Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Các chức năng xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 139 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




VŨ THỊ HƢƠNG GIANG






CÁC CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƯỚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2012



2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



VŨ THỊ HƢƠNG GIANG





CÁC CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƯỚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế


HÀ NỘI - 2012


3
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÁC CHỨC
NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƢỚC CỘNG HÕA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH XÂY

DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
7
1.1.
Nhận thức về các chức năng xã hội của nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
7
1.1.1.
Khái niệm chức năng xã hội của nhà nước
7
1.1.2.
Khái niệm chức năng xã hội của Nhà nước Việt Nam
11
1.1.3.
Vai trò, trách nhiệm của nhà nước Việt Nam trong việc giải
quyết các vấn đề xã hội
17
1.1.4.
Các nhóm chức năng xã hội của nhà nước Việt Nam
18
1.1.5.
Lịch sử quá trình phát triển các chức năng xã hội của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
21
1.1.6.
Mối quan hệ giữa các chức năng xã hội và chính sách xã hội
27
1.2.
Nội dung các chức năng xã hội của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
31

1.2.1.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề đặt ra đối với các
chức năng xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
31
1.2.2.
Khái quát các chức năng xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong quá trình xây dựng nhà nước
37

4
pháp quyền

Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VỀ CÁC CHỨC NĂNG XÃ
HỘI CỦA NHÀ NƢỚC CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY
40
2.1.
Đầu tư hạ tầng cơ sở và nâng cao cung ứng các dịch vụ công
41
2.2.
Lao động, việc làm
44
1.3.
Giáo dục, đào tạo
50
2.4.
Y tế
58
2.5.

Bảo vệ môi trường
61
2.6.
Bảo vệ các nhóm người bị tổn thương
63
2.7.
Phòng chống tệ nạn xã hội và tội phạm
66
2.8.
Xóa đói giảm nghèo
69
2.9.
Chính sách đối với người có công
71
2.10.
Bảo hiểm xã hội
73
2.11.
Cứu trợ xã hội
74

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ
CỦA VIỆC THỰC HIỆN CÁC CHỨC NĂNG XÃ HỘI
CỦA NHÀ NƢỚC CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ
NƢỚC PHÁP QUYỀN
77
3.1.
Quan điểm tăng cường hiệu quả việc thực hiện các chức năng
xã hội của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
77
3.1.1.
Trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo vệ, bảo đảm các
quyền con người trong việc thực hiện các chức năng xã hội
80
3.1.2.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992
82
3.1.3.
Xây dựng chế độ trách nhiệm của cơ quan, cán bộ, công chức
nhà nước trong việc thực hiện các chức năng xã hội
83

5
3.1.4.
Giáo dục ý thức pháp luật, ý thức đạo đức cho cán bộ nhà
nước trong việc thực hiện các chức năng xã hội
84
3.1.5.
Phổ biến, giáo dục kiến thức về quyền con người cho người
dân và các cán bộ, công chức
86
3.1.6.
Thực hiện chính sách xã hội hóa dịch vụ công nhưng phải
tăng cường hiệu quả quản lý bằng pháp luật của Nhà nước
87
3.1.7.
Cải cách mạng lưới an sinh xã hội nhằm phát triển bền vững
88

3.2.
Giải pháp tăng cường hiệu quả việc thực hiện các chức năng
xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
90
3.2.1.
Nâng cao nhận thức về thực hiện các chức năng xã hội trong
quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
90
3.2.2.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về thực hiện các
chức năng xã hội
92
3.2.3.
Kiện toàn bộ máy nhà nước trong việc thực hiện các chức
năng xã hội
97
3.2.4.
Đảm bảo quản lý xã hội bằng pháp luật, tính tối cao của pháp luật
99
3.2.5.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước,
đặc biệt là của hệ thống chính trị cấp cơ sở đối với việc thực
hiện các chính sách xã hội của nhà nước
101
3.2.6.
Hoàn thiện cơ chế tài chính của Nhà nước cho việc thực hiện
các chính sách xã hội
102
3.2.7.

Tăng cường hợp tác quốc tế
104

KẾT LUẬN
106

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
107

PHỤ LỤC
112


6
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước là tổ chức xã hội đặc biệt của quyền lực chính trị và là sản
phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp. Bản chất của mọi nhà nước đều có tính giai
cấp và tính xã hội. Với nhà nước xã hội chủ nghĩa thì chức năng xã hội là
thuộc tính cơ bản và quan trọng. Nó tồn tại khách quan xuất phát từ nhu cầu
chung lợi ích chung của toàn xã hội, nhằm tổ chức và quản lý đời sống cộng
đồng, duy trì một trật tự chung đảm bảo cho xã hội tồn tại và phát triển.
Trong những năm gần đây, trước những thay đổi lớn của thế giới về
quan hệ kinh tế phát triển cùng có lợi và xu thế toàn cầu hóa là điều kiện
thuận lợi cho chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm của các nước trong hợp tác
sản xuất, hợp tác về lao động, giáo dục, khoa học kỹ thuật… để đưa đất nước
phát triển nhanh hơn, cố gắng theo kịp đà phát triển của các quốc gia khác
trên thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những điều kiện thuận lợi thì còn có những
khó vô cùng lớn bởi xuất phát điểm của chúng ta là thấp. Trải qua một thời kỳ

dài trong chiến tranh, kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, cơ sở hạ tầng
còn kém, có lao động nhưng thiếu lao động có kỹ thuật kinh tế nên đất nước
còn gặp nhiều khó khăn. Để có thể đưa đất nước phát triển, hoàn thiện quá
trình xây dựng nhà nước pháp quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì
ngay từ sau cách mạng tháng Tám, Đảng ta đã xác định rõ vai trò của nhân
dân trong công cuộc xây dựng đất nước. Có thể nhận thấy rằng dân là "gốc",
chúng ta phải tập trung chăm lo cho dân. Chức năng xã hội của Nhà nước
chính là sự chăm sóc, sự quan tâm của Nhà nước đối với đời sống vật chất,
tinh thần cho nhân dân bằng những chính sách đúng đắn, phù hợp với hoàn
cảnh cũng như thực tế nhu cầu của đất nước ta hiện nay.
Qua các giai đoạn phát triển của Nhà nước, với vai trò là "Nhà nước
của dân, do dân và vì dân" thì chúng ta cần phải đề ra đường lối chính sách cụ

