Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 95 trang )

MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH VÀ VAI TRÒ CỦA CẢI
CÁCH HÀNH CHÍNH TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
7
1.1.
Cải cách hành chính và vai trò của cải cách hành chính trong
quản lý nhà nước
7
1.1.1.
Quan niệm về cải cách hành chính
8
1.1.2.
Vai trò của cải cách hành chính
12


1.1.3.
Nội dung của cải cách hành chính
13
1.2.
Cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước người
21
1.2.1.
Quan niệm cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài
21
1.2.1.1.
Cải cách thể chế
21
1.2.1.2.
Cải cách tổ chức bộ máy hành chính
22
1.2.1.3.
Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
23
1.2.1.4.
Cải cách tài chính công
24
1.2.2 .
Vai trò của cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài
24

Chương 2: THỰC TRẠNG CỦA CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở NƯỚC TA
36
2.1.
Những kết quả đạt được về cải cách hành chính trong lĩnh

vực đầu tư nước ngoài ở nước ta
36
2.1.1.
Những kết quả đạt được ở lĩnh vực cải cách thể chế
37
2.1.2.
Những kết quả đạt được ở lĩnh vực cải cách bộ máy hành
chính nhà nước
42
2.1.3.
Những kết quả đạt được ở lĩnh vực cải cách tài chính công
48
2.2.
Những tồn tại của cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài
50
2.2.1.
Về cải cách thể chế
51
2.2.2.
Về bộ máy nhà nước
55
2.2.3.
Về đội ngũ cán bộ, công chức
63
2.2.4.
Về cải cách tài chính công
65

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI

MỚI CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
69
3.1.
Phương hướng tiếp tục đổi mới cải cách hành chính trong
lĩnh vực đầu tư nước ngoài ở nước ta
69
3.2.
Một số giải pháp tiếp tục đổi mới cải cách hành chính trong
lĩnh vực đầu tư nước ngoài ở nước ta
70
3.2.1.
Cải cải thể chế
70
3.2.2.
Cải cách bộ máy nhà nước
72
3.2.3.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
76
3.2.4.
Cải cách tài chính công
78

KẾT LUẬN
82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
84


PHỤ LỤC
88


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO). Theo đó, cùng với những thuận lợi có được khi
gia nhập WTO, chúng ta cũng phải thực hiện nhiều quy định mang tính chất
ràng buộc của tổ chức này. Trong đó, ngoài các nội dung thuộc lĩnh vực kinh
tế, Việt Nam phải cam kết xóa bỏ những quy định hành chính ảnh hưởng đến
kinh tế thị trường Và để đáp ứng yêu cầu này, ngay sau khi Quốc hội chính
thức phê chuẩn văn kiện gia nhập WTO, Chính phủ, Thủ tướng đã ban hành
nhiều văn bản chỉ đạo công tác cải cách hành chính nói chung và cải cách
hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài nói riêng.
Chính nhờ thực hiện cải cách hành chính, nên thời gian qua môi
trường kinh doanh đã được cải thiện tích cực. Đặc biệt, tạo tiền đề tốt để Việt
Nam thu hút đầu tư nước ngoài, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư: "Năm 2006 vốn
đầu tư nước ngoài đăng ký mới đạt 7,5 tỷ USD" [20]; "năm 2007 vốn đầu tư
nước ngoài gần 18 tỷ USD" [27], "năm 2008, số vốn này đã đạt hơn 60 tỷ
USD" [36]; "Năm 2009, vốn đầu tư nước ngoài đăng ký ước đạt 21,48 tỷ
USD" [46]. "Năm 2010, trong bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều biến
động phức tạp, Việt Nam đã thu hút được 18,59 tỷ USD" [31].
4 tháng đầu năm 2011, vốn đăng ký đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam là 4,024 tỷ USD. Các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) đã đóng góp tới 27% kim ngạch xuất khẩu (không kể
dầu khí), 33% giá trị sản xuất công nghiệp, 22% vốn đầu tư xã hội
và hơn 14% GDP của cả nước, tạo thêm việc làm cho hơn 80 vạn

lao động trực tiếp và triệu lao động gián tiếp khác [37].

2
Mặc dù các hoạt động cải cách hành chính đã đem lại những lợi ích
thiết thực, nhưng đối chiếu với những yêu cầu phát triển của kinh tế và hội
nhập, công tác cải cách hành chính vẫn còn nhiều việc phải làm.
Theo Chủ tịch Phòng Thương mại châu Âu (EuroCham) Alain Cany
cho biết:
Có tới 20 - 30% lợi thế cạnh tranh của Việt Nam bị mất do
hệ thống quản lý hành chính không hiệu quả. Và hơn 20 hiệp hội
doanh nghiệp nước ngoài đều cho rằng: vướng mắc chính trong môi
trường kinh doanh tại Việt Nam đang cản trở công việc của họ là
thủ tục hành chính vẫn còn nhiều phức tạp, không rõ, không nhất
quán, rườm rà, nhiêu khê…là những lý do chính để nhiều doanh
nghiệp muốn rời bỏ Việt Nam trong tương lai [33].
Để hiểu rõ một cách cụ thể, lý giải những vấn đề đang còn khúc mắc
do những bất cập hiện nay ở công tác hành chính gây ra trong thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài hiện nay, tác giả chọn đề tài "Cải cách hành chính trong
lĩnh vực đầu tư nước ngoài ở nước ta" làm đề tài luận văn thạc sĩ. Kết quả
nghiên cứu của đề tài góp phần hoàn thiện hướng cải cách hành chính, qua đó
góp phần tạo động lực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Cải cách hành chính nói chung và cải cách về hành chính trong lĩnh
vực đầu tư nước ngoài nói riêng là một lĩnh vực phức tạp. Bởi các bộ, ngành,
chính quyền địa phương vẫn còn chưa muốn buông việc quản lý hành chính
đối với hoạt động kinh tế. Các cơ quan nhà nước vẫn muốn giành thuận lợi
cho mình…
Vì vậy, vấn đề này đã thu hút sự quan tâm của các cơ quan nghiên cứu
cũng như các nhà khoa học và các cơ sở đào tạo luật để tìm ra nguyên nhân,
vướng mắc, đồng thời đưa ra các sáng kiến, đề xuất cải cách hành chính.


