VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ HẠNH
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Mã số: 62.22.80.05
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI 2013
2
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TSKH. Lương Đình Hải
Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Ngọc Long
Phản biện 2: PGS.TS. Đỗ Thị Hòa Hới
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Linh Khiếu
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại
Học viện Khoa học xã hội Việt Nam
vào hồi……… ….giờ…………phút, ngày………tháng……….năm………………
Có thể tìm luận án tại thư viện Học Viện KHXH, thư viện Quốc gia.
3
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Hoàng Thị Hạnh (2007), “Quan niệm Mác-Lênin về quyền lực chính trị của nhà nước”,
Thông tin chính trị học, số 4 (35).
2. Hoàng Thị Hạnh (2008), “Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử triết học
trước Mác”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 11 (311).
3. Hoàng Thị Hạnh (2009), “Tôn giáo trong đời sống và vấn đề xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 1.
4. Hoàng Thị Hạnh (2009), “Góp phần tìm hiểu mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật”,
Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 7.
5. Hoàng Thị Hạnh (2009), “Quan hệ giữa đạo đức và pháp luật - Vận dụng vấn đề này
trong việc xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Kỷ yếu hội thảo
khoa học, Đạo đức xã hội ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội.
6. Hoàng Thị Hạnh (2010), “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế”, Tạp chí Triết học, số 9 (232).
7. Hoàng Thị Hạnh (2011), “Mối quan hệ giữa pháp luật với các bộ phận cấu thành khác
của văn hóa”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, số tháng 3.
8. Hoàng Thị Hạnh (2011), “Về đặc thù văn hóa trong việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN ở Việt Nam”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 12 (347).
9. Hoàng Thị Hạnh (2011), “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong
phương diện đặc thù kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Triết học, số 12 (247).
10. Hoàng Thị Hạnh (2012), “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong điều kiện một nền chính trị nhất nguyên”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông,
số tháng 9 - 2012.
11. Hoàng Thị Hạnh (2013), “Industrialization and Modernization with the Construstion
of the Lawgoverned Socialist State of Vietnam”, Vietnam social sciences, 1- 2013 (153).
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ trương đúng đắn mang tầm chiến lược của
Đảng Cộng Sản đưa Việt Nam tiến tới một nước công nghiệp hiện đại. Nhưng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng làm phát sinh nhiều hệ lụy phức tạp như: Đền bù, giải tỏa
đất đai, tạo công ăn việc làm cho đa số nông dân bị thu hồi đất, tàn phá, ô nhiễm môi
trường, nhịp sống, lối sống công nghiệp, giao thông đô thị, kỷ luật lao động, quản lý hộ
khẩu, đầu tư hợp tác làm ăn với nước ngoài, v.v Thực tế đó, đòi hỏi hệ thống pháp luật
Việt Nam phải nhanh chóng hoàn thiện nhằm bảo vệ và ngăn chặn những vấn đề phát sinh
trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế cũng như giao lưu văn hoá, chuyển giao khoa
học - công nghệ, dân chủ hóa toàn diện đời sống xã hội hiện nay, đòi hỏi các quốc gia phải
có những quy định pháp lý chung, những chế tài pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ
quốc tế. Điều đó đòi hỏi Việt Nam phải cấp thiết xây dựng bộ máy hoàn thiện, trong sạch,
vững mạnh, hoạt động có hiệu quả theo hướng lấy pháp luật làm phương tiện quản lý kinh
tế - xã hội và điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Xây dựng nhà nước pháp quyền là quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp phải có sự
chuẩn bị cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Hơn nữa, Việt Nam tiến hành xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh chưa có tiền lệ, nên sự việc càng trở
nên khó khăn hơn, đòi hỏi các nhà lý luận phải nghiên cứu đời sống thực tế, phân tích
phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội. Qua đó, vạch ra lộ trình, tìm bước đi thích
hợp, xây dựng những giải pháp nhằm tư vấn cho Đảng và nhà nước từng bước hoàn thiện
lý luận, đẩy nhanh tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vì những lý trên, chúng tôi chọn Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm đề tài luận án.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là phân tích, làm rõ việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên các
phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội, trên cơ sở đó, nêu những giải pháp chủ
5
yếu, phù hợp, nhằm góp phần đẩy nhanh tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
` - Để đạt mục đích trên, luận án giải quyết các nhiệm vụ cơ bản:
+ Làm rõ nội hàm các khái niệm nhà nước pháp quyền, Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và một số vấn đề lý luận cơ bản về
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
+ Phân tích những nét đặc thù trên các phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá - xã
hội của Việt Nam trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
+ Đề xuất những giải pháp chủ yếu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trên cơ sở những nét đặc thù của các phương diện đã nêu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một số nét đặc thù cơ
bản trên các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của Việt Nam.
- Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu ở một số nét đặc thù cơ bản trên phương
diện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của Việt Nam trong việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
- Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận án vận dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tuân thủ các nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn, nguyên tắc xem xét khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể,
phương pháp trừu tượng hóa, khái quát hóa, phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh.