7
thể, để thực hiện tốt vai trò của mình thì Nhà nước phải làm gì? Làm như thế
nào? Từ việc xác định được những vấn đề cơ bản trên thì có thể đi đến một
kết luận rằng: con người là mục tiêu là động lực phát triển xã hội và chức
năng xã hội của nhà nước là một trong những yếu tố phản ánh rõ nét nhất vấn
đề này. Cuộc sống nhân dân ta hiện tại có phản ánh đúng vai trò của Nhà
nước trong việc thực hiện chức năng xã hội của mình hay chưa? Chúng ta đã
làm tốt được mặt nào, mặt nào còn yếu kém hạn chế và phương hướng hoàn
thiện trong những năm tiếp theo. Từ những lẽ trên tác giả đã chọn đề tài "Các
chức năng xã hội của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền" với mong muốn nghiên cứu góp
phần bổ sung lý luận khoa học cho công cuộc củng cố và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ta trước thời kỳ trước đổi mới xét ở góc độ khoa học pháp lý,
vấn đề chức năng xã hội của Nhà nước hầu như chưa đề cập tới, quyền của
nhân dân chưa được quan tâm một cách thính đáng, đây cũng là quan điểm

xuất phát từ nhận thức thiếu khách quan, toàn diện về nguồn gốc, bản chất,
chức năng của nhà nước, chủ yếu nhấn mạnh chức năng chuyên chính giai
cấp, có chăng là sự quan tâm về mặt kinh tế. Nghiên cứu về đề tài này tác giả
muốn nghiên cứu tính ưu việt của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, con người sống trong xã
hội này phải được hưởng sự quan tâm đầy đủ về mọi mặt, xã hội thiết lập sự
công bằng giữa Nhà nước với công dân, công dân có trách nhiệm với nhà
nước và nhà nước có trách nhiệm với công dân.
Nhìn chung với vấn đề chức năng xã hội của nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền cũng
được rất nhiều người quan tâm, thể hiện qua các bài viết của một số tác giả
trong các công trình nghiên cứu khoa học, trên báo, trên tạp chí, tập san, qua

8
bài giảng của giảng viên của các cơ sở đào tạo chuyên ngành, cụ thể: Đề tài
KX.04.16 "Hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước nhằm tăng cường
hiệu quả quản lý các vấn đề thuộc chính sách xã hội", do PGS.TS Trần Trọng
Hựu làm chủ nhiệm, 1995, hay luận văn thạc sĩ "Chức năng xã hội của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của Cao Thị Thanh Thảo (1997)
nghiên cứu vấn đề này nhưng chỉ với phương diện là vấn đề liên quan và khác
nhau về mức độ và phạm vi. Năm 2003 đã có công trình nghiên cứu luận án
tiến sĩ của Lê Thu Hằng "Chức năng xã hội của Nhà nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam". Có thể nói đây là công trình nghiên cứu đề cập toàn
diện về chức năng xã hội của Nhà nước ta.
Tuy nhiên, với trên dưới một thập kỷ đã trôi qua, nhiều nội dung trong
các công trình trên không còn cập nhật với tình hình mới. Việc Việt Nam đã
gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2006 nói riêng và sự
hội nhập ngày càng sâu rộng của nước ta nói chung đã làm thay đổi đáng kể
việc tổ chức quyền lực nhà nước và khung pháp luật trên nhiều lĩnh vực. Theo
đó, quan niệm, lý luận, kinh nghiệm, thực tiễn… về chức năng xã hội của Nhà

nước ta cũng dần biến chuyển.
Gần đây, việc nghiên cứu tình hình thực hiện các chính sách xã hội mà
Nhà nước đã đề ra, cũng như đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước
trong chỉ đạo việc thực hiện chức năng xã hội là vấn đề cấp bách được khá
nhiều sự quan tâm của các học giả, thể hiện trong một số tác phẩm như: "Một
số vấn đề về quản lý Nhà nước kinh tế, văn hóa, giáo dục trên thế giới và Việt
Nam", của PGS.TS Lê Thanh Bình; "Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, trong
pháp luật và thực tiễn ở Việt Nam", của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội; "Vấn đề điều chỉnh chức năng và thể chế của Nhà nước dưới tác động
của toàn cầu hóa", của Phạm Thái Việt; "Xây dựng và hoàn thiện hệ thống
chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam", của GS.TS Mai Ngọc Cường… Tuy
nhiên, những công trình này chưa đề cập toàn diện về chức năng xã hội của

9
Nhà nước ta dưới góc độ khoa học pháp lý. Chính vì vậy, tác giả mong muốn
luận văn này sẽ bổ khuyết cho sự thiếu hụt đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
- Bên cạnh việc nghiên cứu đề tài này đã giúp tác giả và độc giả nhận
thức được rõ hơn vấn đề là xã hội của chúng ta hiện nay Nhà nước đã và đang
có những tác động như thế nào để xây dựng hoàn thiện chức năng xã hội
trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền. Từ đó hoàn thiện về góc độ lý
luận nói chung và theo giác độ pháp lý nói riêng.
- Nghiên cứu đề tài còn nhằm mục đích đánh giá thực trạng thực hiện
chức năng của Nhà nước ta trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền để
thấy được vấn đề nào thực hiện tốt thì phát huy còn vấn đề nào chưa tốt thì
khắc phục hoàn thiện, từ đó có những phương hướng giải pháp nhằm hoàn
thiện trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thiện được luận án và đạt được mục đích nghiên cứu, luận

văn có nhiệm vụ:
- Nhận thức lại một cách tổng thể tính chất, nội dung chức năng xã hội
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Làm nổi bật nội dung của chức năng xã hội của Nhà nước trong quá
trình xây dựng nhà nước quyền.
- Phân tích, bình luận những biện pháp, hình thức để thực hiện được
nhiệm vụ nghiên cứu mục tiêu đã được đặt ra.
- Tìm ra những điểm phù hợp và chưa phù hợp trong quá trình thực
hiện thực tiễn áp dụng những chính sách, chức năng xã hội của Nhà nước vào

