Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân quận - kinh nghiệm từ thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.4 KB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN THỊ KIM CHUNG





ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY BAN
NHÂN DÂN QUẬN - KINH NGHIỆM TỪ THÀNH PHỐ
HÀ NỘI




LUÂN VĂN THẠC SỸ LUẬT






Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHẠM HỒNG THÁI






Hà nội – 2005


MỤC LỤC

Trang
Mở đầu
1
Chương 1: Vị trí, tính chất của uỷ ban nhân dân quận
4
1.1. Vị trí, vai trò của cấp quận trong đời sống đô thị
4
1.2. Khái quát sự hình thành và phát triển của chế định Uỷ ban
nhân dân quận
9
1.3. Tính chất của Uỷ ban nhân dân quận
16
1.3.1. Uỷ ban nhân dân quận là cơ quan chấp hành của Hội đồng
nhân dân cùng cấp, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương
16
1.3.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân quận
18
1.3.3. Các mối quan hệ của Uỷ ban nhân dân quận
26
Kết luận chương 1
32
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của ủy ban nhân
dân quận - kinh nghiệm từ thành phố Hà nội

33
2.1 Thực trạng tổ chức
33
2.1.1. Cơ cấu thành viên của Uỷ ban nhân dân quận
35
2.1.2. Các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân quận
36
2.2. Thực trạng hoạt động của Uỷ ban nhân dân quận
54
Kết luận chương 2
68
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện tổ chức và hoạt động
của uỷ ban nhân dân quận (Hà Nội)
69
3.1. Đổi mới về tổ chức
69
3.2. Đổi mới về hoạt động
75
Kết luận
82
Danh mục tài liệu tham khảo
84



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân
quận đã có những mặt đổi mới để làm tròn chức năng, nhiệm vụ của mình.

Tuy nhiên, thực trạng tổ chức và hoạt động đó còn chưa đáp ứng được đòi hỏi
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, còn bộc lộ một số hạn
chế. Tuy cùng một cấp nhưng giữa Uỷ ban nhân dân huyện và Uỷ ban nhân
dân quận có những nét đặc trưng riêng biệt. Cho nên, tổ chức chính quyền đô
thị có những đặc thù so với nông thông trong khi đó pháp luật đã điều chỉnh
một cách tương đồng chưa có sự phân hoá cao.
Việc nghiên cứu tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân quận cả về
lý luận và thực tiễn trong quá trình hình thành và phát triển của nó, giúp cho
chúng ta thấy được những mặt ưu điểm và những mặt còn hạn chế trong quản
lý nhà nước. Trên cơ sở đó xác định phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt
động của Uỷ ban nhân dân quận cho phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới của đất nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chúng tôi xin dẫn ra một số công trình khoa học của các cá nhân, các
nhóm tác giả đã được công bố có liên quan đến đề tài luận văn: "Những vấn
đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay".
Đồng chủ biên PGS.TS. Lê Minh Thông, PGS.TS Nguyễn Như Phát, Nhà
xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2002; "Chính quyền địa phương với
việc bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật", TS. Trương Đắc Linh, Nhà
xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2003; "Một số vấn đề về hoàn thiện
các cơ sở hiến định của tổ chức bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay", TS. Lê
Minh Thông, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 4/2000; "Một số vấn đề cần
hoàn thiện trong tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân các cấp", TS.

2
Bùi Xuân Đức, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10/2000… và một số công
trình có liên quan khác.
Các công trình trên chủ yếu nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến
tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương, trong đó có Uỷ ban nhân
dân các cấp. Cho đến hiện nay, chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách toàn

diện cả về lý luận và thực tiễn dưới góc độ luật học về tổ chức và hoạt động
của Uỷ ban nhân dân Quận theo hướng đổi mới và hoàn thiện, đáp ứng các
yêu cầu của cải cách bộ máy nhà nước trong tình hình mới.
Với lý do nêu trên, chúng tôi đã chọn đề tài: "Đổi mới tổ chức và hoạt
động của Uỷ ban nhân dân quận - kinh nghiệm từ thành phố Hà Nội" làm
luận văn cao học.
3. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn lý luận và thực tiễn về
tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân quận, xác định những vấn đề cần
hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân quận nhằm đảm bảo
cho cơ quan này có đủ năng lực đáp ứng đòi hỏi của công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn: phân tích những điểm khác biệt
giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn, khái quát quá trình hình
thành và phát triển của Uỷ ban nhân dân quận. Từ đó làm cơ sở cho việc
nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân quận trong giai
đoạn hiện nay. Nghiên cứu căn cứ pháp lý về tổ chức và hoạt động của Uỷ
ban nhân dân quận theo pháp luật hiện hành. Phân tích thực trạng tổ chức và
hoạt động của Uỷ ban nhân dân quận. Trên cơ sở đó đánh giá những ưu điểm,
hạn chế để tìm ra nguyên nhân, giải pháp và những kiến nghị về đổi mới tổ
chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân quận cho phù hợp với công cuộc đổi
mới của đất nước.