5. Cái mới của luận án
6
Luận án chỉ ra những nét đặc thù cơ bản trên các phương diện kinh tế, chính trị, văn
hoá - xã hội của Việt Nam trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và ảnh hưởng của các nét đặc
thù đó đến việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ấy. Luận án đồng thời đề xuất những giải
pháp chủ yếu, phù hợp với những nét đặc thù nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu và giảng dạy các
vấn đề nhà nước, nhà nước pháp quyền; tài liệu phục vụ các cán bộ, công chức quản lý
nhà nước và pháp luật.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án
gồm 4 chương, 12 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Vấn đề nhà nước pháp quyền, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
thu hút sự quan tâm của các nhà lý luận Việt Nam, đặc biệt trong những năm gần đây. Các
tài liệu về vấn đề này xuất hiện ngày càng nhiều với số lượng lớn. Qua nội dung các công
trình, chúng tôi tổng quan thành những vấn đề:
1.1. NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM VÀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA
Mảng nghiên cứu vấn đề theo hướng nêu tính tất yếu, phân tích tiền đề lý luận, cơ
sở thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Đề tài KX 04.01:
“Cơ sở lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân” do GS.VS. Nguyễn Duy Quý làm chủ nhiệm đã khái quát lịch sử hình thành và phát
triển của học thuyết nhà nước pháp quyền; nêu những khái niệm, những đặc trưng cơ bản
và chức năng, lý giải các yếu tố quy định và chi phối quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Các tác giả, Lê Minh Quân trong cuốn Xây dựng Nhà
nước pháp quyền đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
7
ở Việt Nam hiện nay, (Nxb. Chính trị quốc gia, 2003), Trần Hậu Thành trong Cơ sở lý
luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, (Nxb. Lý luận chính trị, 2005), đã trình bày tổng quát cơ sở lý luận, điều
kiện thực tiễn, tính cấp thiết xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mảng nghiên cứu lý luận chung về nhà nước pháp quyền và xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Công trình do Nguyễn Văn Yểu, Lê Hữu Nghĩa
(đồng chủ biên), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới, (Nxb. Chính trị quốc gia, 2006) đã đề xuất những phương án về việc đổi mới: 1)
Hoạt động lập pháp của Quốc hội; 2) Hoạt động hành pháp của Chính phủ; 3) Tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp; 4) Mối quan hệ giữa bộ ba cơ quan nhà nước. Các
công trình của: Đào Trí Úc, Phạm Hữu Nghị, Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, (Nxb.Từ
điển bách khoa, 2009), đã nêu vấn đề lý luận và thực tiễn mà Việt Nam cần phải giải quyết
trên từng bước đường xây dựng nhà nước pháp quyền.
Lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đề cập trong các bài
viết: 1) Phạm Văn Đức, Về một số nét đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam, (Tạp chí Triết học, 9 - 2005); 2) Phạm Thế Lực, Ý nghĩa của lý thuyết phân
quyền trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, (Tạp chí Nghiên cứu
pháp luật, số 7- 2008); 3) Trần Ngọc Liêu, Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà
nước với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (Luận án tiến sĩ
triết học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia, 2009).
Tiêu biểu cho những công trình nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng Sản Việt Nam trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là đề tài KX.04.03, Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản do Tạ Xuân Đại làm chủ nhiệm
cùng sự tham gia của các chuyên viên Ban tổ chức Trung Ương. Nhóm đề tài đã nêu lên
cơ sở lý luận về sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong luận án tiến sĩ, Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
8
chủ nghĩa trong những năm 1996 - 2006 (Học viện Hành chính - Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh), Lâm Quốc Tuấn tổng kết những thành tựu, nêu lên những hạn chế và bước đầu xác
định một số kinh nghiệm của Đảng trong hơn 10 năm lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Phạm Ngọc Quang và Ngô Thị Kim Ngân trong cuốn Phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, (Nxb. Chính trị quốc gia, 2007) đã nêu quan
điểm nâng cao vai trò của Đảng trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền phải đi
đôi với việc chống chủ nghĩa quan liêu, tệ nạn tham nhũng.
Mảng nghiên cứu về đề tài công nghiệp hóa, hiện đại hóa phản ánh trong một số bài
của Lương Việt Hải: 1) Hiện đại hóa tăng tốc - con đường của các nước đang phát triển
(Tạp chí Triết học, số 6, 1998), 2) Hiện đại hóa xã hội: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
(Nxb. Khoa học xã hội, 2001). Theo tác giả, Việt Nam muốn phát triển thì không còn sự
lựa chọn nào khác là phải đi theo con đường hiện đại hóa. Hai tác giả Đỗ Hoài Nam, Trần
Đình Thiên, trong cuốn Mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, 2009) đã phân tích vấn đề từ góc độ hiệu
quả kinh tế của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Liên quan đến vấn đề điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có thể tìm thấy trong luận án tiến sĩ triết học của Đào Ngọc Tuấn: Tính phổ biến
và điều kiện trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam (Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2002). Luận án đã nêu lên một số tính phổ biến trong việc
xây dựng nhà nước pháp quyền như: 1) Tính tối cao của pháp luật. 2) Cơ chế phân công
quyền lực trong sự chế ước lẫn nhau. 3) Sự hiện diện của nền dân chủ. 4) Tôn trọng nhân
quyền. 5) Thực hiện tận tâm các cam kết quốc tế.
Mai Thị Thanh trong Luận án tiến sĩ: “Vấn đề hình thức của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay” (Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, 2011) đã phân tích một số nhân tố quy định điều kiện của việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam như: 1) Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được xây dựng trên cơ sở thực hiện sự chuyển biến dần từ nhà nước dân chủ
9
nhân dân lên. 2) Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nhưng số lượng và
chất lượng còn bất cập. 3) Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa tồn tại trên cơ sở
kinh tế của chính nó. 4) Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
trình độ dân trí còn bất cập. 5) Xây dựng Nhà nước pháp quyền trong chế độ một Đảng.
Nghiên cứu về những vấn đề đặt ra của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam chúng ta có thể tìm thấy trong các tài liệu: 1) Đoàn Trọng Truyến,
Cải cách hành chính và công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, (Nxb. Tư pháp 2006). 2) Đào Trí Úc, Những luận cứ khoa học của việc hoàn thiện
bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11, 2001). 3) Nguyễn Văn Yểu,
Hoàn thiện hệ thống pháp luật để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, (Tạp chí Cộng sản, số 10, 2004). 4) Trần Hậu Thành, Một số vấn đề lý luận về quan
hệ nhà nước, xã hội và công dân trong nhà nước pháp quyền, (Triết học, số 6, 2005).
1.3. NHỮNG GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM
Nhóm tác giả đề tài KX 04.08 Cải cách tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân đã làm sâu sắc các yêu cầu, đòi hỏi xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa đối với việc cải cách tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương.
Các công trình của: 1) Đoàn Trọng Truyến, Cải cách hành chính và công cuộc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (Nxb. Tư pháp 2006). 2) Nguyễn
Đăng Dung (chủ biên), Quốc hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại học
Quốc gia, 2007). 3) Đào Trí Úc (chủ biên), Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (Nxb. Tư pháp, 2007). 4) Trần Ngọc Đường, Ngô
Đức Mạnh, Mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội, Chính phủ trong
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, (Nxb. Chính trị quốc gia, 2008) đã nêu
những điểm bất cập trong bộ máy Nhà nước Việt Nam, đề xuất những giải pháp cải cách
và đổi mới bộ máy nhà nước mà trọng tâm là Quốc hội phù hợp với xã hội hiện đại.
Giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền đi đôi với việc mở rộng và phát huy dân
chủ đã được đề cập tới trong bài viết của Lương Đình Hải, Xây dựng Nhà nước pháp
10
quyền và vấn đề dân chủ hoá ở Việt Nam hiện nay (Tạp chí Triết học 1- 2006).
Tiếp thu thành quả các công trình trên, tác giả luận án phân tích việc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên những nét đặc thù cơ bản của phương diện kinh tế,
chính trị, văn hoá-xã hội Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chương 2
MỘT SỐ NỘI DUNG LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
2.1. NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CỦA NÓ
2.1.1. Một số quan niệm về nhà nước pháp quyền
Nhóm tác giả công trình KX.04.01 cho rằng, “nhà nước pháp quyền không phải là
một kiểu nhà nước. Đó là một nhà nước vận hành trong môi trường pháp luật, coi pháp
luật là tối thượng, nhà nước pháp quyền được nhìn nhận như một phương thức thực hiện
quyền lực nhà nước, một cách thức tổ chức nền dân chủ”. GS.TSKH. Đào Trí Úc viết:
“Nhà nước pháp quyền là một khái niệm có thể được hiểu ở hai mức độ, với tính cách là
học thuyết, là tư tưởng và với tính cách là thực tiễn tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước,
thực thi dân chủ”. GS.TS. Đoàn Trọng Truyến cho rằng: “Nhà nước pháp quyền là một
nhà nước dân chủ, tự đặt mình dưới pháp luật, được xây dựng, tổ chức và hoạt động theo
pháp luật và quản lý bằng pháp luật ”. Theo PGS. TSKH Lương Đình Hải, “nhà nước
pháp quyền là nhà nước trong đó nguyên tắc pháp luật giữ địa vị tối cao được tuân thủ
tuyệt đối. Pháp luật được xây dựng trên nền tảng các quyền thiêng liêng của con người,
nhằm bảo vệ các quyền đó và luôn giữ địa vị tối cao trong toàn bộ đời sống xã hội”.
Theo chúng tôi, quan điểm của nhóm tác giả công trình KX.04.01 về nhà nước pháp
quyền là phù hợp nhất. Do vậy, chúng tôi lấy đây làm khái niệm công cụ để nghiên cứu
các chương tiếp theo của luận án.
2.1.2. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền
Tổng quan quan điểm của các nhà lý luận Việt Nam, chúng tôi khái quát đặc trưng
nhà nước pháp quyền về một số điểm cơ bản như sau:
11
Trong nhà nước pháp quyền pháp luật giữ vị trí tối thượng. Trong nhà nước pháp
quyền, pháp luật do nhà nước ban hành giữ vị trí và có hiệu lực thống trị không chỉ đối với
xã hội mà đối với cả bộ máy nhà nước. Pháp luật là công cụ chế ước, kiểm tra, giám sát tổ
chức hoạt động nhà nước. Pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhà nước,
là công cụ duy trì tồn tại và phát triển nhà nước, pháp luật đồng thời là công cụ bảo vệ nhà
nước, trấn áp những lực lượng đi ngược lại lợi ích nhà nước. Trong nhà nước pháp quyền,
nhà nước khó có thể tồn tại trên hoặc ngoài pháp luật.
Nhà nước pháp quyền bảo đảm nguyên tắc tam quyền phân lập. Các nhà lý luận tư
sản cho rằng, tiêu chí cơ bản để phân định nhà nước pháp quyền với các hình thức nhà
nước khác là phải có sự phân định chức năng, quyền hạn giữa cơ quan lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Bất cứ cơ quan nào trong đó cũng không được thâu tóm quyền lực, lấn át,
làm thay chức năng quyền hạn của cơ quan khác. Mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nước
phải thực hiện thẩm quyền của mình theo những điều khoản do luật định. Sự phân chia
quyền lực đảm bảo cho các cơ quan đó có thể kiểm soát lẫn nhau, đảm bảo sự độc lập của
mỗi cơ quan trong quá trình thực hiện chức năng đặc thù của mình.
Nhà nước pháp quyền tôn trọng, bảo vệ quyền công dân và nhân quyền. Trong nhà
nước pháp quyền, các quyền cơ bản của con người thực sự thuộc về nhân dân. Nhà nước
pháp quyền đảm bảo cho mọi công dân đều có quyền bình đẳng và tự do trước pháp luật.
Các quyền và lợi ích hợp pháp, danh dự, nhân phẩm của công dân được nhà nước cam kết
tôn trọng và bảo vệ bằng pháp luật. Công dân có quyền kiểm tra, giám sát các hoạt động
của nhà nước và quyền khiếu tố, khiếu nại các cơ quan và quan chức, công chức nhà nước
nếu thấy họ có những dấu hiệu vi phạm pháp luật. Công dân được hưởng các quyền và
phải có nghĩa vụ pháp lý đối với nhà nước.
Nhà nước pháp quyền do các chính đảng lãnh đạo. Các học giả tư sản cho rằng, nhà
nước pháp quyền chỉ có thể tồn tại trong xã hội dựa trên nền chính trị đa nguyên. Sự gắn
bó giữa chế độ đa nguyên chính trị với nhà nước pháp quyền là ở chỗ: Thứ nhất, các đảng
phái cạnh tranh về khả năng lãnh đạo đất nước và tâm lý am hiểu nhân dân. Thứ hai, trong
quá trình lập pháp, giữa các đảng có sự phản biện. Trong quá trình hành pháp và tư pháp,
các đảng giám sát lẫn nhau, làm cho pháp luật nhà nước tránh những sai lầm. Thứ ba,
12
đảng cầm quyền phải luôn đổi mới mình, làm cho bầu không khí chính trị đất nước năng
động, luôn có những cải cách pháp luật theo chiều hướng phù hợp với đời sống.
2.2. NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ NHỮNG ĐẶC
TRƯNG CỦA NÓ
2.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam
(1991) nêu nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nội
dung: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là
nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng
pháp luật”.