10
từng hoàn cảnh cụ thể, từ đó đưa ra những nhận xét đánh giá để đề ra những
giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện tăng cường chức năng xã hội của nhà
nước trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của Việt Nam, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xu hướng hội nhập toàn cầu
hóa trong quan hệ quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài: "Các chức năng xã hội của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền" là vấn đề
khá phức tạp, được Nhà nước cũng như nhiều học giả, nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu không chỉ ở góc độ lý luận nhà nước pháp luật mà còn ở nhiều
lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… với nhiều quan điểm không
thống nhất.
Nhìn dưới góc độ pháp lý thì luận văn chỉ đi sâu nghiên cứu những
vấn đề về lý luận cơ bản và chức năng xã hội của Nhà nước ta trong việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền, mà nội dung trọng tâm là việc thực hiện chức
năng của xã hội trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của luận văn được dựa trên quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật, các nguyên tắc của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới với xu thế toàn cầu hóa trong quan hệ quốc tế.
Tác giả nghiên cứu trên cơ sở đi từ cái chung tới cái riêng, từ khái
quát tới chi tiết cụ thể.
Phương pháp phân tích cũng được sử dụng rất phổ biến trong quá
trình hoàn thiện đề tài, phân tích những nguyên nhân, tất yếu khách quan, từ
đó có những phương hướng hoàn thiện. Bên cạnh đó thì tác giả cũng sử dụng
nhiều phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp tổng hợp, so sánh

11
5. Những đóng góp mới của luận văn
Là đề tài được rất nhiều độc giả quan tâm bởi nó là vấn đề gắn liền với
các giai đoạn phát triển của các quốc gia, với mục tiêu xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, được nhân dân tin yêu
và ủng hộ. Tác giả đã nghiên cứu với một cách có hệ thống về lý luận, đặc
biệt là thực tiễn thực hiện chức năng xã hội của nhà nước trong quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền. Đặc biệt, luận văn cập nhật những chính sách
mới của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện chức năng xã hội để hoàn
thiện hệ thống Nhà nước pháp quyền trong giai đoạn hiện nay, so với luận án
tiến sĩ của Lê Thu Hằng về "Chức năng xã hội của Nhà nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam" năm 2003.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về các chức năng xã hội của
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền
Chương 2: Thực trạng việc thực hiện các chức năng xã hội của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả của việc thực
hiện các chức năng xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền


12
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÁC CHỨC NĂNG XÃ HỘI
CỦA NHÀ NƢỚC CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN

1.1. NHẬN THỨC VỀ CÁC CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƢỚC
CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm chức năng xã hội của nhà nƣớc
Chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động cơ bản,
quan trọng nhất của nhà nước, phù hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ
quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. "Chức năng nhà nước
được xác định từ bản chất, vai trò của nhà nước trong đời sống xã hội và
ngược lại, các chức năng nhà nước lại là sự biểu hiện cụ thể của bản chất và
vai trò của nhà nước" [60, tr. 40]. Theo một định nghĩa tương tự, chức năng
của nhà nước là hoạt động nhà nước cơ bản nhất, mang tính thường xuyên,
liên tục, ổn định tương đối, xuất phát từ bản chất, cơ sở kinh tế - xã hội,
nhiệm vụ chiến lược, mục tiêu cơ bản của nhà nước và có ý nghĩa quyết định
tới sự tồn tại và phát triển của nhà nước. "Chức năng của nhà nước do bản
chất, cơ sở kinh tế - xã hội, nhiệm vụ chiến lược và mục tiêu lâu dài của nhà
nước quyết định" [23, tr. 106].
Là sản phẩm tất yếu của lịch sử, nhà nước đã trải qua quá trình không
ngừng phát triển và trong quá trình đó vai trò, chức năng của nó cũng được
biến đổi không ngừng từ chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ
tư bản và chế độ xã hội chủ nghĩa. Ngay từ khi xuất hiện, nhà nước thể hiện

vai trò là công cụ bảo vệ giai cấp và quản lý những công việc chung của xã
hội tức là thực hiện hai chức năng: chức năng thống trị giai cấp và chức năng
xã hội.