3
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh và một số phương
pháp khác để làm sáng tỏ bản chất của vấn đề.

5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Phân tích làm rõ vị trí, tính chất của Uỷ ban nhân dân quận
- Phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của Uỷ ban nhân dân quận
(qua kinh nghiệm của thành phố Hà Nội)
- Đưa ra một số giải pháp nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của Uỷ
ban nhân dân quận.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần phân tích một cách có hệ thống những vấn đề lý
luận về vị trí, tính chất của Uỷ ban nhân dân quận.
- Luận văn đưa ra một số kiến nghị về đổi mới tổ chức và hoạt động
của Uỷ ban nhân dân quận.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm
- Mở đầu;
- Ba chương;
- Kết luận;
- Danh mục tài liệu tham khảo.





4


CHƢƠNG 1
VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN QUẬN

1.1. Vị trí, vai trò của cấp quận trong đời sống đô thị
Trước khi tìm hiểu về vị trí, vai trò của cấp quận trong đời sống đô thị

chúng ta phân biệt một số điểm khác nhau giữa đô thị và nông thôn.
Huyện và quận là hai hình thức của cùng một cấp hành chính nhưng
cấp quận là một cấp hành chính đặc thù của đô thị bởi nhiều yếu tố phối hợp
từ mật độ dân cư, sự tập trung và phát triển về kinh tế, văn hoá, xã hội,
thương mại, du lịch, công nghiệp. Trong khi đó, huyện (nông thôn) chủ yếu
phát triển nghề nông hoặc tiểu thủ công nghiệp truyền thống. Sở dĩ có những
điểm khác nhau đó do một số lý do sau:
Một là, về vai trò, vị trí
Quận là trung tâm văn minh, là hạt nhân, là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
Đô thị là nơi tập trung dân cư và sản xuất ở mật độ cao. Ở đây mối
quan hệ giữa con người với nhau rất chặt chẽ và gần gũi bằng một hệ thống
các công trình công cộng. Thông tin ở đây rất nhiều. Vì vậy ở đây rất dễ nẩy
sinh những tư tưởng mới, những sản phẩm mới, hình thức và phương thức
sinh hoạt mới, hình thức tổ chức mới. Họ cởi mở, biết tiếp thu những cái mới
để làm lợi cho mình. Do vậy những đô thị là trung tâm kinh tế thường là
những trung tâm đổi mới, sáng tạo và tiếp thu cái mới.
Hai là, về kinh tế
Kinh tế nông thôn là đơn ngành và chủ yếu là sản xuất nông nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp. Còn kinh tế đô thị là đa ngành, phi nông nghiệp, chủ

5
yếu là công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Kinh tế đô thị có tốc độ phát triển
cao hơn và là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước.
Quản lý nhà nước về kinh tế ở đô thị là một trong những đối tượng
quản lý quan trọng của chính quyền đô thị [20, tr. 289]. Quản lý nhà nước về
kinh tế phải hướng tới chỗ tạo ra các điều kiện cần thiết và kiểm soát được
quá trình phát triển kinh tế đô thị, mà hiệu quả cuối cùng phải đạt được là sự
tăng trưởng kinh tế theo các mục đích đặt ra. Tính đa dạng của các hoạt động
kinh tế ở đô thị làm cho hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế ở đô thị có