Từ Văn kiện lịch sử này, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã chủ nghĩa ở
Việt Nam trở thành chủ trương có tầm chiến lược, bao trùm mọi hoạt động của Đảng, nhà
nước và các nhà nghiên cứu lý luận Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng Sản
Việt Nam lần thứ IX (2001) xác định, “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật”. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), Đảng
Cộng Sản Việt Nam khẳng định: “Đẩy mạnh công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa trên các mặt”. Đại hội lần thứ XI của Đảng Cộng Sản Việt Nam (2011)
đã bổ sung Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong
đó nhấn mạnh: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất”.
2.2.2. Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc quan điểm của các nhà lý luận, chúng tôi cho rằng,
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang đầy đủ những đặc trưng chung
của nhà nước pháp quyền như thượng tôn pháp luật, tôn trọng quyền công dân và nhân
quyền, xây dựng trên nền tảng xã hội dân sự và kinh tế thị trường, bảo đảm thực hiện các
cam kết quốc tế. Những đặc trưng này hiện diện trong mọi nhà nước pháp quyền, không
13
phân biệt thể chế chính trị. Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa nên nhà
nước pháp quyền Việt Nam có những đặc trưng riêng. Chúng tôi khái quát những đặc
trưng riêng đó về ba điểm cơ bản sau:
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh
đạo: Kể từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn giữ vai trò lãnh đạo đất
nước. Trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện
nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam phải phát huy được vai trò và trách nhiệm của mình. Tuy
nhiên, để không chồng chéo trách nhiệm, rơi vào tình trạng song trùng quyền lực giữa
Đảng và nhà nước thì vấn đề phân định sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của
nhà nước là cần thiết.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân: Hơn nửa thế kỷ nay, Nhà nước Việt Nam đã ban hành bốn bản Hiến pháp.
Cả bốn bản Hiến pháp đều khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là
chủ thể quyền lực nhà nước. Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Nghĩa là, toàn bộ tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất của đất nước đều thuộc quyền sở
hữu của nhân dân, nhân dân có quyền bầu ra bộ máy nhà nước và cũng có quyền bãi miễn
nó nếu bộ máy đó hoạt động thiếu trách nhiệm với nhân dân. Mọi chủ trương chính sách
và pháp luật của nhà nước phải được xây dựng vì mục đích của nhân dân, triển khai và
thực hiện theo nguyên tắc “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyền lực nhà nước thống nhất
có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp: Đây là quan
điểm có tính nguyên tắc đóng vai trò phương pháp luận chỉ đạo việc thiết kế mô hình tổ
chức Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo quan điểm này, sự thống
nhất quyền lực là nền tảng, sự phân công và phối hợp quyền lực là phương thức để đạt
được sự thống nhất quyền lực nhà nước. Sự phân công quyền lực xuất hiện như một nhu
cầu và khả năng hiện thực trong các nhà nước dân chủ, nơi nhân dân thực hiện quyền lực
nhà nước, và quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân. Ở góc độ này, có thể khẳng định
rằng, nhà nước pháp quyền không đồng nghĩa với tam quyền phân lập.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định rằng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
14
nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; thượng tôn pháp
luật; do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo; quyền lực nhà nước nhất trên cơ sở phân
công và phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp
2.3. CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
2.3.1. Tính tất yếu của việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi cơ bản toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, quản lý kinh tế - xã hội từ một nền sản xuất chủ yếu dựa trên
lao động thủ công là chính sang một nền sản xuất dựa trên lao động kết hợp cùng với
phương tiện, phương pháp công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại để tạo ra năng suất lao
động cao. Ở Việt Nam, việc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa là một chủ trương đúng đắn mang tính sáng tạo có tầm chiến lược của Đảng
Cộng Sản Việt Nam. Chủ trương này phù hợp với hoàn cảnh lịch sử Việt Nam cũng như
xu thế phát triển chung của thời đại.
Để bù đắp những gì còn thiếu hụt do bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng cơ
sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra chủ trương
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là mệnh
lệnh cấp thiết của cuộc sống hiện đại, là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ tiến lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhiệm vụ này cần phải được thực hiện song song với những
nhiệm vụ khác như xây dựng nhà nước pháp quyền, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường.
Trong đó, xây dựng nhà nước pháp quyền là then chốt để đảm bảo đẩy nhanh tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nước Việt Nam theo hướng hiện đại.
2.3.2. Tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Kinh nghiệm các nước tư bản phát triển đã trải qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa
cho thấy, con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải qua nhiều khúc quanh, đôi lúc,
đôi nơi phải trả giá khá đắt về kinh tế - xã hội như: Các vấn đề đền bù, giải tỏa đất đai, ô
nhiễm môi trường, khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, xóa bỏ thói quen, tâm
lý tiểu nông. Vấn đề chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành nghề, hướng nghiệp và sắp
15
xếp công ăn việc làm cho bộ phận lao động trẻ đang ngày càng gia tăng. Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn làm phát sinh vấn đề giao thông, nhà ở, dịch vụ xã
hội và sinh hoạt văn hóa tinh thần trong không gian đô thị. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đã, đang và sẽ thu hút nhiều người nước ngoài đến làm ăn, sinh sống và một bộ phận Việt
kiều về nước đầu tư, làm phát sinh nhiều vấn đề mới như nhập quốc tịch cho người nước
ngoài và người Việt đã có quốc tịch nước ngoài muốn làm công dân Việt Nam.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ tác động về phương diện kinh tế - xã hội
mà hơn thế, tác động lớn về phương diện chính trị, nhất là tác động đến các yếu tố thuộc
kiến trúc thượng tầng, trong đó nhà nước chiếm vị trí quan trọng.
Trong xã hội nông nghiệp cổ truyền, cơ cấu, chức năng bộ máy nhà nước hoạt động
theo hướng quản lý nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Khi chuyển sang một xã hội công
nghiệp, bộ máy nhà nước phải được điều chỉnh một bước lớn về mọi phương diện. Cấu
trúc bộ máy nhà nước cần được điều chỉnh phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới, đáp
ứng kịp thời nhu cầu của một nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Quốc hội trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải thay đổi căn bản lối nghĩ, cách làm luật.
