình độ trung cấp

15
Luật trở lên và phải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp xã sau khi được
tuyển dụng. Với công chức đang công tác ở khu vực miền núi hiện nay, tối
thiểu được bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ tư pháp cấp xã; nếu mới được
tuyển dụng lần đầu phải có trình độ trung cấp luật trở lên. Phải qua bồi dưỡng
quản lý hành chính Nhà nước sau khi được tuyển dụng, ở khu vực đồng bằng
và đô thị phải sử dụng được kỹ thuật tin học trong công tác chuyên môn.
- Đối với Công chức Địa chính - Xây dựng
+ Tuổi đời: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng
và đô thị, tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý
luận chính trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: Ở khu vực đồng bằng có trình độ trung cấp
Địa chính hoặc trung cấp Xây dựng trở lên. Với công chức đang công tác ở
khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn
Địa chính hoặc xây dựng; nếu mới được tuyển dụng lần đầu phải có trình độ
trung cấp Địa chính hoặc xây dựng trở lên. Sau khi được tuyển dụng phải qua
bồi dưỡng về quản lý đất đai, đo đạc bản đồ, quản lý hành chính Nhà nước. ở
khu vực đồng bằng và đô thị phải sử dụng được kỹ thuật tin học trong công
tác chuyên môn.
- Đối với công chức Văn phòng - Thống kê.
+ Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng
và đô thị, tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.

+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý
luận chính trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên.
+ Chuyên môn, nghiệp vụ: Ở khu vực đồng bằng có trình độ trung cấp

16
Văn thư, lưu trữ hoặc trung cấp Hành chính, trung cấp Luật trở lên. Với công
chức đang công tác ở khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng
kiến thức chuyên môn về một trong các ngành chuyên môn trên; nếu mới
được tuyển dụng lần đầu phải có trình độ trung cấp của một trong ba ngành
chuyên môn trên. Sau khi được tuyển dụng phải qua bồi dưỡng quản lý hành
chính Nhà nước (nếu chưa qua trung cấp hành chính). Ở khu vực đồng bằng
và đô thị phải sử dụng được kỹ thuật tin học phục vụ công tác chuyên môn.
- Đối với công chức Văn hoá - Xã hội
+ Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng
và đô thị, tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải được bồi dưỡng lý
luận chính trị tương đương trình độ sơ cấp trở lên.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: Ở khu vực đồng bằng phải đạt trung cấp về
văn hoá nghệ thuật (chuyên ngành) hoặc trung cấp quản lý Văn hoá - Thông
tin hoặc trung cấp nghiệp vụ Lao động - Thương binh và xã hội trở lên. Với
công chức đang công tác ở khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi
dưỡng kiến thức chuyên môn về một trong các ngành chuyên môn trên; nếu
mới được tuyển dụng lần đầu phải có trình độ trung cấp trở lên về một trong
các ngành chuyên môn nêu trên. Sau khi được tuyển dụng phải qua bồi dưỡng
quản lý hành chính Nhà nước và ngành chuyên môn còn thiếu liên quan tới
nhiệm vụ được giao. Sử dụng thành thạo các trang thiết bị phù hợp với ngành
chuyên môn. Ở khu vực đồng bằng và đô thị phải sử dụng được kỹ thuật tin
học trong công tác.
- Đối với công chức Trưởng Công an xã.

+ Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng,
tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.