những nét riêng so với quản lý nhà nước về kinh tế ở nông thôn. Nét khác
nhau cơ bản ở đây là: nếu quản lý nhà nước đối với nông thôn chủ yếu là vấn
đề nông nghiệp, thì quản lý nhà nước đối với đô thị lại là vấn đề công nghiệp,
thương nghiệp, dịch vụ.
Ba là, về dân cư
Dân cư nông thôn đơn giản, thuần nhất, gắn kết với nhau từ lâu đời có
tính truyền thống và huyết thống tạo nên những bản sắc, phong tục, tập quán
riêng của từng tỉnh, huyện, xã, thôn, làng, ấp, bản. Dân cư đô thị rất đa dạng
và phức tạp. Dân cư đông đúc, tập trung với mật độ cao là đặc trưng của đô
thị. Dân cư đô thị có nguồn gốc rất khác nhau “tứ xứ” tập trung lại (dân
phường Thị Cầu - Bắc Ninh có nguồn gốc từ 27 tỉnh; dân phường Thành
Công thành phố Hà Nội có nguồn gốc từ 42 tỉnh), những người dân này sẽ
mang theo những phong tục tập quán và lối sống khác nhau của địa phương
nơi họ đã ra đi [2,tr.3].
Dân cư đô thị có trình độ học thức và dân trí cao hơn nông thôn, vì vậy
họ thường sống và làm việc theo các chuẩn mực pháp luật đã được các cơ
quan trung ương định sẵn mà không phụ thuộc vào các quy định từ các khu
dân cư đặt ra như ở các khu vực dân cư nông thôn. Cuộc sống của họ - cư dân
thành thị phụ thuộc vào mức độ công nghiệp hoá [19, tr. 10].

6
Thành phần dân cư không thuần nhất, nhu cầu cuộc sống đa dạng và
phức tạp hơn, dân ngụ cư không chính thức và dân vãng lai cũng chiếm một tỉ
lệ đáng kể. Một yếu tố khác, đô thị là nơi dân cư có thu nhập cao, nhiều người
đến để tìm kiếm việc làm, người hành khất … Do đó quản lý dân cư, hộ tịch,
hộ khẩu ở đô thị khó khăn và phức tạp gấp nhiều lần so với nông thôn, chiếm
một tỷ lệ không nhỏ trong hoạt động quản lý của chính quyền đô thị.
Bốn là, về lối sống
Cuộc sống của người dân nông thôn chủ yếu là tự túc, tự cấp, còn cuộc
sống của người dân đô thị hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường theo phương

thức mua - bán. Những nhu yếu phẩm cần cho cuộc sống hàng ngày, từ cái
nhỏ nhất như cái tăm đều do thị trường cung cấp. Bảo đảm cung cấp đủ nhu
yếu phẩm cho cuộc sống hàng ngày của người dân là trách nhiệm nặng nề của
chính quyền các đô thị. Chính quyền đô thị không chỉ có trách nhiệm bảo đảm
cung cấp nhu yếu phẩm mà còn có trách nhiệm giải quyết việc làm, tạo ra
nguồn sống cho người dân đô thị. Chính quyền nông thôn cũng phải lo cho
cuộc sống của dân song mức độ phức tạp và gay gắt không thể bằng đô thị.
Năm là, về cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng ở đô thị phức tạp gấp nhiều lần so với ở nông thôn nhất
là về giao thông, cấp, thoát nước và vệ sinh môi trường. Cơ sở hạ tầng đô thị
(nhà ở, các công trình thương nghiệp, dịch vụ công cộng, ăn uống, nghỉ
dưỡng, y tế, văn hoá, giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, thể dục thể
thao, công viên, cây xanh, giao thông, điện, nước, thông tin…) là những mạng
lưới, hệ thống đồng bộ, xuyên suốt địa bàn, không phụ thuộc vào địa giới
hành chính, đòi hỏi phải có sự quản lý tập trung, thống nhất cao, không thể
phân tán, cắt khúc.
Khi quá trình đô thị hoá diễn ra thì kéo theo nó là vấn đề nhà ở là một
trong những vấn đề xã hội bức xúc đặt ra không những ở đô thị của Việt Nam

7
mà còn ở đô thị của các nước khác trên thế giới. Một bộ phận không nhỏ
người dân đô thị không có nhà ở hoặc nhà ở chật chội, chưa có tiện nghi sinh
hoạt cần thiết ở mức tối thiểu hoặc thấp kém. Theo đà tăng dân số đô thị, nhà
ở đang và sẽ là vấn đề nóng ở đô thị. Thêm vào đó, các nơi vui chơi, giải trí
còn nghèo nàn, giá cả cao khiến một bộ phận dân cư không có khả năng tiếp
cận được các dịch vụ đó.
Sáu là, về quản lý
Ở đô thị, nội dung quản lý phức tạp, khối lượng công việc quản lý lớn
gấp nhiều lần so với nông thôn và có nhiều nội dung quản lý Nhà nước khác
với nông thôn, ở nông thôn hầu như không có nội dung quản lý Nhà nước về