Đại biểu quốc hội cần am hiểu sâu sắc về đời sống công nghiệp hiện đại để lập pháp và
điều chỉnh luật pháp cho thật phù hợp với thực tế. Các thành viên chính phủ phải thành
thạo các phương tiện quản lý theo hướng công nghệ hiện đại, nhanh nhạy trong việc nắm
bắt và xử lý thông tin.
Các yếu tố khác thuộc kiến trúc thượng tầng như Đảng Cộng Sản, Giáo hội Việt
Nam, các viện nghiên cứu, các tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội và các hiệp hội nghề
nghiệp cũng chịu ảnh hưởng lớn của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tất cả những vấn đề trên đã và đang đặt ra cho Nhà nước Việt Nam những câu hỏi
cần phải được trả lời dứt khoát, cụ thể. Những vấn đề đó cần phải được pháp luật quy định
một cách rõ ràng, nghĩa là phải được quy định bằng những văn bản pháp luật nhà nước
trong các bộ luật, đạo luật.
Chương 3
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRÊN MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN
16
TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
3.1. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRÊN
PHƯƠNG DIỆN KINH TẾ
3.1.1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong quá
trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việc chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không những là một cuộc cách mạng về
phương diện kinh tế mà còn là một cuộc cách mạng về phương diện pháp luật. Cuộc cách
mạng này có ý nghĩa làm thay đổi tư duy pháp lý và văn hoá pháp luật của xã hội Việt
Nam, đòi hỏi pháp luật nhà nước thay đổi về cả hình thức và nội dung, cả số lượng và chất
lượng, cả cách lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa
tập trung, quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bước
chuyển tư duy pháp lý từ hình thức bao cấp sang hình thức tư duy pháp lý thị trường.
Nước ta mới bắt đầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trình
độ phân công lao động xã hội còn thấp, cơ cấu xã hội mới đang hình thành nhưng chưa
định hình hẳn, cần có sự điều chỉnh pháp lý. Điều này vẫn còn ảnh hưởng nhiều và lâu dài
đến quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3.1.2. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dựa trên chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu có sự kết hợp với các hình thức sở hữu
khác
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang đụng chạm đến vấn đề sở hữu, mà nhạy cảm
nhất là sở hữu đất đai, vì đất đai là đối tượng chính để trên đó xây dựng mặt bằng cho các
khu công nghiệp và dịch vụ phục vụ công nghiệp. Tình hình này đòi hỏi hệ thống văn bản
pháp lý về sở hữu nói chung, sở hữu đất đai nói riêng phải theo kịp với tiến trình biến đổi
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội. Hiện tượng các dự án treo hiện nay
đang làm lãng phí một diện tích lớn đất nông nghiệp, vậy cần một hệ thống văn bản pháp
lý để các dự án có trách nhiệm đi vào hoạt động ngay sau khi nông dân đã giao đất cho
chủ đầu tư.
17
Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam là mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng
trước pháp luật, mọi hình thức sở hữu đều được phát huy lợi thế, song từ lý luận đến thực
tiễn là cả một vấn đề nan giải. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp nhà nước thường được
ưu tiên hơn trong việc xin cấp đất để di dời hay mở rộng mặt bằng, được ưu đãi hơn trong
việc vay vốn ngân hàng, thông thoáng hơn trong cấp phép giao dịch thương mại còn các
doanh nghiệp ngoài nhà nước thì khó khăn hơn. Tình hình giao đất, giao rừng trong hoạt
động của các nông - lâm trường quốc doanh cũng đang có khá nhiều vấn đề cần phải có
những văn bản pháp lý quy định cụ thể về quyền sở hữu, sử dụng đất rừng, về thời hạn sử
dụng, khai thác để nhân dân đầu tư và bảo vệ rừng có hiệu quả hơn, gắn trách nhiệm với
quyền lợi, nếu không sẽ lãng phí loại tài nguyên này.
Tóm lại, về phương diện kinh tế, những vấn đề đặt ra hiện nay đối với việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là: hiện đại hóa 1) Cần phải phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. 2) Quá trình chuyển đổi nền kinh tế quy định quá trình chuyển đổi
pháp lý, làm sao đó để có một nền pháp lý thị trường. 3) Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đụng chạm đến vấn đề sở hữu, mà nhạy cảm nhất là sở hữu đất đai, đòi hỏi hệ thống văn
bản pháp lý về sở hữu nói chung, sở hữu đất đai nói riêng phải theo kịp với tiến trình biến
đổi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội.
Để giải quyết những vấn đề đặt ra, cần có những giải pháp phù hợp và đồng bộ, về
vấn đề này, chúng tôi sẽ giải quyết ở chương 4 của luận án.
3.2. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRÊN
PHƯƠNG DIỆN CHÍNH TRỊ
3.2.1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong một
nền chính trị nhất nguyên do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo
Kể từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn là lực lượng duy nhất
lãnh đạo xã hội và nhà nước. Sự lãnh đạo chính trị duy nhất ấy của Đảng Cộng Sản Việt
Nam đã tạo được các điều kiện thuận lợi để nhà nước thực hiện ý chí, quyền lực của nhân
dân, bảo đảm cho các chủ trương đúng đắn của Đảng được các cơ quan nhà nước, các tổ
chức chính trị - xã hội thực hiện đầy đủ. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối
với đời sống xã hội và Nhà nước Việt Nam không mâu thuẫn với tổ chức và hoạt động của
18
nhà nước pháp quyền nói chung mà còn là điều kiện quyết định quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất tạo
đồng thuận xã hội, tăng cường hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội,
các cộng đồng dân cư và các thành phần dân tộc.
Tuy nhiên, vấn đề cơ bản ở đây là việc xây dựng nhà nước pháp quyền trong điều
kiện một Đảng cầm quyền có gì khác biệt so với trong điều kiện đa nguyên, đa đảng. Theo
quan điểm của chúng tôi, để xây dựng thành công nhà nước pháp quyền trong điều kiện
một Đảng cầm quyền thì vấn đề có ý nghĩa quan trọng đầu tiên là năng lực và phương
thức lãnh đạo của Đảng - về vấn đề này chúng tôi sẽ bàn sâu ở phần giải pháp.