13
Chức năng giai cấp là công cụ chuyên chính của một giai cấp nhất
định. Tất cả các nhà nước đều sử dụng các công cụ, biện pháp để bảo vệ sự
thống trị của giai cấp mình. Còn chức năng xã hội của nhà nước là việc Nhà
nước phải quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, đồng thời
phải chăm lo một số công việc chung của toàn xã hội. Nhà nước phải hoạt
động để đáp ứng những nhu cầu chung của dân cư dưới sự quản lý của nhà
nước đó. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng trước đây, để giữ nhà nước
trong tay mình, giai cấp thống trị nào cũng phải nhân danh xã hội mà quản lý
những công việc chung, duy trì trật tự xã hội. Việc giải quyết tốt những vấn
đề chung của xã hội sẽ tạo điều kiện để duy trì xã hội theo quan điểm và lợi
ích của giai cấp cầm quyền. Do đó, việc thực hiện chức năng xã hội theo ý chí
của giai cấp cầm quyền là phương thức, là điều kiện để nhà nước đó thực hiện
vai trò thống trị giai cấp của nó.
Chức năng xã hội thể hiện thuộc tính xã hội và vai trò của
nhà nước trong việc tác động vào lĩnh vực xã hội để đảm bảo sự ổn
định và phát triển xã hội, giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân với
cộng đồng xã hội bằng các hoạt động như đề ra các chính sách, pháp
luật và tạo các điều kiện để giải quyết các vấn đề về văn hóa, giáo dục,
y tế, lao động và việc làm, xóa đói giảm nghèo, bảo hiểm, cứu trợ xã
hội, phòng chống thiên tai, phòng chống tệ nạn xã hội [60, tr. 41].
Trong quá trình lịch sử nhân loại, đối với các nhà nước chiếm hữu nô
lệ, nhà nước phong kiến và nhà nước tư bản chủ nghĩa ở giai đoạn trước đây
chức năng trấn áp, thống trị giai cấp được rất được coi trọng, chiếm vị trí cao
hơn so với chức năng xã hội. Còn ở các nhà nước trong thời đại ngày nay thì
chức năng xã hội lại được chú trọng hơn theo quan điểm đề cao "xã hội công

dân", nhà nước chuyển từ hình thức "cai trị" sang nhà nước "phục vụ". Các
nhà nước trong giai đoạn hiện nay đều chú trọng thực hiện chức năng xã hội
thông qua việc bảo đảm công bằng xã hội, coi trọng phát triển văn hóa, giáo
dục, y tế, khoa học kỹ thuật, bảo trợ xã hội, giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo,

14
thực hiện tốt các chính sách an sinh, phòng chống các rủi ro đe dọa đời sống
cộng đồng, cung cấp các dịch vụ công cho xã hội
Nhà nước không thể tồn tại nếu nó chỉ phục vụ lợi ích của giai cấp
thống trị mà không thực hiện các nhiệm vụ, chức năng xã hội của nó. Ngoài
việc củng cố, bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị thì nhà nước còn phải
đảm bảo an ninh, trật tự trong xã hội và quyền lợi của các giai cấp khác trong
một chừng mực nhất định. Lịch sử đã chứng minh rằng:
Mọi nhà nước sau này luôn mang trong bản thân mình hai
chức năng cố hữu là: công quản (cộng đồng, xã hội) và chuyên
chính (đẳng cấp, giai cấp). Theo đó, điều tiết xã hội là một trong
những chức năng không thể thiếu của nhà nước; và để thực hiện
được chức năng này, hoạt động của nhà nước phải thể hiện được lợi
ích chung của toàn xã hội. Bất kỳ nhà nước cụ thể nào trong lịch sử
mà không làm được như vậy đều bị diệt vong bởi các cuộc cách
mạng xã hội [62, tr. 74].
Vai trò xã hội của nhà nước thể hiện thông qua việc nhà nước giải
quyết những công việc mang tính xã hội, phục vụ lợi ích chung của xã hội.
Trong xã hội ngày nay, vai trò xã hội của nhà nước ngày càng được nâng cao.
Nhà nước xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường, phòng
chống các dịch bệnh, thiên tai Do vậy, nhà nước không chỉ là công cụ thống
trị giai cấp mà còn là phương thức tổ chức và đảm bảo các lợi ích chung của
xã hội.
Khi nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và sự xuất hiện của chính phủ điện
tử như hiện nay, cùng với yêu cầu của người dân ngày càng cao đối với nhà

nước thì việc thực hiện chức năng xã hội cũng phải phát triển góp phần đáp
ứng yêu cầu của xã hội, nhằm cung cấp các dịch vụ công một cách nhanh
chóng, với mục tiêu đặt người dân vào trung tâm của mọi hoạt động thì vai trò
của nhà nước ngày càng to lớn hơn. Như vậy, có thể thấy không chỉ mối quan

15
hệ giữa chức năng giai cấp và chức năng xã hội của nhà nước có sự biến đổi,
mà ngay cả nội dung của việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước cũng
có sự biến đổi to lớn. Trong giai đoạn hiện nay việc thực hiện tốt chức năng
xã hội chính là cơ sở để bảo đảm thực hiện chức năng giai cấp của nhà nước;
bởi như Ph.Ăng-ghen đã chỉ ra: "chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị
chính trị và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào mà nó còn thực
hiện chức năng xã hội đó của nó" [27, tr. 253].
Đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa, mặc dù chú trọng đến chức năng
giai cấp, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn coi chức năng xã
hội là thuộc tính cơ bản và quan trọng nhất của nó. Về nội dung này,
V.I.Lênin cho rằng, chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực đối với
bọn bóc lột mà mặt cơ bản của nó là không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân
dân cùng với việc tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới - xã hội xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. V.I.Lênin viết: "Lần đầu tiên chuyên chính vô
sản, tức là thời kỳ quá độ tiến tới chủ nghĩa cộng sản, sẽ đem lại một chế độ
dân chủ cho nhân dân, cho số đông, đi đôi với sự trấn áp tất yếu đối với số ít,
đối với bọn bóc lột" [25, tr. 10]. Như vậy, có thể nói, chuyên chính vô sản,
theo quan điểm mácxít, tự nó đã thể hiện sự thống nhất giữa chức năng giai
cấp và chức năng xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, là nhà nước có chính quyền của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân nên trong nhà nước này, nền dân chủ phải bao quát
toàn diện mọi lĩnh vực đời sống xã hội và lấy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế
làm nền tảng. Chủ nghĩa xã hội sẽ không thể tồn tại và phát triển được nếu
thiếu dân chủ và không ngừng mở rộng dân chủ.