3
Đã có nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm từ Trung ương cho đến địa
phương để lấy ý kiến về cải cách hành chính: tỉnh Bắc Ninh đã tổ chức Hội
thảo khoa học về "Nâng cao hiệu quả, chất lượng cải cách hành chính trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh - thực trạng và giải pháp"; Ngày 04/6/2008, tại Bộ Xây
dựng đã diễn ra Hội thảo "cải cách thủ tục hành chính trong đầu tư xây
dựng"; Ngày 28/10/2009, Tổng cục Hải quan đã tổ chức hội nghị "mở rộng
thủ tục hải quan điện tử"; Ngày 1/9/2009 Trung ương Hội doanh nhân trẻ
Việt Nam tổ chức Hội thảo "Cải cách thủ tục hành chính -Xây dựng môi
trường kinh doanh thuận lợi"; Ngày 20/11/2009, Hội đồng Tư vấn Cải cách
Thủ tục hành chính đã tổ chức Tọa đàm "Kết quả rà soát các thủ tục hành
chính ưu tiên"; Ngày 1/3/2010, Tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục
hành chính của Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức Hội nghị "giao ban các bộ,
ngành về rà soát thủ tục hành chính theo Đề án 30"… Đồng thời có nhiều bài
viết của các tác giả trong nước về cải cách hành chính.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu khoa học trên chỉ đề cập tới các
vấn đề liên quan đến cải cách hành chính nói chung, hoặc cải cách hành chính
cho từng ngành, lĩnh vực nhưng chưa nghiên cứu riêng về vấn đề cải cách
hành chính để tạo thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài. Mặt khác, trong hầu
hết các nghiên cứu vẫn chưa giải thích được một cách thỏa đáng, có tính cội
rễ của nhiều hạn chế, bất cập từ hành chính để thu hút đầu tư nước ngoài ở
Việt Nam. Vì vậy, việc chọn và nghiên cứu đề tài "Cải cách hành chính
trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài ở nước ta" là một đề tài độc lập.
Và để hoàn thành đề tài này, người viết phải tham khảo, sưu tầm, học
hỏi các kiến thức cũng như kinh nghiệm trong các công trình khoa học có liên
quan đến vấn đề cải cách hành chính đã được công bố và các tạp chí nghiên
cứu khoa học khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tìm hiểu thực trạng và nguyên

nhân cũng như những vấn đề yêu cầu đặt ra hiện nay về cải cách hành chính

4
để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư tại
Việt Nam; phân tích và chỉ ra những bất cập, đồng thời nêu một số kiến nghị
với hy vọng góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính, để cải cách hành chính
thực sự là khâu đột phá, tạo môi trường thuận lợi, minh bạch cho hoạt động
đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài…. Từ đó, tạo động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế của đất nước trong thời kỳ hội nhập.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ giới hạn của một luận văn thạc sĩ Luật học, tác giả
luận văn chỉ tập trung nghiên cứu một số nội dung sau:
- Đối tượng nghiên cứu: Cải cách hành chính trong lĩnh vực thu hút
đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Nghiên cứu quy định về hành chính hiện nay đối với doanh nghiệp;
+ Đánh giá và phân tích những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc của
hành chính đối với doanh nghiệp;
+ Đề xuất quan điểm đóng góp của tác giả về một số vấn đề trong thực
hiện cải cách hành chính để thu hút đầu tư nước ngoài.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở lý luận và phương pháp luận của đề tài dựa trên phép duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin để tìm ra mối liên hệ
giữa các hiện tượng nhằm đánh giá các vấn đề nghiên cứu một cách khoa học.
Bên cạnh đó, tác giả cũng vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa
học chuyên ngành như: phân tích chứng minh, phân tích tổng hợp, so sánh,
diễn giải, suy diễn lôgíc. Cùng với đó là phương pháp lấy ý kiến chuyên gia,
các nhà quản lý, bởi đối tượng chủ yếu thực hiện cải cách hành chính để thu
hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam là các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà


5
quản lý. Do đó, việc lấy ý kiến thông qua bảng hỏi hoặc phỏng vấn trực tiếp
là rất cần thiết.
6. Những điểm mới và ý nghĩa của đề tài
Về mặt khoa học, đề tài cần có sự đánh giá của các nhà nghiên cứu
quan tâm tới vấn đề này. Tuy nhiên, tác giả cũng mạnh dạn đánh giá đây sẽ là
công trình nghiên cứu, phân tích một cách có hệ thống những vấn đề về cải
cách hành chính, đồng thời phân tích thực trạng về những vướng mắc, cũng
như đưa ra những kiến nghị đối với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật cải
cách hành chính góp phần tạo động lực, môi trường thuận lợi để các nhà đầu
tư nước ngoài vào Việt Nam. Trong đó, trên tinh thần phải xem cải cách hành
chính là khâu đột phá để tạo môi trường thuận lợi, minh bạch cho hoạt động
của doanh nghiệp nước ngoài. Đâu là khâu cản trở sự phát triển, cần tập trung
chỉ đạo tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh vực này. Với các biện pháp
chủ yếu để đẩy mạnh cải cách hành chính:
- Tập trung chỉ đạo thực hiện cải cách mạnh mẽ các lĩnh vực quản lý
hành chính, tạo môi trường thuận lợi nhất cho doanh nghiệp vào sản xuất,
kinh doanh tại Việt Nam.
- Các cấp chính quyền và từng cơ quan hành chính nhà nước rà soát
các loại thủ tục hành chính, bãi bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền
hoặc trình cấp trên xem xét sửa đổi theo hướng tạo thuận tiện cho doanh
nghiệp. Xử lý nghiêm những cá nhân và tổ chức tùy tiện đặt ra các quy định
trái pháp luật, trái thẩm quyền, gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp
nước ngoài. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính
trong việc cải cách hành chính.
- Công bố công khai các thủ tục: các loại giấy tờ, biểu mẫu và quy
trình giải quyết công việc, thời gian giải quyết, phí và lệ phí theo quy định để
nhân dân biết và thực hiện thuận lợi.