nhà, xây dựng, cấp thoát nước; giao thông và vệ sinh đường phố. Trong khi
đó những nội dung trên là những vấn đề bức xúc, thường xuyên trong quản lý
Nhà nước ở đô thị.
Một ví dụ minh hoạ cho điều nhận định ở trên: kết quả thực hiện mô
hình “một cửa, một dấu” ở thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, hàng tháng
Quận I, Quận V thụ lý từ 800 - 1.200 hồ sơ, trong khi đó huyện Củ Chi chỉ
thụ lý 120 - 150 hồ sơ [2, tr. 3].
Bảy là, về địa giới hành chính
Ở đô thị, địa giới hành chính chỉ có ý nghĩa trong quản lý hành chính
Nhà nước. Còn trong các lĩnh vực khác (hoạt động, kinh tế, văn hóa, xã hội,
giao thông, cư trú….) hầu như không có khái niệm địa giới hành chính. Ở
nông thôn, địa giới hành chính trùng với các địa giới khác, nhất là địa giới
kinh tế.
Tám là, sự khác biệt giữa Quận và Huyện do quá trình đô thị hóa. Ví dụ
như: mở rộng phạm vi diện tích và dân cư của đô thị do đòi hỏi của thị
trường, của công nghiệp; sự thay đổi của nông thôn thành đô thị ở một số
vùng do sự hình thành các trung tâm kinh tế, thương mại, du lịch và công

8
nghiệp. Tốc độ đô thị hoá mạnh mẽ đã kéo theo những hệ quả tất yếu là sự đa
dạng thành phần dân cư, sự phức tạp về an ninh chính trị, an toàn xã hội cũng
như các tệ nạn xã hội phát triển cao.
Từ những đặc điểm khác nhau giữa đô thị và nông thôn, đòi hỏi cấp
quận phải có hình thức quản lý địa bàn phù hợp đồng thời đòi hỏi cán bộ công
chức phải thích ứng. Cùng là cơ quan hành chính nhà nước ngang cấp nhưng
nhiệm vụ quản lý địa phương của Uỷ ban nhân dân cấp quận phức tạp và nặng
nề hơn nhiều so với cấp huyện do các yếu tố vừa phân tích ở trên đem lại.
Phân tích về tầm quan trọng của quản lý hành chính cấp Quận (Huyện)
có một số quan điểm cho rằng không nhất thiết phải tồn tại cấp quận (huyện)
với tư cách là một cấp chính quyền đầy đủ. Ở quận (huyện) không cần thiết

phải có Hội đồng nhân dân mà chỉ nên có cơ quan hành chính thuần tuý với
tính chất là “cánh tay hành chính nối dài” của chính quyền cấp thành phố
(tỉnh) trên địa bàn quận (huyện). Đồng thời, cũng có quan điểm cho rằng tổ
chức bộ máy hành chính cấp quận (huyện) không nhất thiết phải có ở tất cả
mọi địa phương mà tuỳ thuộc vào yêu cầu thực tế, thậm chí trong một địa
phương có thể có nơi cần tổ chức bộ máy hành chính quận (huyện), có nơi lại
không cần như kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới.
Quan điểm này xuất phát từ thực tiễn quản lý nhà nước ta những năm
1946. Theo Hiến pháp Việt Nam năm 1946 quy định tất cả các cấp hành chính
- lãnh thổ đều có cơ quan hành chính (xã, huyện, tỉnh, kỳ) nhưng không phải
cấp hành chính - lãnh thổ nào cũng có Hội đồng nhân dân mà chỉ có cấp xã và
cấp tỉnh có Hội đồng nhân dân, đối với cấp huyện chỉ có cơ quan hành chính
trung gian thay mặt chính quyền tỉnh quản lý các xã trong huyện.
Trên cơ sở khoa học và thực tiễn, trong điều kiện cụ thể của nước ta,
xây dựng, kiện toàn hai cấp chính quyền địa phương đầy đủ gồm cấp Tỉnh,
Thành phố trực thuộc trung ương và cấp xã, phường, thị trấn là một mô hình