Xã hội chủ nghĩa là xã hội không còn các giai cấp đối kháng, nhà
nước xã hội chủ nghĩa vẫn thực hiện chức năng giai cấp và chức năng xã hội,
nhưng cách thức thực hiện và mục đích thực hiện hai chức năng đó đã có sự
thay đổi cơ bản. Cũng như các nhà nước khác, nhà nước xã hội chủ nghĩa

16
muốn bảo vệ được chức năng giai cấp của mình, phải làm tốt chức năng xã
hội, trong đó vấn đề mở rộng dân chủ cho nhân dân, sử dụng sức mạnh, lực
lượng của mình để bảo vệ và bảo đảm tuyệt đối các quyền tự do dân chủ cho
nhân dân là vấn đề cốt yếu. Thực hiện tốt chức năng xã hội là cơ sở, là điều
kiện để nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo và giữ vững địa vị thống trị xã hội
về của mình đồng thời có đầy đủ sức mạnh để trấn áp sự phản kháng của các
giai cấp bóc lột và các thế lực thù địch.
Chức năng giai cấp và chức năng xã hội luôn có mối quan hệ biện
chứng, cái nọ làm tiền đề và là cơ sở cho cái kia. Tuy nhiên, trong điều kiện
giai cấp vô sản đã giành được chính quyền và thiết lập được nhà nước của
mình, thì chức năng giai cấp là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài; còn chức
năng xã hội là nhiệm vụ cơ bản, quyết định trực tiếp sự thắng lợi hay thất bại
của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc thực hiện chức năng xã hội
của nhà nước xã hội chủ nghĩa có sự khác biệt với nhà nước tư bản chủ nghĩa,
nhà nước tư bản thực hiện chức năng xã hội là phương tiện để củng cố, đảm
bảo sự thống trị chính trị và kinh tế của thiểu số trong xã hội là giai cấp tư sản
đối với đa số là giai cấp công nhân và những người lao động khác. Ngược lại,
việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa được xác định
là mục đích để nhà nước ấy đảm bảo sự thống trị chính trị của mình nhằm
đảm bảo quyền dân chủ cho đại đa số những người lao động.
1.1.2. Khái niệm chức năng xã hội của Nhà nƣớc Việt Nam
Chức năng của Nhà nước Việt Nam, thuộc phạm trù chức năng của
nhà nước xã hội chủ nghĩa, là những phương diện hoạt động cơ bản của nhà
nước, thể hiện bản chất giai cấp, ý nghĩa xã hội, mục đích và nhiệm vụ của

nhà nước trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chức năng của nhà
nước xã hội chủ nghĩa "còn chịu sự chi phối của thực tế khách quan của tình
hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng giai đoạn phát triển cụ thể
của mỗi nước" [60, tr. 371].

17
Chức năng xã hội thông thường được hiểu là một loại chức năng nhà
nước thuộc nhóm chức năng đối nội.
Chức năng xã hội phản ánh thuộc tính xã hội của nhà nước
xã hội chủ nghĩa, phù hợp với mục tiêu của nhà nước xã hội chủ
nghĩa là bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững; nâng cao
chất lượng cuộc sống, thực hiện công bằng xã hội, giải quyết hài hòa
các lợi ích giữa nhà nước, cá nhân và cộng đồng. Nội dung chủ yếu
của chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa bao gồm: nhà
nước đề ra các chính sách, pháp luật và tạo các điều kiện để giải
quyết các vấn đề về văn hóa, giáo dục, y tế, lao động và việc làm,
xóa đói giảm nghèo, bảo hiểm, cứu trợ xã hội, bảo vệ môi trường,
phòng chống thiên tai, phòng chống tệ nạn xã hội [60, tr. 373].
Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, chức năng xã
hội có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của đất nước, hướng
tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chức năng xã hội của Nhà nước ta trong quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền là cơ sở để xác định đánh giá uy tín cũng như bản chất của Nhà
nước. Một nhà nước được nhân dân ủng hộ là một Nhà nước đứng trên lập
trường của người dân, đảm bảo cho nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc,
dân chủ, văn minh. Để làm được điều đó không đơn giản, đặc biệt là trong
điều kiện kinh tế thị trường đang phát triển như hiện nay những hệ lụy từ nó
là vô cùng lớn. Vấn đề thực hiện tốt chức năng xã hội của nhà nước trong quá
trình xây dựng nhà nước pháp quyền đòi hỏi nhà nước phải thực hiện xuất sắc
có hiệu quả vai trò điều tiết của mình. Trong hệ thống các chức năng của nhà

nước thì chức năng xã hội là hình thức phản ánh rõ nét nhất bản chất của nhà
nước. Đối với Nhà nước ta đang trên con đường đi lên xây dựng Nhà nước xã
hội chủ nghĩa với mục tiêu phải khẳng định được tính ưu việt của chế độ, con
người của chế độ xã hội chủ nghĩa phải được công bằng, dân chủ, đời sống

18
phải văn minh, kinh tế phát triển. Nhà nước phải chăm lo cho nhân dân một
cách toàn diện trên mọi lĩnh vực. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn cố gắng xây
dựng nền kinh tế phát triển mạnh, chính trị ổn định, nền văn hóa phong phú
đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao trình độ dân trí, an ninh quốc phòng, đảm
bảo sự an toàn cho nhân dân yên tâm lao động, học tập và cống hiến xây dựng
đất nước. Đây chính là thước đo sự uy tín của Nhà nước, uy tín của chế độ xã
hội chủ nghĩa, bản chất đúng với ý nghĩa của nó là của dân, do dân và vì dân,
các chính sách được đặt ra đều dựa trên sự tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của
nhân dân.
Thông qua chức năng xã hội của Nhà nước góp phần củng cố chế độ
dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đây là một nội dung quan
trọng trong yêu cầu của Nhà nước pháp quyền và có vai trò vô cùng quan
trọng bởi chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ do nhân dân làm chủ, tất cả là của
dân, do dân và vì dân. Dân chủ là bản chất của Nhà nước ta, thực hiện dân
chủ là thực chất, là mục tiêu, động lực của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống
chính trị nói riêng, của công cuộc đổi mới nói chung. Đây là vấn đề có ý
nghĩa sống còn đối với chế độ của chúng ta, đã được quy định tại Điều 3,
Hiến pháp năm 1992: "Nhà nước đảm bảo và không ngừng phát huy quyền
làm chủ về mọi mặt của nhân dân" [51]. Ở bất kỳ chế độ nào thì nhân dân
cũng là một trong những nhân tố, xây dựng đất nước của mỗi quốc gia, vì vậy
chúng ta không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân không phải ở
một lĩnh vực mà là ở mọi lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, văn hóa xã
hội…Nhà nước và nhân dân cùng chung tay xây dựng phát triển đất nước
giàu mạnh. Trong các nghị quyết của Đảng đều nêu rõ mục tiêu phấn đấu là