3.2.2. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không dựa
theo nguyên tắc tam quyền phân lập
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không tuân thủ nguyên
tắc phân chia quyền lực về mặt lý thuyết là một sáng tạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam vì
trong lịch sử nhân loại việc làm này chưa có tiền lệ. Song về mặt thực tiễn thì việc làm này
cũng gây khó khăn không nhỏ cho tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền. Thực tế hoạt
động của bộ máy Nhà nước Việt Nam trong gần bảy thập kỷ qua cho thấy, nguyên tắc thống
nhất quyền lực có những ưu thế như tạo nên sự đồng thuận, nhất trí cao khi bàn luận mọi
vấn đề, nhất là những vấn đề có liên quan đến bỏ phiếu. Nhưng nếu tuyệt đối hóa nguyên
tắc này thì cũng dễ dẫn đến nguy cơ nhà nước có những quyết sách không phù hợp với thực
tế. Bởi vì, do thiếu sự tranh luận và hoạt động độc lập giữa ba cơ quan nhà nước mà có một
số quyết sách, một số dự án có tầm cỡ quốc gia được thông qua mà tính hiệu quả chưa cao.
Tình hình này đòi hỏi các nhà lý luận Việt Nam cần có những tổng kết thực tiễn, những
nghiên cứu lý luận thật sự kỹ càng và rút ra những bài học thành công cũng như những
điểm còn hạn chế trong quá trình thực hiện nguyên tắc này.
3.2.3. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sự
chuyển đổi hình thức nhà nước
Từ khi thành lập đến nay, Nhà nước Việt Nam đã bốn lần thay đổi hình thức, từ nhà
nước dân chủ nhân dân lên nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước chuyên chính vô sản, nhà
nước của dân, do dân, vì dân và nay là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc thay
19
đổi hình thức nhà nước thực chất là điều chỉnh về vai trò, chức năng và nhiệm vụ của nhà
nước. Nếu trước đây nhấn mạnh và tuyệt đối hóa vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
thì hiện nay đề cao nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm
chủ”. Nếu trước đây quản lý kinh tế, xã hội bằng nghị quyết, chủ trương của Đảng thì nay
vai trò của pháp luật được đề cao.
Nhà nước của dân, do dân, vì dân là hình thức nhà nước đề cao vai trò làm chủ của
nhân dân trên mọi phương diện đời sống xã hội, từ kinh tế đến chính trị và pháp luật.
Nhân dân không chỉ là người thực thi, thừa hành pháp luật nhà nước mà còn là chủ thể xây
dựng và bảo vệ pháp luật.
Tóm lại, những đặc thù trong phương diện chính trị nêu trên đặt ra một số vấn đề
cấp thiết là: 1) Làm gì và làm như thế nào để trong điều kiện một nền chính trị nhất
nguyên, tức một đảng duy nhất cầm quyền mà vẫn thực thi được dân chủ? 2) Cần nâng
cao chất lượng cán bộ công chức và tổ chức bộ máy nhà nước như thế nào để trong điều
kiện không phân chia quyền lực giữa ba cơ quan nhà nước mà vẫn đảm bảo được tính
khách quan xây dựng và bảo vệ pháp luật, của quá trình điều tra, xét xử các vụ án?
Những vấn đề đặt ra này có tính cấp thiết, đòi cần có sự nghiên cứu chuyên sâu về
mặt lý luận và là cơ sở để tác giả luận án đề xuất các giải pháp cơ bản về phương diện
chính trị nêu trong chương 4 của luận án.
3.3. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRÊN
PHƯƠNG DIỆN VĂN HÓA - XÃ HỘI
3.3.1. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong điều
kiện truyền thống văn hoá làng xã
Các nhà nghiên cứu văn hoá Việt Nam cho rằng, đối với người Việt làng là một
đơn vị tụ cư của những người nông dân đã tồn tại từ lâu đời có tính gắn bó, bền vững, ổn
định về nhiều mặt. Làng là đơn vị hay khu vực tự quản, văn hoá làng là dòng văn hoá chủ
đạo trong đời sống tinh thần người Việt. Điều kiện tự trị đó của làng xã Việt Nam đã làm
phát sinh lối sống trọng lệ hơn luật hay theo cách nói dân gian phép vua thua lệ làng. Lệ
làng thực ra là cách nói dân gian, nếu diễn đạt bằng ngôn từ khoa học gọi là Hương ước
(đối với dân tộc Kinh) và Luật tục (đối với các dân tộc ít người). Hương ước và Luật tục là
20
sản phẩm thành văn do cộng đồng dân cư Làng, Bản thoả thuận lập ra, chứa đựng một hệ
thống các quy ước phong phú, đa dạng, đóng vai trò cương lĩnh tinh thần của làng và là
công cụ điều chỉnh các mối quan hệ trong nội bộ cộng đồng dân cư ở nông thôn.
Hương ước và Luật tục có một vai trò khá quan trọng trong việc góp phần điều
chỉnh các quan hệ xã hội, quan hệ dòng tộc và quan hệ gia đình, giảm bớt sự quá tải cho
pháp luật nhà nước. Các nhà soạn luật không cần phải can thiệp sâu vào đời sống cộng
đồng với những quy phạm pháp luật quá chi tiết, quá cụ thể. Hương ước và Luật tục là cơ
sở cho việc soạn thảo pháp luật. Hương ước, Luật tục đồng thời cũng là một trong những
lực cản không nhỏ trên bước đường xây dựng nhà nước pháp quyền, có thể làm phức tạp
hóa và làm chậm lại tiến trình này. Nếu tuyệt đối hóa vai trò điều chỉnh và đánh giá quan
hệ xã hội của các văn bản truyền thống làng xã thì pháp luật nhà nước có nguy cơ bị đẩy
xuống hàng thứ yếu.
Ngoài sự tác động của Hương ước và Luật tục, văn hóa làng xã còn là tiền đề thực
tiễn tạo nên trong tâm thức người Việt lối sống coi trọng tình nghĩa và thái độ cả nể trong
cách giải quyết công việc hành chính nhà nước. Ảnh hưởng của thái độ cả nể trong đời
sống pháp luật là gây nên những khó khăn nhất định cho quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền.