17
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải có trình độ trung cấp
lý luận chính trị trở lên ở khu vực đồng bằng, có trình độ tương đương sơ cấp
lý luận chính trí trở lên ở khu vực miền núi.
+ Chuyên môn, nghiệp vụ: Ở khu vực đồng bằng phải đạt trình độ
tương đương trung cấp chuyên môn ngành công an trở lên. Với công chức
đang công tác ở khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi dưỡng kiến
thức chuyên môn ngành công an, nếu mới được tuyển dụng lần đầu phải được
bồi dưỡng chương trình huấn luyện trưởng công an xã theo quy định của
Công an cấp trên. Sau khi được tuyển dụng phải qua bồi dưỡng quản lý hành
chính Nhà nước. Sử dụng thành thạo các trang thiết bị phù hợp với ngành
chuyên môn.
- Đối với công chức Chỉ huy trưởng Quân sự
+ Độ tuổi: Không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
+ Học vấn: Tốt nghiệp trung học phổ thông đối với khu vực đồng bằng
và đô thị, tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên đối với khu vực miền núi.
+ Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải có trình độ trung cấp
lý luận chính trị trở lên ở khu vực đồng bằng, có trình độ tương đương sơ cấp
lý luận chính trị trở lên ở khu vực miền núi.
+ Chuyên môn, nghiệp vụ: Ở khu vực đồng bằng phải đạt trình độ tương
đương trung cấp về quân sự của sĩ quan dự bị cấp phân đội trở lên. Đối với
Công chức đang công tác ở khu vực miền núi hiện nay, tối thiểu được bồi
dưỡng kiến thức chuyên môn ngành quân sự; nếu mới được tuyển dụng lần đầu
phải tương đương trung cấp quân sự của sĩ quan dự bị cấp phân đội trở lên. Sau
khi được tuyển dụng phải qua bồi dưỡng quản lý Nhà nước về quốc phòng cấp
xã. Sử dụng thành thạo trang, thiết bị phục vụ công tác chuyên môn.

Ngoài những tiêu chuẩn cụ thể trên, những công chức cấp xã công tác
tại các nơi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống phải biết ít nhất tiếng của
một dân tộc thiểu số.

18
1.3. Đặc điểm của công chức cấp xã
Một là, công chức cấp xã là người trực tiếp tuyên truyền, phổ biến các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đến nhân
dân; làm cho các tầng lớp nhân dân hiểu đúng, hiểu đầy đủ các chủ trương,
chính sách đó:
Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang tiến hành xây dựng nhà
nước pháp quyền, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường mối quan hệ
gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; Vì vậy, vai trò này của đội ngũ công
chức cấp xã càng có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo cho nhân dân biết và nắm
được các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trên cơ sở đó sẽ tham
gia, đóng góp vào việc thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách đó.
Để làm được điều đó, đội ngũ công chức cấp xã phải tiến hành nhiều
hình thức, biện pháp khác nhau như thông qua các buổi tuyên truyền, nói
chuyện tại cuộc họp thôn, xóm, khu dân cư, tổ đoàn kết, trung tâm học tập
cộng đồng hoặc thông qua các buổi đối thoại trực tiếp với nhân dân để giải
quyết các vấn đề mới phát sinh như liên quan đến việc bồi thường thiệt hại,
giải phóng mặt bằng, quy hoạch… Đồng thời, nó còn đòi hỏi đội ngũ công
chức cấp xã phải có những hiểu biết nhất định về lý luận và am hiểu tình hình
thực tế của địa phương, cũng như nắm bắt được đặc điểm, tâm lý của từng lớp
dân cư thuộc phạm vi quản lý của mình.
Hai là, công chức cấp xã là người có vai trò rất quan trọng trong việc tổ
chức và vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, huy động mọi khả năng
phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư:
Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được nhân dân nắm

bắt, nhận thức mới chỉ là khởi đầu, điểm xuất phát để kiểm nghiệm được tính
đúng đắn của chủ trương, đường lối đó; điều kiện đủ là phải tổ chức thực hiện