xây dựng nước ta dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh nhưng
trong thực tế thì sao? Dân chủ là thước đo chất lượng cuộc sống văn minh xã
hội và năng lực quản lý của một nhà nước. Dân chủ không phải tự nhiên mà
có. Lịch sử đất nước ta đã chứng minh, muốn có một xã hội thực sự dân chủ,
thực sự văn minh, lành mạnh phải đấu tranh, thậm chí phải hy sinh xương

19
máu. Dân chủ và cuộc đấu tranh vì dân chủ, hòa bình, độc lập dân tộc, hợp tác
và phát triển là một xu thế lớn của thời đại. Cuộc đấu tranh vì dân chủ, phát
triển mặc dù còn gặp nhiều khó khăn và thử thách, nhưng đã và đang có
những bước tiến mới. Ở nước ta hiện nay, dân chủ trở thành mục tiêu và động
lực của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền. Vấn đề dân chủ ngày càng
có tầm quan trọng to lớn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Những thành tựu của quá
trình dân chủ hóa đang góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Đồng thời, toàn Đảng, toàn dân ta cũng đang nỗ lực vượt qua những
khó khăn, thách thức trong quá trình dân chủ hóa, văn minh hóa một xã hội
đang phấn đấu vươn tới hiện đại hóa. Nhận thức về vấn đề dân chủ đã khó
khăn và phức tạp, nhưng thực hiện dân chủ trong đời sống còn khó khăn và
phức tạp hơn nhiều. Những vấn đề về mục tiêu, nguyên tắc, động lực, nội
dung, hình thức, phương pháp và bước đi của dân chủ luôn là những vấn đề
khó khăn và mới mẻ, đòi hỏi phải giải quyết một cách đồng bộ, cần sự hợp
lực rộng lớn để làm chuyển biến, thay đổi từ tư duy, nếp nghĩ, thói quen, lối
sống đến những hành động thực thi. Dân chủ càng được thực thi sâu rộng thì
càng tạo nguồn sức mạnh vô biên để xây dựng vững chắc thể chế chính trị do
Đảng lãnh đạo, cũng là thiết thực nâng cao khả năng lãnh đạo, sức chiến đấu,
uy tín và độ bền vững của một Đảng cầm quyền.
Chức năng xã hội là cơ sở quan trọng để Nhà nước giải quyết những
vấn đề xã hội trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền. Vấn đề xã hội
Đảng ta quan tâm bao gồm các lĩnh vực liên quan đến sự phát triển của con

người và xã hội như dân số, nguồn nhân lực, lao động và việc làm, giáo dục
và y tế, đạo đức và văn hóa, những đảm bảo về an ninh và an toàn xã hội của
đời sống cá nhân và của cả cộng đồng. Các vấn đề xã hội có vai trò quan
trọng trong đời sống xã hội do vị trí của con người trong xã hội quy định. Nhà
nước pháp quyền mà nhân dân ta xây dựng là nhà nước mà con người được
đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế văn hóa xã hội và lấy việc

20
nâng cao chất lượng cuộc sống con người làm mục tiêu phục vụ. Nhà nước ta
luôn nhấn mạnh phát triển kinh tế phải đi đôi với giải quyết tốt các vấn đề xã
hội, việc phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại càng phải đòi
hỏi giải quyết tốt những vấn đề xã hội bởi lẽ phát triển kinh tế phải là sự phát
triển bền vững dựa trên những yếu tố chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội và môi
trường… Bền vững về mặt xã hội là đảm bảo vừa đạt được tăng trưởng kinh
tế vừa giữ được ổn định xã hội, không có những xáo trộn, xung đột, nổi loạn
làm ảnh hưởng tới việc huy động các nguồn lực cho sự phát triển. Trong phát
triển bền vững thì yếu tố kinh tế và yếu tố xã hội hòa vào nhau, mục tiêu phát
triển kinh tế phải bao gồm cả mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội như vấn
đề xóa đói giảm nghèo, việc làm… thỏa mãn nhu cầu cơ bản của nhân dân,
đảm bảo công bằng xã hội. Giải quyết những vấn đề xã hội là một trong
những vấn đề "nóng" mà Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Hiện nay các tệ nạn
xã hội ngày càng gia tăng như ma túy, mại dâm, buôn lậu, tham nhũng,… hơn
thế nữa là các thế lực thù địch liên tục tìm cách chống phá Đảng và Nhà nước
ta, chúng đẩy mạnh tuyên truyền phản động lợi dụng một số đồng bào dân tộc
thiểu số trình độ dân còn trí thấp. Bởi vậy phải làm tốt chức năng xã hội Nhà
nước mới có thể khắc phục được những tồn tại bên cạnh những tiềm lực vốn
có, không phải chỉ cơ quan nhà nước mà chính chúng ta mỗi công dân phải
tham gia giải quyết những vấn đề chung của xã hội. Khi Chính phủ ban hành
hay thay đổi những chính sách của Nhà nước việc đầu tiên là thăm dò ý kiến
của nhân dân, khi có được sự đồng thuận thì đảm bảo chính sách đó sẽ nhanh

chóng đi vào cuộc sống và khi nó có lợi cho họ thì họ tự giác thực hiện. Xã
hội ổn định và người dân cũng thấy được quyền và lợi ích của họ được đảm
bảo nâng cao niềm tin vào Đảng vào Nhà nước. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng và Nhà nước chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trong việc giải
quyết vấn đề xã hội.
Trong Nhà nước pháp quyền, vai trò của con người được đề cao nên
Nhà nước đặc biệt quan tâm đối với bộ phận dân cư đặc biệt. Nhà nước đã có