6

- Chính phủ khẩn trương rà soát, sửa đổi các quy định của mình và
chịu trách nhiệm rà soát những thủ tục hành chính đã quy định trong các luật,
pháp lệnh, trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, sửa đổi cho
phù hợp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cải cách hành chính và vai trò của cải cách hành chính
trong đầu tư nước ngoài.
Chương 2: Thực trạng của cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư
nước ngoài ở nước ta.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp tiếp tục đổi mới cải cách hành
chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài ở nước ta hiện nay.

7
Chương 1
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH VÀ VAI TRÒ
CỦA CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

1.1. Cải cách hành chính và vai trò của cải cách hành chính trong
quản lý nhà nước
Hiện nay, cải cách hành chính đang là vấn đề mang tính toàn cầu.
Điều này được thể hiện ngay cả ở các nước đang phát triển và các nước phát
triển đều xem cải cách hành chính như một động lực mạnh mẽ để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, phát triển dân chủ và các mặt khác của đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được bắt đầu từ
năm 1986, tính đến nay đã gần 26 năm. Trong khoảng thời gian đó, đồng thời
với việc đổi mới về kinh tế thì cải cách hành chính cũng được tiến hành với
từng bước thận trọng và đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ.
Cải cách hành chính đang thể hiện rõ vai trò quan trọng của mình

trong việc đẩy nhanh sự phát triển đất nước, điều này đã được thể hiện trên
nhiều lĩnh vực. Trong đó, riêng cải cách hành chính để thu hút đầu tư nước
ngoài của Việt Nam trong thời gian qua đã tạo được một môi trường kinh
doanh cải thiện tích cực. Đặc biệt, tạo tiền đề tốt để Việt Nam thu hút đầu tư
nước ngoài.
Để tiếp tục phát huy hiệu quả mà cải cách hành chính mang lại, Việt
Nam đang đề ra mục tiêu: "xây dựng một nền hành chính trong sạch, vững
mạnh, chuyên nghiệp. Qua đó, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng thuận
lợi, là "điểm nhấn" về sức hút để các nhà đầu tư nước ngoài tìm thấy nhiều cơ
hội hơn" [41, tr. 1]. Để tạo dựng được mục tiêu này, thời gian qua cải cách
hành chính ở Việt Nam được tiến hành với những bước đi - lộ trình khác nhau
từ thấp tới cao. Bắt đầu là việc cải cách một bước thủ tục hành chính trong

8
việc giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức, đến cải cách một bước nền
hành chính nhà nước với ba nội dung là: cải cách thể chế hành chính; cải cách
bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Ngày nay, cải cách hành chính đã chuyển sang một bước mới với bốn
nội dung: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước;
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công.
1.1.1. Quan niệm về cải cách hành chính
Để hiểu rõ về cải cách hành chính là gì? Trước hết hãy điểm qua một
số quan điểm cơ bản đã được nhiều học giả, các nhà nghiên cứu hành chính
đã đưa ra.
Do dựa trên các điều kiện về chế độ chính trị, kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia, cũng như phụ thuộc vào quan điểm và mục tiêu nghiên cứu, do đó
hầu hết các định nghĩa này là khác nhau.
- Cải cách hành chính ở phương Tây còn gọi là cải cách Chính phủ, ở
Trung Quốc gọi là cải cách thể chế quản lý hành chính, nội dung không khác
nhau bao nhiêu, đều nhắc đến các yêu cầu điều chỉnh quan hệ giữa cơ cấu

hành chính và các cơ cấu xã hội khác, hoặc quan hệ nội bộ của cơ cấu hành
chính, điều chỉnh chức năng, tổ chức và nhân sự hành chính.
- GS. Trương Hoàng Lem (Quốc tịch Mỹ), chuyên gia tư vấn cao cấp
L.T. Associates, Inc. Wasinhton lại có cách giải thích: theo nghĩa hẹp và
chính thống, cải cách hành chính đề cập đến những thay đổi trong toàn bộ hệ
thống hành chính công. Nó bao gồm toàn bộ việc tổ chức lại cán bộ, xác định
nhiệm vụ và chức năng của các đơn vị hành chính.
- Còn theo một số tác giả ở Trung Quốc, cải cách hành chính được
hiểu nói chung là một hành vi hành chính, nhằm nâng cao hiệu suất hành
chính, cải biến chế độ, phương pháp hành chính cũ, xây dựng chế độ, phương
thức hành chính mới trong phạm vi Chính phủ.