9
khá lý tưởng. Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò trung gian đắc lực của
cấp quận (huyện) trong quản lý hành chính nhà nước ở địa phương hiện nay.
Bởi thực tế, chính quyền cấp Thành phố (Tỉnh) và cấp phường (xã) chưa đủ
mạnh để thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước trên địa bàn một cách có hiệu
lực, hiệu quả. Vì vậy, vai trò của cấp quản lý hành chính trung gian lại trở nên
quan trọng trong điều chỉnh mọi quan hệ xã hội xuyên suốt từ trung ương đến
cơ sở. Do đó, để xây dựng mô hình chính quyền hai cấp đòi hỏi chính quyền
cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải kiện toàn đủ mạnh để chỉ đạo
trực tiếp đến cấp xã mà không cần phải thông qua một cấp trung gian nào nữa,
đồng thời cấp xã cũng phải được xây dựng, kiện toàn đúng với tầm của chính
quyền cơ sở và được phân cấp nhiều hơn nữa về chức năng, thẩm quyền quản
lý nhà nước. Đây là một vấn đề còn khá xa. Do vậy, chúng ta phải từng bước

nâng cao dần hiệu quả hoạt động của các cấp chính quyền một cách đồng bộ,
xuyên suốt từ cấp thành phố (tỉnh), quận (huyện), phường(xã).
1.2. Khái quát sự hình thành và phát triển của chế định Uỷ ban nhân dân
Quận
Chính quyền cấp quận là một cấp chính quyền nhân tạo chứ không phải
là chính quyền tự nhiên. Chúng ta tìm hiểu cấp quận xuất hiện từ khi nào
trong lịch sử chính quyền địa phương ở Việt Nam.
Giai đoạn từ 2/9/1945 đến năm 1959
Giai đoạn này được đánh dấu bằng Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 về
tổ chức HĐND và UBHC xã, huyện, tỉnh, kì và Sắc lệnh số 77 ngày
21/12/1945 về tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã và thành phố.
Trong điều kiện toàn quốc kháng chiến, Chính phủ đã ban hành nhiều
sắc lệnh để sửa đổi bổ sung sắc lệnh số 63 và 77 cho phù hợp với tình hình
đất nước còn chiến tranh. Theo sắc lệnh ngày 20/12/1946 và Thông lệnh liên
Bộ quốc phòng - nội vụ ngày 18/12/1946 cấp kì tạm bỏ, cả nước được chia

10
thành 16 chiến khu. Sau đó, theo Sắc lệnh ngày 25/11/1948 các chiến khu
được xác nhập thành 10 liên khu kháng chiến. Dưới chiến khu hoặc liên khu
vẫn là những đơn vị hành chính tỉnh, thành phố, thị xã, huyện, xã. Thời kỳ
này bên cạnh Uỷ ban hành chính, Uỷ ban bảo vệ được thành lập để giải quyết
những vấn đề kháng chiến. Theo thông lệnh liên Bộ nội vụ - quốc phòng ngày
31/12/1946 Uỷ ban bảo vệ được gọi là Uỷ ban kháng chiến và sắc lệnh ngày
01/10/1947 Uỷ ban kháng chiến và Uỷ ban hành chính hợp nhất thành Uỷ ban
kháng chiến - hành chính. Ngày 31/5/1958 Chủ tịch nước đã ban bố Luật số
110 (do Quốc hội khoá I kì họp thứ 8 thông qua) về tổ chức chính quyền địa
phương. Sau khi Hiến pháp năm 1959 ban hành, Luật tổ chức Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban hành chính năm 1962 đánh dấu một giai đoạn mới trong tổ
chức chính quyền địa phương ở nước ta.
Phân tích các quy định của pháp luật và hoạt động thực tiễn của chính

quyền địa phương trong giai đoạn này chúng ta có thể đưa ra các nhận xét sau
đây về mặt ưu điểm của chính quyền địa phương:
- Đã có sự phân biệt giữa quản lí đô thị và quản lí nông thôn, vì Chính
phủ đã ban hành sắc lệnh riêng để quy định về tổ chức chính quyền nông thôn
(Sắc lệnh số 63) và về tổ chức chính quyền đô thị (Sắc lệnh số 77). Theo sắc
lệnh số 63, ở nông thôn chính quyền được tổ chức thành 3 cấp trong đó có 2
cấp chính quyền hoàn chỉnh là cấp tỉnh và cấp xã vừa có Hội đồng nhân dân
và Uỷ ban hành chính, còn cấp huyện chỉ có Uỷ ban nhân dân vì được coi là
cấp trung gian. Ở Thành phố, theo Sắc lệnh số 77 chỉ có một số cấp chính
quyền hoàn chỉnh đó là cấp thành phố có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân còn khu phố chỉ có Uỷ ban hành chính mà không có Hội đồng nhân dân.
Quy định này hoàn toàn hợp lí bởi ở các thành phố, đô thị là một quần cư
không thể chia cắt như các tỉnh chia thành huyện được.