21
nhiều chính sách với các đối tượng chính sách, người có công với cách mạng,
những người nghèo, người cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi,
khuyết tật… Mặt khác, Nhà nước ta còn tích cực củng cố nâng cao trình độ
dân trí đối với đồng bào dân tộc thiểu số, dạy cho họ biết làm kinh tế góp
phần cải thiện bộ mặt dân cư ở miền núi. Đô thị hiện nay cũng có những bước
phát triển đáng kể. Ngoài ra, các hộ nghèo còn được giúp đỡ từ các nguồn vốn
huy động của quỹ "Vì người nghèo" do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam phát động và từ các doanh nghiệp do Nhà nước ta vận động….
Chính quyền, đoàn thể cấp xã huy động nguồn lực để khai thác vật liệu tại
chỗ như cát, đá, sỏi, gỗ để giảm giá thành xây dựng; cũng như để giúp cho
những hộ nghèo có hoàn cảnh khó khăn như già cả, neo đơn… Chính sách
này đã nhanh chóng được nhân dân phấn khởi đón nhận, chính quyền các cấp
khẩn trương triển khai và cộng đồng xã hội chung tay góp sức vì người nghèo
để qua đó giúp họ ổn định đời sống, góp phần xóa đói, giảm nghèo vì mục
tiêu bảo đảm an sinh xã hội.
Chức năng xã hội là một trọng những nhân tố mang lại sự ổn định về
mặt xã hội trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền và là tiền đề cho
việc thực hiện các chức năng nhà nước khác. Có thể thấy rằng để một quốc
gia thực hiện tốt chức năng chuyên chính giai cấp và chức năng kinh tế thì
không thể không có sự ổn định về mặt xã hội. Quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền với phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trình độ của

lực lượng sản xuất còn thấp, song song với đó lại phải vừa thực hiện nhiệm vụ
giữ vững an ninh, quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội, vừa phải bảo đảm ổn
định và cải thiện không ngừng đời sống nhân dân về mọi mặt thì chức năng xã
hội được đặt ra ngày càng nặng nề. Nếu một xã hội không ổn định thì bất cứ
Nhà nước nào cũng không thể ổn định được chế độ chính trị, những mâu
thuẫn gay gắt sẽ từ đó mà này sinh kéo theo đó là nhiều những hệ lụy có thể
xảy ra như "nội chiến" ngay chính trong bộ máy cai trị. Vì vậy, việc đảm bảo
thực hiện tốt chức năng xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng. Đảng và Nhà

22
nước ta đã tăng cường đầu tư cho quốc phòng và nâng cao tiềm lực quân sự
bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh biên giới, vùng trời và biển, đảo của Tổ
quốc. Tăng cường sức mạnh quốc phòng, xử lý thắng lợi mọi tình huống; thực
hiện tốt vai trò nòng cốt bảo vệ vững chắc toàn vẹn lãnh thổ, góp phần giữ
vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước và môi trường hòa bình.
Từ những lý do nêu trên, có thể khẳng định chức năng xã hội là vô
cùng quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, vai trò của chức năng xã hội của Nhà
nước được khẳng định không chỉ đối với cá nhân mà còn có ý nghĩa tầm quan
trọng đối với cả hệ thống tồn tại và phát triển của một Nhà nước, một chế độ
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
1.1.3. Vai trò, trách nhiệm của nhà nƣớc Việt Nam trong việc giải
quyết các vấn đề xã hội
"Nhà nước giữ vị trí trung tâm, vai trò đặc biệt quan trọng trong đời
sống chính trị, kinh tế, xã hội. Vai trò nhà nước ngày càng gia tăng trong xã
hội hiện đại trong việc giải quyết các vấn đề xã hội mang tính quốc gia và
quốc tế" [23, tr. 87].
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế nhà nước không chỉ
đơn thuần đặt ra các quy tắc ứng xử bắt buộc cá nhân, tổ chức phải tuân theo,
mà nhà nước phải chuyển mình theo hướng từ cai trị áp đặt sang phục vụ

người dân. Có thể nói, Nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn coi con người là mục
tiêu và động lực của mọi chính sách phát triển kinh tế - xã hội và luôn nhất
quán trong việc đảm bảo và thúc đẩy các quyền con người thông qua việc
thực hiện chức năng xã hội. Do đó, chức năng xã hội thể hiện sâu đậm tính
chất nhân đạo của nhà nước xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu tất cả từ con người,
cho con người, vì con người và bảo đảm công bằng xã hội.
Với mục đích và ý nghĩa đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trò
quan trọng trong việc chăm lo lợi ích của người và gia đình có công với nước;