9
- Một số nhà nghiên cứu khác đã cho rằng cải cách hành chính là một
nhân tố tương đối nhỏ trong tổng thể biến đổi xã hội so với sự giao lưu văn
hóa, đổi mới công nghệ, hiện đại hóa và sự di dân. Đến lượt nó biến đổi xã
hội chỉ là một bộ phận của dòng tiến hóa không ngừng đặc trưng cho vũ trụ.
Nếu theo dòng tư duy này, cải cách hành chính được xem là trọng tâm của
công cuộc cải cách bộ máy nhà nước và về phần mình, cải cách bộ máy nhà
nước lại là một bộ phận quan trọng trong cải cách hệ thống chính trị, một
trong những bộ phận cấu thành nên chương trình công cuộc đổi mới đất nước.
Mặt khác, cũng cần phân biệt giữa cải cách hành chính với những biến
đổi thông thường trong hoạt động của hệ thống tổ chức hành chính, thường
được gọi là những "cải tiến". Những cải tiến thường được thực hiện trên cơ sở
một nền hành chính tương đối ổn định và hợp lý, vận hành bình thường.
Trong tiến trình phát triển của bất kỳ hệ thống nào cũng luôn có các hoàn
cảnh đòi hỏi phải cải tiến những bộ phận, những quá trình nhất định - nói theo
ngôn ngữ thông thường đó là việc hoàn thiện, hoặc "quá trình hoàn thiện". Về
quy mô và phạm vi nó thường giới hạn trong một lĩnh vực hẹp của nền hành
chính công, diễn ra trong khoảng thời gian ngắn, đáp ứng những đòi hỏi cục

bộ hoặc phiến diện.
- Nhiều nhà nghiên cứu đã xem biến đổi hành chính như là một sự tự
điều chỉnh "đáp ứng của tổ chức với các điều kiện bất ổn" và cải cách hành
chính trở nên bắt buộc khi các quá trình biến đổi hành chính tự nhiên không
thực hiện được chức năng… Cải cách hành chính là một công tác cơ bản tập
trung vào các nội dung lớn chứ không phải là các vấn đề bình thường mang
tính hình thức. Nó đòi hỏi phải nghiên cứu toàn diện từ các quan điểm nguyên
tắc cho tới việc xây dựng một chiến lược dài hạn với một kế hoạch thực hiện
tỷ mỷ, nó tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm và đưa ra những sửa đổi thích
đáng cho các bước tiếp theo. Cải cách hành chính đụng chạm tới các phương
diện thiết chế tổ chức, pháp lý, nhân sự và quản lý tài chính chứ không chỉ là
các bộ phận nhỏ của một tổng thể tức là đụng chạm tới mối quan hệ của các

10
biến đổi hành chính với các đặc tính hay áp lực từ một môi trường xã hội và
chính trị rộng lớn hơn. Vì vậy, cải cách hành chính còn được hiểu theo nghĩa
hẹp và nghĩa rộng của khái niệm. Theo nghĩa hẹp, cải cách hành chính là cải
cách thể chế hành chính và bộ máy hành chính của Chính phủ. Theo nghĩa
rộng, nó bao gồm cả cải cách phương pháp, phương thức hành chính, chức
năng hành chính, chế độ công chức và nguyên tắc hành chính trọng yếu khác.
- Theo Đại từ điển tiếng Việt, khái niệm cải cách hành chính không
định nghĩa trực tiếp mà thường được mô tả bằng hình ảnh cụ thể và tính chất
của chúng được mô tả qua các tiên đề.
Trước hết, cải cách hành chính là một hành vi về hành chính. Về mặt lý
thuyết, hành vi hành chính là hành vi hành động hoặc không hành động của cơ
quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước hoặc cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức xã hội được ủy quyền hành pháp
khi thực hiện nhiệm vụ công theo quy định của pháp luật. Cải cách hành
chính phải do các chủ thể tiến hành, nó đích thực là hành vi hành chính. Như
vậy, cải cách hành chính được mô tả qua hành vi hành chính. Đó cũng chính

là điểm để phân biệt cải cách hành chính với những cuộc cải cách xã hội khác.
Thứ đến, mục đích của cải cách hành chính là nhằm nâng cao hiệu
suất hành chính, cải biến chế độ và phương pháp hành chính cũ, xây dựng chế
độ và phương pháp hành chính mới.
- Theo GS.TS Khoa Học Từ Điển: cải cách hành chính phải được hiểu
là không chỉ chống đối sức ỳ của nền hành chính mà cả những trở lực phát
sinh ngay trong nội bộ bộ máy tổ chức hành chính. Bởi vậy, muốn thay đổi
hiện trạng hành chính, cần phải dựa vào bản thân tổ chức hành chính, mặt
khác muốn khắc phục được những chống đối đó phải biến cuộc cải cách hành
chính thành một quá trình chính trị. Việc động chạm đến quan chức với
những thứ bậc, địa vị, quyền lợi và kinh nghiệm cho thấy không loại trừ
trường hợp phải thanh trừng đổ máu.

11
Cải cách hành chính cũng được hiểu là một quá trình thay đổi nhằm
nâng cao hiệu lực và hiệu quả hành chính, cải tiến tổ chức, chế độ và phương
pháp hành chính cũ, xây dựng chế độ và phương thức hành chính mới trong
lĩnh vực quản lý của bộ máy hành chính nhà nước.
- Như vậy, cải cách hành chính, theo quan niệm chung nhất của các
nhà nghiên cứu đều cho rằng: đây là một biện pháp được thực hiện để giải
quyết những đòi hỏi của thực tiễn với mục tiêu rõ ràng, chương trình cụ thể và
yêu cầu phải hoàn tất trong một thời gian nhất định.
- Ở Việt Nam hiện nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào
chính thức định nghĩa khái niệm cải cách hành chính là gì. Tuy nhiên, nhiều
văn bản quan trọng của Đảng đã đề cập đến thuật ngữ này, như Nghị quyết
Đại hội VII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa VII, Nghị quyết Đại hội
VIII đã nêu ra các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho công cuộc cải cách hành
chính nhà nước. Đồng thời, Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước giai đoạn 2001 - 2010 của Chính phủ được ban hành kèm theo Quyết
định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ cũng đã

nêu bốn nội dung cơ bản của cải cách hành chính Việt Nam, đó là cải cách thể
chế, cải cách tổ chức bộ máy hành chính, đổi mới, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính công. Mục tiêu của cải cách hành
chính nhà nước đến 2010 theo Chương trình tổng thể là:
Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững
mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả
theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm
chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát
triển đất nước. Đến năm 2010, hệ thống hành chính về cơ bản được
cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa [7].