3.3.2. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong điều
kiện dân trí chưa cao, chưa trải qua dân chủ tư sản
Trình độ mặt bằng dân trí chưa cao và nội dung giáo dục bất cập so với cuộc sống
và thời đại như hiện nay ở Việt Nam đang có những ảnh hưởng tiêu cực đến việc xây
dựng nhà nước pháp quyền, vì dân trí là cơ sở nền tảng cho nhận thức và hành động, là hạt
nhân của nhận thức và văn hóa ứng xử với tự nhiên và cộng đồng.
Dân trí có một ý nghĩa rất lớn trong việc lập pháp, khi mọi người am hiểu cuộc
sống nói chung, pháp luật nói riêng thì họ sẽ có điều kiện và cơ hội đóng góp, bổ sung
những nội dung của pháp luật nhà nước. Dân trí là điều kiện thực thi pháp luật, bởi vì
trong một xã hội có dân trí cao, người dân sẽ am hiểu pháp luật sâu rộng, từ đó hình thành
một văn hoá pháp luật cao, mà văn hóa pháp luật như đã nói chính là nền tảng cho việc
thực thi pháp luật tốt. Dân trí có tầm quan trọng trong việc bảo vệ và giám sát pháp luật.
21
Khi trình độ dân trí của xã hội cao, người dân sẽ có nhu cầu tự thân tìm đến pháp luật, đọc
và am hiểu về quyền và nghĩa vụ công dân của mình. Do vậy, họ sẽ tự bảo vệ mình về
phương diện pháp luật cũng như tham gia bảo vệ pháp luật của nhà nước.
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm thực sự vấn đề
dân chủ. Tuy nhiên, trong thực tế đời sống Việt Nam hiện nay, đôi lúc, đôi nơi nhiều hiện
tượng vi phạm dân chủ vẫn còn xảy ra làm ảnh hưởng lớn đến uy tín của nhà nước xã hội
chủ nghĩa và cản trở tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Cụ thể là: Trong việc lập pháp, tuy các dự thảo luật đã được đăng tải trên các
phương tiện thông tin đại chúng để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, nhưng sự đóng góp
này chưa mang tính hiệu quả cao. Trong quá trình hành pháp, đôi lúc, đôi nơi còn thiếu
dân chủ đã gây nên tình trạng triển khai và áp dụng pháp luật không thấu tình đạt lý, gây
sự bức xúc trong dư luận xã hội. Trong lĩnh vực tư pháp, nếu thiếu dân chủ trong quá trình
điều tra xét hỏi sẽ gây nên những hậu quả xã hội khôn lường như quy oan, xử ép.
3.3.3. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi xã hội
dân sự chưa định hình và phát triển
Theo quan niệm hiện đại, một xã hội muốn đạt đến mục đích giàu có, công bằng,
dân chủ, văn minh khi nó được xây dựng theo mô hình tam giác với ba đỉnh là kinh tế thị
trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự. Như vậy, xã hội dân sự và nhà nước pháp
quyền là những yếu tố gắn bó với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Do nhiều nguyên nhân
khác nhau nên từ trước đến nay Việt Nam chưa quan tâm đến việc thành lập xã hội dân sự.
Xã hội dân sự có khả năng trong việc chống lại xu hướng độc quyền, tham nhũng và
quan liêu trong bộ máy nhà nước. Việc còn thiếu một xã hội dân sự đã có ảnh hưởng
không nhỏ đến công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cản trở và làm chậm tiến trình này.
Tóm lại, về phương diện văn hóa - xã hội, ở Việt Nam hiện nay đang có một số vấn
đề cấp thiết đặt ra là: 1) Làm gì và làm như thế nào để phát huy đến mức tối đa mặt tích
cực và hạn chế đến mức tối thiểu mặt tiêu cực của văn hóa làng xã đối với việc xây dựng
nhà nước pháp quyền? 2) Phải có những giải pháp thích hợp để xây dựng nhà nước pháp
quyền thành công trong điều kiện dân trí chưa cao, chưa trải qua dân chủ tư sản, khi xã hội
22
dân sự còn chưa định hình và phát triển? 3) Xây dựng xã hội dân sự cũng là một nan đề
cần giải quyết.
Để giải quyết những vấn đề đặt ra cần có một hệ thống giải pháp đồng bộ, làm cơ sở,
tiền đề và bổ sung cho nhau, nội dung những giải pháp này sẽ được đề xuất trong chương
tiếp theo của luận án.
Chương 4
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
4.1. NHỮNG GIẢI PHÁP KINH TẾ
4.1.1. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trước hết phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, nhất là
nguồn lực con người. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền đề
quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn
định kinh tế vĩ mô. Muốn vậy, trước hết cần đổi mới việc xây dựng và thực thi luật pháp
bảo đảm cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định
đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ. Đặc biệt, coi trọng phát triển đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao
động lành nghề và cán bộ khoa học - công nghệ đầu đàn.
Thứ hai, phải tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần, coi các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Trong các thành phần kinh tế thì kinh tế nhà nước phải là thành
phần quan trọng và là công cụ định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Doanh
nghiệp nhà nước phải đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu
gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước, giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường. Nhà nước phải tạo môi trường
23
pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển;
bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật
chất của nhà nước để định hướng phát triển kinh tế - xã hội, khai thác hợp lý các nguồn
lực, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, thanh tra hoạt động
kinh doanh theo quy định pháp luật, chống các hiện tượng buôn lậu, gian lận thương mại.
Thứ tư, xây dựng và củng cố công cụ quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật xã hội chủ nghĩa. Do vậy, hiệu lực quản lý kinh tế của
nhà nước phụ thuộc cơ bản vào công cụ quản lý kinh tế của nó, tức là hệ thống pháp luật
và bộ máy hành pháp, tư pháp phải thực sự được chuẩn hóa.
4.1.2. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, về
phương diện pháp lý, một trong những yêu cầu đặt ra hiện nay là tiếp tục đổi mới và hoàn
thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính để
phát huy tối đa mọi nguồn lực, tạo điều kiện cho sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần
kinh tế. Nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật theo những định hướng cơ bản sau:
Một là, phấn đấu xây dựng pháp luật kinh tế đầy đủ về số lượng, có chiều sâu và nâng cao
về chất lượng. Hai là, cùng với nhiệm vụ xây dựng mới các đạo luật, bổ sung và hoàn
thiện các bộ luật kinh tế hiện có, cần tiến hành pháp điển hoá để tiến tới trong tất cả các
lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội đều có các bộ luật lớn điều chỉnh. Ba là, tiến hành
xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật kinh tế, bảo đảm tính thống nhất,
rõ ràng, minh bạch và tính khả thi.