23
người và gia đình có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn; bảo vệ sức khỏe của nhân
dân; phát triển quỹ nhà ở để bán hoặc cho nhân dân thuê; điều chỉnh sự phát
triển dân số; xóa đói nghèo; bảo vệ, cải thiện và nâng cao chất lượng môi
trường; phòng, chống tệ nạn xã hội; phát triển thể dục, thể thao, du lịch; điều
tiết sự hưởng thụ xã hội; thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội, cứu trợ xã
hội; phát triển dịch vụ xã hội; hoàn thiện chính sách, pháp luật về xã hội và
kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật ấy; xử lý mọi hành vi vi phạm
chính sách, pháp luật về xã hội một cách kịp thời, nghiêm minh, nhanh chóng,
hợp lý, hợp tình; cải cách bộ máy nhà nước theo hướng phục vụ xã hội; hội
nhập và hợp tác quốc tế về y tế, môi trường, thể dục, thể thao, du lịch,
Với trách nhiệm quan trong của nhà nước trong việc đảm bảo thực
hiện tốt chức năng xã hội, đáp ứng tối đa nhu cầu lợi ích của tất cả các tầng
lớp nhân dân. Nhà nước cần có trách nhiệm ban hành các chính sách xã hội
đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của xã hội và tổ chức có hiệu quả
các hoạt động thực thi chính sách xã hội.
1.1.4. Các nhóm chức năng xã hội của nhà nƣớc Việt Nam
- Bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
Các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là một trong những thành
quả vĩ đại nhất mà chế độ chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa đem lại cho
người dân. Bởi thế, khi các quyền và lợi ích đó bị xâm hại thì nhà nước phải

bảo vệ. Mục đích của chức năng này là nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất
để cho cá nhân phát triển an toàn, toàn diện, hài hòa và mọi tổ chức được hoạt
động bình thường phù hợp với lợi ích chung của xã hội; củng cố, bảo vệ, tăng
cường mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc. Muốn vậy, nhà nước hoàn thiện chính sách, pháp luật về
quyền con người, quyền công dân, quyền của các tổ chức và kiểm tra, giám
sát việc thực hiện pháp luật đó; xử lý mọi hành vi xâm hại quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; mở rộng các quyền và lợi

24
ích chính đáng của công dân phù hợp với trình độ phát triển của kinh tế, chính
trị, dân chủ, văn hóa, xã hội ở trong nước và quốc tế; giáo dục tư tưởng tất cả
từ con người, cho con người, vì con người trong bộ máy nhà nước và toàn xã
hội; hội nhập và hợp tác quốc tế về bảo vệ quyền con người.
- Tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ
Nhà nước thực hiện chức năng này nhằm xây dựng nền văn hóa mới,
con người mới, lối sống mới; đào tạo, bồi dưỡng nhân tài và đội ngũ người
lao động có trình độ khoa học - kỹ thuật cao; xây dựng nền khoa học, công
nghệ hiện đại phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Nội dung chức năng này gồm: bảo tồn, phát triển nền văn hóa dân tộc,
hiện đại, nhân văn; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; thống nhất quản lý
văn hóa, nghiêm cấm truyền bá tư tưởng và văn hóa phản động, đồi trụy; bài
trừ mê tín, hủ tục; thống nhất quản lý hệ thống giáo dục về mục tiêu, chương
trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ
thống văn bằng; phát triển cân đối hệ thống giáo dục quốc dân; phát triển các
hình thức quốc lập, dân lập và các hình thức giáo dục khác; xây dựng và thực
hiện chính sách khoa học, công nghệ quốc gia, xây dựng nền khoa học, công
nghệ tiên tiến; phát triển đồng bộ các ngành khoa học, đổi mới công nghệ,
phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý; hội nhập và hợp tác
quốc tế về văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ.

- Giữ vững an ninh chính trị; trật tự an toàn xã hội; phòng, chống tệ
nạn xã hội
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội là điều kiện quan trọng để
nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ đất nước, mở rộng quan hệ và
hợp tác quốc tế. Mục đích thực hiện chức năng này là nhằm bảo đảm cho chế
độ chính trị - xã hội và trật tự an toàn xã hội luôn luôn được giữ vững, mọi âm
mưu và hành động phá hoại của kẻ thù đều bị đập tan, người dân thực sự được
sống và sinh hoạt trong một môi trường chính trị - xã hội ổn định, an toàn,

25
trong sạch, lành mạnh, tích cực. Nhằm mục đích đó, nhà nước xây dựng và
phát huy thế trận an ninh nhân dân vững chắc mà nòng cốt là các lực lượng vũ
trang nhân dân, nâng cao sức mạnh toàn diện cho các lực lượng vũ trang nhân
dân và các cơ quan chuyên trách bảo vệ pháp luật, giáo dục ý thức cảnh giác
cách mạng cho toàn dân và các lực lượng vũ trang nhân dân, hội nhập và hợp
tác quốc tế về chống khủng bố, bạo loạn và lật đổ.
- Bảo vệ các nhóm người dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em, người
khuyết tật, người già, người nghèo, người dân tộc thiểu số, các nhóm đối
tượng dễ bị tổn thương khác…)
Nhà nước thực hiện chức năng này nhằm bảo vệ nhóm người dễ bị tổn
thương, bằng các hình thức quan tâm và thực hiện các biện pháp bảo đảm
quyền, xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với nhóm người này. Nhà nước
xây dựng ban hành pháp luật về bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề
nghiệp, nâng cao học vấn cho phụ nữ; Bảo đảm quyền học tập, vui chơi và
phát triển của trẻ em; Quyền được chăm sóc sức khỏe của người tàn tật và nạn
nhân chất độc màu da cam, của người cao tuổi…; xây dựng chính sách hỗ trợ
đồng bào dân tộc thiểu số định canh, định cư đồng thời nâng cao, mở rộng
mạng lưới giáo dục và y tế cho đồng bào dân tộc thiểu số nhằm thực hiện
công bằng xã hội giữa các dân tộc, miền núi và miền xuôi
- Bảo vệ môi trường

Bảo vệ môi trường là vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay, đối
với chức năng này Nhà nước có nhiệm vụ xây dựng chính sách, chiến lược, kế
hoạch quốc gia về bảo vệ môi trường; ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi
trường; chỉ đạo, tổ chức đánh giá hiện trạng môi trường cả nước phục vụ cho
việc đề ra các chủ trương, giải pháp về bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm môi
trường; tham gia tổ chức quốc tế, ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về
môi trường; chủ trì các hoạt động hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường với
các nước, các tổ chức quốc tế;…

×