12
Các nội dung, mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của 4 nội dung trên được ghi
trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-
2010 được ban hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày
17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ.
Tuy nhiên, qua xem xét, phân tích dưới nhiều góc độ định nghĩa của khái
niệm, có thể thấy các khái niệm về cải cách hành chính được nêu ra bao gồm:
Ba điểm thống nhất sau:
Thứ nhất: Cải cách hành chính là một sự thay đổi có kế
hoạch, theo một mục tiêu nhất định, được xác định bởi cơ quan nhà
nước có thẩm quyền;
Thứ hai: Cải cách hành chính không làm thay đổi bản chất
của hệ thống hành chính, mà chỉ làm cho hệ thống này trở nên hiệu
quả hơn, phục vụ nhân dân được tốt hơn so với trước, chất lượng
các thể chế quản lý nhà nước đồng bộ, khả thi, đi vào cuộc sống
hơn, cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy, chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà

nước sau khi tiến hành cải cách hành chính đạt hiệu quả, hiệu lực
hơn, đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội của một quốc gia;
Thứ ba: Cải cách hành chính tùy theo điều kiện của từng
thời kỳ, giai đoạn của lịch sử, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
mỗi quốc gia, có thể được đặt ra những trọng tâm, trọng điểm khác
nhau, hướng tới hoàn thiện một hoặc một số nội dung của nền hành
chính, đó là tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức, thể chế
pháp lý, hoặc tài chính công v.v [21].
1.1.2. Vai trò của cải cách hành chính
Hiện nay, cải cách hành chính có vai trò rất quan trọng trong thực tiễn
đời sống, bởi:

13
- Cải cách hành chính là động lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
phát triển dân chủ và các mặt khác của đời sống xã hội.
Vấn đề trên càng thể hiện rõ ở Việt Nam khi nước ta đang trong tiến
trình phát triển và hội nhập vào thế giới và khu vực sẽ có nhiều vấn đề mang
tầm chiến lược đang đặt ra vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với đất nước
ta trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội - quốc phòng -
an ninh và đối ngoại. Do đó, để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới thì cải
cách hành chính là yếu tố có tính quyết định trong việc nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội.
- Cải cách hành chính vừa là động lực phát triển vừa là "đầu ra" của
các cuộc cải cách khác, như cải cách kinh tế, cải cách tư pháp, kể cả cải cách
chính trị, trong cuộc đổi mới toàn diện đang tiến triển; là vấn đề liên quan đến
hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, có tác động trực tiếp đến cải cách
kinh tế, xã hội.
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã nhấn mạnh vai trò
của cải cách hành chính: tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt
động kinh tế, xã hội, nâng cao năng lực và hiệu quả của chỉ đạo thực hiện,

kiểm tra, thanh tra thực hiện thể chế. Xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý
nhà nước về kinh tế - xã hội của cơ quan công quyền các cấp.
1.1.3. Nội dung của cải cách hành chính
Mục đích của cải cách hành chính là nâng cao hiệu suất hoạt động hành
chính, thích ứng với những thay đổi, đòi hỏi của môi trường trong nước và
quốc tế. Vì vậy, xét ở khía cạnh mục tiêu chung thì cải cách hành chính nhằm
xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp,
hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng,
phát triển đất nước. Hệ thống hành chính về cơ bản phải được cải cách phù
hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

14
Theo đó, cải cách hành chính có 9 mục tiêu cụ thể:
Thứ nhất: Hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ chế,
chính sách phù hợp với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, trước hết là các thể chế về kinh tế, về tổ chức và hoạt động
của hệ thống hành chính.
Tiếp tục đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản
quy phạm pháp luật, khắc phục tính cục bộ trong việc chuẩn bị,
soạn thảo các văn bản; đề cao trách nhiệm của từng cơ quan trong
quá trình xây dựng thể chế, phát huy dân chủ, huy động trí tuệ của
nhân dân để nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ hai: Xóa bỏ về cơ bản các thủ tục hành chính mang tính
quan liêu, rườm rà, gây phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân;
hoàn thiện các thủ tục hành chính mới theo hướng công khai, đơn
giản và thuận tiện cho dân.
Thứ ba: Các cơ quan trong hệ thống hành chính được xác
định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm rõ ràng;
chuyển được một số công việc và dịch vụ không cần thiết phải do

cơ quan nhà nước thực hiện cho doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức phi chính phủ đảm nhận.
Thứ tư: Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gọn nhẹ, hợp lý theo
nguyên tắc Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, thực hiện chức năng
chủ yếu là quản lý vĩ mô toàn xã hội bằng pháp luật, chính sách,
hướng dẫn và kiểm tra thực hiện.
Bộ máy của các Bộ được điều chỉnh về cơ cấu trên cơ sở
phân biệt rõ chức năng, phương thức hoạt động của các bộ phận
tham mưu, thực thi chính sách, cung cấp dịch vụ công.
Thứ năm: Thực hiện các quy định mới về phân cấp quản lý
hành chính nhà nước giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp

15
chính quyền địa phương; định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền
và tổ chức bộ máy chính quyền ở đô thị và nông thôn.
Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
cấp huyện được tổ chức lại gọn nhẹ, thực hiện đúng chức năng quản
lý nhà nước theo nhiệm vụ và thẩm quyền được xác định trong Luật
tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi). Xác định
rõ tính chất, cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc của chính quyền cấp xã.
Thứ sáu: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng,
cơ cấu hợp lý, chuyên nghiệp, hiện đại. Tuyệt đại bộ phận cán bộ,
công chức có phẩm chất tốt và đủ năng lực thi hành công vụ, tận
tụy, phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân.
Thứ bảy: Xây dựng tiền lương của cán bộ, công chức được
cải cách cơ bản, trở thành động lực của nền công vụ, bảo đảm cuộc
sống của cán bộ, công chức và gia đình.
Thứ tám: Xây dựng cơ chế tài chính được đổi mới thích
hợp với tính chất của cơ quan hành chính và tổ chức sự nghiệp, dịch
vụ công.

Thứ chín: Nền hành chính nhà nước được hiện đại hóa một
bước rõ rệt. Các cơ quan hành chính có trang thiết bị tương đối hiện
đại phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước kịp thời và thông suốt. Hệ
thống thông tin điện tử của Chính phủ được đưa vào hoạt động [4].
Để đạt được 9 mục tiêu trên, cải cách hành chính đang đặt ra 04 nội dung:
Một là, cải cách thể chế:
- Xây dựng và hoàn thiện các thể chế, trước hết là thể chế
kinh tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể
chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước.
- Đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy
phạm pháp luật.

16
- Bảo đảm việc tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh của
cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức.
- Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính [7].
Theo đó, hệ thống thể chế phải vừa thực sự giải phóng sức sản xuất xã
hội, vừa giữ được định hướng về chính trị. Quá trình cải cách hành chính, việc
chuyển từ hành chính thuần túy công quyền sang hành chính nhà nước pháp
quyền và dịch vụ công, tiếp tục xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, lấy phát triển, vì hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu để
kiểm chứng hệ thống thể chế. Theo đó, một yêu cầu quan trọng đặt ra là, cần
rành mạch hóa các quan hệ cơ bản giữa hành chính nhà nước với doanh nghiệp
và dân cư, giữa hành chính với dịch vụ công, giữa Trung ương và địa phương.
Hệ thống thể chế phải vừa thực sự giải phóng sức sản xuất xã hội, vừa
giữ được định hướng về chính trị. Quá trình cải cách hành chính, việc chuyển
từ hành chính thuần túy công quyền sang hành chính nhà nước pháp quyền và
dịch vụ công.
Hai là, cải cách tổ chức bộ máy hành chính
- Việc cải cách tổ chức bộ máy hành chính ở Việt Nam trong những

năm qua và trong tương lai đi theo hướng làm cho bộ máy hành chính hoàn bị
hơn, hoạt động có hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân ngày một đúng pháp luật,
tốt hơn và tiết kiệm nhất, dần từng bước chuyển nền hành chính từ cơ quan
cai quản thành các cơ quan phục vụ, làm các dịch vụ hành chính. Còn doanh
nghiệp và người dân là khách hàng của nền hành chính, là người đánh giá
khách quan nhất về mọi hoạt động của bộ máy nhà nước, bộ máy hành chính.
Theo đó, việc cải cách tổ chức bộ máy hành chính sẽ tập trung vào việc:
Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương
các cấp cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới.

17
- Từng bước điều chỉnh những công việc mà Chính phủ, các
bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa
phương đảm nhận để khắc phục những chồng chéo, trùng lắp về chức
năng, nhiệm vụ. Chuyển cho các tổ chức xã hội, tổ chức phi Chính
phủ hoặc doanh nghiệp làm những công việc về dịch vụ không cần
thiết phải do cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp thực hiện.
- Áp dụng các quy định mới về phân cấp Trung ương - địa
phương, phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương, nâng cao
thẩm quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phương, tăng cường
mối liên hệ và trách nhiệm của chính quyền trước nhân dân địa
phương. Gắn phân cấp công việc với phân cấp về tài chính, tổ chức và
cán bộ. Định rõ những loại việc địa phương toàn quyền quyết định,
những việc trước khi địa phương quyết định phải có ý kiến của Trung
ương và những việc phải thực hiện theo quyết định của Trung ương.
- Bố trí lại cơ cấu tổ chức của Chính phủ
- Điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong của các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
- Cải cách tổ chức bộ máy chính quyền địa phương

- Cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc của cơ quan
hành chính các cấp.
- Thực hiện từng bước hiện đại hóa nền hành chính [7].
Trên cơ sở chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường thiết
kế bộ máy, đẩy nhanh việc xây dựng thị trường đồng bộ để di chuyển nguồn
lực theo chiều ngang, dùng áp lực của thị trường để kiểm chứng các hoạt
động kinh doanh theo định hướng của Nhà nước. Về nguyên tắc, Nhà nước
không làm thay thị trường và dân cư. Do vậy, phải xây dựng chức năng,
nhiệm vụ thẩm quyền và trách nhiệm của hệ thống hành chính nhà nước. Các