19
trong thực tiễn; muốn làm được điều đó không có ai khác là công chức cấp
xã, bởi công chức cấp xã là người tiếp xúc nhiều nhất, hiểu rõ nhất, giải quyết
nhiều việc nhất của nhân dân.
Để thực hiện tốt vị trí, vai trò này; đòi hỏi đội ngũ công chức cấp xã
phải có khả năng tổ chức, bố trí, sử dụng, tập hợp và lôi cuốn mọi người vào
hoạt động; phải có khả năng xử lý các tình huống phát sinh, đó là các tình
huống về tài chính, về thiên tai, địch họa, do va chạm xóm giềng, dòng tộc,
tình huống nảy sinh khi ra những quyết định sai trái với cấp trên…, phải có
khả năng kiểm tra, đánh giá hoạt động của mình và khả năng tổng kết, sơ kết
việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách.
Công chức cấp xã có vai trò đảm bảo cho các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước thực hiện một cách nghiêm túc, thông qua việc xử lý,
đấu tranh ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật kịp thời, hiệu quả, góp
phần ổn định tình hình An ninh - Chính trị, trật tự an toàn xã hội tại từng địa
bàn thôn, xóm, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị đề ra.
Ba là, công chức chính quyền cấp xã thiếu tính chuyên nghiệp, trình độ
văn hoá, lý luận chính trị và chuyên môn thấp trong hệ thống chính trị so với
công chức nhà nước cấp trên. Điều này cũng một phần do hệ quả của lịch sử,
những người có học vấn cao ít ở lại địa phương công tác, con em địa phương
đi học ở các nơi thường lập nghiệp ở nơi khác ít trở về địa phương.
Bốn là, công chức chính quyền cấp xã là người đại diện cho quần
chúng nhân dân lao động ở cơ sở. Vì vậy công chức cấp xã luôn bám sát
dân, gần dân, lắng nghe ý kiến nguyện vọng của nhân dân, trực tiếp giải
quyết các yêu cầu, quyền lợi của nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân, có những cách thức tiến hành công việc phù hợp và đảm bảo
cho lợi ích chính đáng của nhân dân. Các chủ trương, chính sách của Đảng

và Nhà nước khi ban hành muốn đảm bảo tính khả thi phải xuất phát từ thực

20
tiễn cuộc sống; muốn vậy, đòi hỏi đội ngũ công chức nói chung, công chức
cấp xã nói riêng phải nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, để
mọi chủ trương, chính sách khi ban hành đều vì lợi ích của nhân dân, dựa
trên ý kiến của nhân dân; qua đó sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động
của mỗi con người, làm cho mọi tiềm năng sáng tạo được phát triển, mọi
người dân đều được tham gia vào các quá trình chính trị, xã hội, các vấn đề
nảy sinh được phát hiện kịp thời, các khó khăn sớm được tháo gỡ, tạo sự
phát triển mạnh mẽ của đất nước.
Thực tiễn cách mạng của đất nước đã khẳng định, chính từ vai trò của
công chức cấp xã trong việc nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, nên
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách đúng, được
nhân dân đồng tình ủng hộ. Đảng đã ban hành nhiều Nghị quyết quan trọng
như: Nghị quyết về khoán sản phẩm trong nông nghiệp; công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc… Nhà nước cũng đã ban hành nhiều
văn bản pháp luật điều chỉnh có hiệu quả các mặt của đời sống - xã hội như
Bộ Luật dân sự, Bộ Luật hình sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Hôn nhân và gia
đình, Luật Cư trú, Luật Phòng chống tham nhũng…
Năm là, công chức chính quyền cấp xã là những người xuất phát từ
cơ sở (người của địa phương), họ vừa trực tiếp tham gia lao động lao động
sản xuất, vừa là người đại diện cho nhân dân thực hiện chức năng quản lý
nhà nước, giải quyết các công việc của nhà nước. Do đó, xét ở khía cạnh
nào đó công chức cấp xã bị chi phối, ảnh hưởng rất nhiều bởi những phong
tục tập quán làng quê, những nét văn hóa bản sắc riêng đặc thù của địa
phương, của dòng họ. Các quan hệ này vừa là thuận lợi, vừa là khó khăn
cho công chức cấp xã trong quá trình thi hành công vụ. Công chức cấp xã
có thể dễ dàng nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của nhân dân địa

×