4. 2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHÍNH TRỊ
4.2.1. Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng phải đi đôi với những việc làm
cụ thể như: 1) Nâng cao phẩm chất, lối sống, đề cao tính gương mẫu đảng viên trong quá
trình thực thi pháp luật. 2) Nâng cao tầm trí tuệ, văn hoá pháp luật và năng lực tư duy pháp lý
của Đảng nói chung, mỗi đảng viên nói riêng. 3) Không ngừng nâng cao phẩm chất và lý tưởng
24
cách mạng của đảng viên, mỗi đảng viên phải không ngừng học hỏi tri thức khoa học,
nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, đặc biệt là văn hoá pháp luật.
Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền là làm sao đó để không chồng chéo trách nhiệm, quyền hạn giữa Đảng và
nhà nước. Đảng chỉ lãnh đạo ở tầm vĩ mô mà không phải làm thay những việc cụ thể của
nhà nước. Và điều có ý nghĩa quyết định là đổi mới việc tuyển chọn nhân sự trong bộ máy
nhà nước. Những đảng viên được lựa chọn đảm nhận các chức vụ quan trong trong bộ máy
nhà nước phải thực sự là những người có tài, có đức.
4.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật hiệu quả,
hoàn thiện lý luận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Để hoàn thiện hệ thống pháp luật cần đổi mới cơ cấu và phương thức hoạt động của
cơ quan lập pháp như xoá bỏ tính chất hoạt động nghiệp dư của Quốc hội, tăng số lượng
đại biểu quốc hội chuyên trách, giảm đại biểu kiêm nhiệm. Nâng cao hiệu quả và phương
pháp làm việc của Quốc hội trong các kỳ họp, phiên họp. Tạo điều kiện cho đại biểu quốc
hội tiếp xúc trực tiếp với nhân dân thường xuyên.
Có một hệ thống pháp luật hoàn thiện mới chỉ là điều kiện cần, muốn pháp luật đi
vào đời sống thì cần tổ chức thực hiện pháp luật có hiệu quả. Muốn tổ chức thực hiện
pháp luật có hiệu quả, trước hết phấn đấu xây dựng một chính phủ trong sạch, vững mạnh,
có cơ cấu gọn nhẹ, đa năng, hoạt động hiệu lực và hiệu quả. Để làm được việc này, cần
phải: Bảo đảm một nền hành chính vững mạnh về nghiệp vụ, trong sạch về phẩm chất, có
lập trường và bản lĩnh chính trị; Khắc phục bệnh quan liêu, cửa quyền; Hiện thực hóa ý
tưởng về một chính phủ điện tử. Việc thực thi pháp luật liên quan chặt chẽ với công tác tư
pháp, vì tư pháp là khâu cuối cùng bảo đảm tính hiệu lực và nghiêm minh của pháp luật.
Tổ chức thực hiện pháp luật là khâu có ý nghĩa quyết định tính hiệu lực và hiệu quả
của pháp luật, nhất là trong điều kiện đặc thù Việt Nam không chấp nhận tam quyền phân
lập nên không có sự kiểm soát lẫn nhau giữa ba cơ quan quyền lực nhà nước.
Trong xu thế đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, việc hoàn thiện một
hệ thống luật pháp và tổ chức thực hiện pháp luật hiệu quả là việc làm có ý nghĩa thực tiễn
quan trọng, là tiền đề cơ bản để đi tới một xã hội sống và làm việc theo pháp luật.
25
4.2.3. Phát huy vai trò của các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội
Để phát huy quyền dân chủ của nhân dân, tham gia tích cực vào công cuộc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội cần được đổi mới theo hướng: Đoàn kết tất cả mọi người thuộc các giai
cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam trong nước và Việt kiều lấy
lợi ích cơ bản “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” làm nền tảng
phấn đấu chung; Mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc bằng các hình thức đa dạng hoá các
hiệp hội, thích hợp với từng thành phần xã hội, từng địa phương, từng lứa tuổi và giới
tính; Tăng cường hoạt động xã hội, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và chính
kiến cho các thành viên của hội, chuyển hoá dần các tổ chức và hội thành những thành
phần cơ bản của xã hội công dân; Tham gia tích cực phong trào giám sát xã hội, tích cực
hoạt động trong lĩnh vực phản biện xã hội.
4.3. NHỮNG GIẢI PHÁP VĂN HÓA - XÃ HỘI
4.3.1. Tăng cường tuyên truyền, giải thích và giáo dục pháp luật
Việt Nam là một quốc gia có truyền thống văn hóa làng xã, Hương ước và Luật tục
có một vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi con người, đó là nguyên nhân của
tình trạng “phép vua thua lệ làng”. Để khắc phục tình trạng này, thời gian tới chúng ta
phải tăng cường việc giải thích pháp luật và giáo dục pháp luật.
Tuyên truyền, giải thích pháp luật sẽ giúp quần chúng nhân dân hiểu chính xác và
nhất quán các quy định pháp luật, qua đó nâng cao nhận thức và tăng cường ý thức pháp
luật, giúp họ tuân thủ, thi hành, và giảm thiểu các hành vi phạm pháp.
Giáo dục pháp luật muốn hiệu quả thì phải hướng tới những vấn đề thực tiễn cấp
thiết chứ không phải giáo dục lý luận pháp luật một cách chung chung. Nhiệm vụ cấp thiết
hiện nay là phải giáo dục pháp luật, với các biện pháp giáo dục pháp luật học đường, giáo
dục pháp luật qua các phương tiện thông tin đại chúng, giáo dục pháp luật qua các cuộc thi
tìm hiểu pháp luật.
4.3.2. Nâng cao dân trí, phát huy dân chủ và phản biện xã hội
Muốn có một mặt bằng dân trí cao, không còn cách nào khác hơn là đẩy mạnh sự
nghiệp giáo dục, tạo nên một xã hội học tập. Muốn đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, theo