18
cơ quan quản lý nhà nước tập trung xây dựng, chỉ đạo thực hiện các chức
năng quản lý vĩ mô. Xây dựng, ban hành luật, chính sách, chiến lược, quy
hoạch chính sách và kiểm tra việc thực hiện chúng. Bộ máy cần tổ chức theo
hướng liên ngành, đa lĩnh vực. Thực hiện quản lý kinh tế theo ngành từ chiến
lược, quy hoạch đến phân bổ nguồn lực, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí
trong đầu tư xây dựng. Về nguyên tắc, việc quản lý cần kết hợp cả ngành và
lãnh thổ, nhưng ngành là chính để tránh tình trạng cát cứ, chia cắt. Quản lý
của chính quyền địa phương là quản lý toàn diện cả kinh tế và xã hội.
Tiếp tục giảm các cơ quan trực thuộc Chính phủ. Bên cạnh tổ chức
Chính phủ, có các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức xã hội, nhưng tránh xu
hướng nhà nước hóa các tổ chức xã hội như hiện nay. Bên cạnh cơ cấu tĩnh,
cần có cơ cấu động giúp Chính phủ nghiên cứu những vấn đề lớn, phức tạp
liên ngành để giảm bộ máy nhà nước. Tách chức năng dịch vụ công ra khỏi
chức năng bộ máy nhà nước để các tổ chức tự quản chịu trách nhiệm.
Ba là, đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
Để đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cần phải
thực hiện các công việc sau:
- Đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức
- Cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ

- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức cán bộ, công
chức [7].
Để nâng cao chất lượng và năng lực của đội ngũ công chức, trước hết
cần thực hiện chế độ công vụ theo chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm,
quyền hạn; có tiêu chí đánh giá kết quả công việc theo từng chức danh. Kết
hợp quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức, thực hiện chế độ thi
tuyển đối với các trường hợp đề bạt; đổi mới quan niệm công chức theo

19
hướng nghề nghiệp, chức nghiệp làm việc ổn định. Có chính sách đãi ngộ
thỏa đáng để đội ngũ công chức yên tâm làm việc lâu dài và cống hiến với
khả năng cao nhất năng lực, trình độ của mình cho cơ quan, đơn vị. Thực hiện
thí điểm chọn cán bộ theo phương châm cạnh tranh nhân tài để có đội ngũ
công chức có năng lực thực sự.
Bốn là, cải cách tài chính công
Trong cải cách tài chính công cần thực hiện:
- Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách,
bảo đảm tính thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và vai trò
chỉ đạo của ngân sách Trung ương; đồng thời phát huy tính chủ
động, năng động, sáng tạo và trách nhiệm của địa phương và các
ngành trong việc điều hành tài chính và ngân sách.
- Thực hiện nguyên tắc công khai tài chính, sử dụng ngân
sách ở các cấp hành chính, các cơ quan đơn vị thụ hưởng ngân sách
nhà nước, thực hiện thí điểm và đang nhân rộng dần cơ chế khoán
biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan hành
chính và cơ chế tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu.
- Bảo đảm quyền quyết định ngân sách địa phương của Hội
đồng Nhân dân các cấp, tạo điều kiện cho chính quyền địa phương
chủ động xử lý các công việc ở địa phương; quyền quyết định của

các bộ, sở, ban, ngành về phân bổ ngân sách cho các đơn vị trực
thuộc; quyền chủ động của các đơn vị sử dụng ngân sách trong
phạm vi dự toán được duyệt phù hợp với chế độ, chính sách.
- Trên cơ sở phân biệt rõ cơ quan hành chính công quyền
với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công, thực hiện đổi mới cơ chế phân
bổ ngân sách cho cơ quan hành chính, xóa bỏ chế độ cấp kinh phí
theo số lượng biên chế, thay thế bằng cách tính toán kinh phí căn cứ
vào kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu ra,

20
chất lượng chi tiêu theo mục tiêu của cơ quan hành chính, đổi mới
hệ thống định mức chi tiêu cho đơn giản hơn, tăng quyền chủ động
của cơ quan sử dụng ngân sách.
- Đổi mới cơ bản cơ chế tài chính đối với khu vực dịch vụ công.
- Thực hiện thí điểm để áp dụng rộng rãi một số cơ chế tài
chính mới như:
+ Cho thuê đơn vị, sự nghiệp công, cho thuê đất để xây
dựng cơ sở nhà trường, bệnh viện, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế đối với cán bộ, công chức chuyển từ các đơn vị công lập
sang dân lập.
+ Cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước
đầu tư phát triển các cơ sở đào tạo dạy nghề, đại học, trên đại học,
khám chữa bệnh có chất lượng cao v.v…
+ Thực hiện cơ chế khoán một số loại dịch vụ công cộng
như vệ sinh đô thị, cấp, thoát nước, cây xanh công viên, nước phục
vụ nông nghiệp…
+ Thực hiện cơ chế hợp đồng một dịch vụ công trong cơ
quan hành chính.
- Đổi mới công tác kiểm toán đối với các cơ quan hành
chính, đơn vị sự nghiệp nhằm nâng cao trách nhiệm và hiệu quả sử

dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước, xóa bỏ tình trạng nhiều đầu
mối thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, đối với các cơ quan hành chính,
đơn vị sự nghiệp. Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch về tài
chính công, tất cả chỉ tiêu tài chính được công bố công khai [7].
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý ngân sách nhà nước, giảm thiểu ngân
sách đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Ngân sách nhà nước chỉ dành cho những
lĩnh vực trọng yếu liên quan đến quốc phòng, an ninh, văn hóa, giáo dục, xã

21
hội, hỗ trợ phát triển. Xóa bỏ tài trợ cho những doanh nghiệp nhà nước làm ăn
thua lỗ. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện cơ chế quản lý phân cấp ngân sách, bảo
đảm thống nhất nền tài chính quốc gia trên những lĩnh vực cơ bản, đồng thời,
phát huy tính chủ động, sáng tạo của các địa phương theo cơ chế khoán chi
ngân sách hành chính. Kiểm soát chặt chẽ ngân sách nhà nước chi cho đầu tư
xây dựng, xóa bỏ tiêu cực trong lộ trình cấp phát vốn như hiện nay.
Tất cả những mục tiêu đó của cải cách hành chính cũng là nhằm góp
phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với bản chất của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân.
1.2. Cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước người
1.2.1. Quan niệm cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài
Cải cách hành chính cho đầu tư nước ngoài của nước ta trong giai
đoạn hiện nay đang chịu sự tác động bởi hai xu thế lớn của thế giới: đa cực
hóa và toàn cầu hóa.
Theo đó, cải cách hành chính cho đầu tư nước ngoài cũng có nhiều
điểm mới chịu tác động bởi những yếu tố khoa học quản lý, những nhân tố thị
trường, những mối quan hệ ngày càng đa dạng phức tạp giữa chính trị - hành
chính - kinh tế, những bước nhảy vọt của khoa học công nghệ, xu thế quốc tế
hóa đời sống xã hội, trình độ dân trí được nâng cao mọi mặt đã đề ra yêu cầu
mới đối với các nhà nước, các chính phủ và các nền hành chính công.
Tuy nhiên, xét ở khía cạnh thực tế cải cách hành chính cho đầu tư

nước ngoài hiện nay đang được các cơ quan quản lý của Việt Nam tiến hành
bao gồm các vấn đề sau đây.
1.2.1.1. Cải cách thể chế
Trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, thì yếu tố quan trọng
trong cải cách thể chế để thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam là phát triển
mạnh mẽ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó:

22
- Phải bảo đảm tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, thể
hiện trong từng chính sách, kế hoạch phát triển.
Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý bằng cách
tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư và tạo "một sân chơi"
bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư. Trong đó, tiếp tục đẩy
mạnh hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách đầu tư nước ngoài theo
hướng tạo một mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và nước ngoài.
- Mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài và đa dạng hóa các hình
thức đầu tư. Trong đó, sự thống nhất chung về quan điểm giữa nhận thức và
hành động của Bộ ngành, giữa Trung ương và địa phương trong việc thu hút,
quản lý và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài nhằm tạo sự nhất quán thống nhất
về chính sách, tạo sự ổn định, minh bạch; các chính sách ban hành sau phải
đảm bảo nguyên tắc kế thừa, không hồi tố và hấp dẫn hơn trước.
- Đơn giản hóa thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử
dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế; tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động đầu tư. Theo đó,
nghiên cứu mở rộng phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài cho các địa phương,
mặt khác các cơ quan chức năng của Chính phủ tăng cường giám sát về tình
hình thực hiện phân cấp. Các ngành tiến hành rà soát điều chỉnh quy hoạch
ngành theo hướng xóa bỏ phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài, tạo điều kiện cho khu vực đầu tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào
phát triển các ngành.

1.2.1.2. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính
Bộ máy hành chính nhà nước hiện nay từ Chính phủ đến chính quyền
địa phương các cấp vẫn còn ôm đồm quá nhiều việc. Trong khi việc phân cấp
quản lý nhà nước giữa Trung ương và địa phương, và giữa các cấp chính
quyền địa phương vẫn đang còn nhiều hạn chế, bất hợp lý. Vì vậy, cải cách tổ
chức bộ máy hành chính cần tiến hành:

23
- Phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương và địa phương, xác định
nhiệm vụ cụ thể của mỗi cấp chính quyền phải rõ ràng, mạch lạc, tránh tình
trạng có những việc còn do nhiều cấp cùng thực hiện, không rõ địa chỉ, không
rõ trách nhiệm, chưa đảm bảo nguyên tắc mỗi việc chỉ do một cấp thực hiện
và chịu trách nhiệm theo tinh thần cải cách hành chính.
- Bộ máy Chính phủ hiện nay với 22 Bộ, cơ quan ngang Bộ vẫn là lớn
so với các nước trên thế giới. Vì vậy, cần hợp nhất một số Bộ, ngành tổ chức
theo mô hình Bộ đa ngành, đa lĩnh vực.
Hiện nay, cơ cấu tổ chức của các Bộ, số lượng cơ quan chuyên môn
của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện rất nhiều đầu mối, tất yếu dẫn đến
tình trạng chồng chéo, trùng lắp về chức năng, thẩm quyền và do đó, sức ỳ, sự
trì trệ, quan liêu của bộ máy là không thể tránh khỏi. Do đó, cần sắp xếp cơ
cấu tổ chức lại bên trong của các Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện
theo hướng giảm đầu mối.
1.2.1.3. Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
Trước yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước và trước yêu cầu cải cách,
mở cửa hội nhập hiện nay yêu cầu đội ngũ cán bộ, công chức cần nâng cao
năng lực và phẩm chất. Vì vậy, việc đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức cần tiến hành:
- Đổi mới cơ bản, mạnh mẽ mang tính cải cách, từ việc tuyển dụng, sử
dụng, bổ nhiệm, bãi miễn, đến đào tạo bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật, chính
sách đãi ngộ (tiền lương, thưởng), đánh giá cán bộ, công chức… Tránh việc

triển khai thực hiện một số chính sách có phần mang tính hình thức như chế
độ thi tuyển, tiêu chuẩn bằng cấp, học vị…
- Để khắc phục hiện tượng chế độ làm việc tập thể tràn lan, không rõ
trách nhiệm cá nhân, đồng thời còn là chỗ dựa che chắn cho những ý đồ cá
nhân người đứng đầu được hợp thức hóa dưới các quyết định có tính tập thể
vẫn phổ biến… thì cần phải hoàn thiện quy định pháp lý cụ thể về trách

×