11
- Pháp luật quy định rất rõ ràng, cụ thể về quyền, trách nhiệm pháp lí
của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân với các chế tài cụ thể có thể áp
dụng một cách dễ dàng.
Ví dụ, Sắc lệnh 63 và Sắc lệnh 77 quy định cơ quan hành chính cấp
trên có quyền chuẩn y kết quả bầu cử Uỷ ban hành chính và Hội đồng nhân
dân cấp dưới nhưng trong thời hạn 5 ngày (Uỷ ban hành chính huyện) hoặc 15
ngày (Uỷ ban hành chính kì) phải có văn bản trả lời cấp dưới. Nếu từ chối
chuẩn y thì Uỷ ban hành chính cấp trên phải nói rõ lí do. Uỷ viên Uỷ ban
hành chính nào không được chuẩn y phải bầu lại nhưng nếu bầu lại vẫn trúng
cử Uỷ ban hành chính thì cấp trên phải chuẩn y kết quả bầu đó (Điều 68, 73,
82, 87 Sắc lệnh 63, Điều 33, 47 Sắc lệnh 77). Sắc lệnh số 63 quy định :”Khi
Hội đồng nhân dân xã hoặc tỉnh ra nghị quyết trái với mệnh lệnh cấp trên thì
ngoài việc thủ tiêu nghị quyết đó, Uỷ ban hành chính cấp trên còn cảnh cáo
Hội đồng nhân dân và nếu Hội đồng nhân dân vẫn không tuân lệnh thì Uỷ
ban hành chính tỉnh có quyền giải tán Hội đồng nhân dân xã và Chính phủ có

quyền giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh” (Điều 8, Điều 38). Điều 2 Sắc lệnh số
117 ngày 2/7/1946 “Về bổ sung Sắc lệnh số 63 và Sắc lệnh số 77” quy định:
“Nếu đại biểu Hội đồng nhân dân nào vắng mặt 3 kì họp Hội đồng nhân dân
liên tiếp mà không có lí do hoặc lí do không chính đáng sẽ bị mất quyền đại
biểu”.
Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
Ở giai đoạn này, chính quyền địa phương được tổ chức và hoạt động
trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban hành chính năm 1962. Ở nông thôn có ba cấp chính quyền là
tỉnh, huyện , xã, còn thành phố trực thuộc trung ương (ở nội thành) có hai cấp
là thành phố và khu phố. Các huyện ngoại thành thì tổ chức như ở nông thôn.

12
Như vậy, cho đến thời kỳ này vẫn có 2 mô hình tổ chức chính quyền
địa phương khác nhau. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính
năm 1962 có những điều khoản riêng quy định nhiệm vụ quyền hạn của Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính thành phố (Điều 17, 46 và khu phố
(Điều 18, 47).
Đáng lưu ý là từ năm 1947 với Quyết định số 78/CP ngày 10/04/1974
của Hội đồng Chính phủ các khu phố của Thành phố Hà Nội và Hải Phòng
chia ra nhiều khu nhỏ gọi là tiểu khu với quy mô từ 2000 đến 5000 nhân
khẩu. Mỗi tiểu khu có một cơ quan đại diện của Uỷ ban hành chính khu phố
gọi là ban đại diện hành chính tiểu khu. Ban đại diện hành chính tiểu khu là tổ
chức mang tính tự quản của nhân dân tiểu khu, không phải là cấp chính quyền
hay là đơn vị hành chính lãnh thổ.
Phân tích quy định của pháp luật và thực tiễn tổ chức chính quyền địa
phương trong thời gian này, chúng ta có thể rút ra các nhận xét sau đây:
Uỷ ban hành chính là cơ quan hành chính của Nhà nước ở địa phương.
Uỷ ban hành chính cấp trên chỉ có quyền đình chỉ những nghị quyết không
thích đáng của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp, còn quyền bãi bỏ những

nghị quyết này là của Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp.
- So với Sắc lệnh số 63 và Sắc lệnh 77 năm 1945, Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp năm 1962 thu hẹp phạm vi
những vấn đề chính quyền cấp trên phê chuẩn những quyết định của chính
quyền cấp dưới. Chỉ những vấn đề đặc biệt quan trọng, thông thường là liên
quan đến vấn đề tổ chức như Uỷ ban hành chính cấp trên phê chuẩn kết quả
bầu cử Uỷ ban hành chính cấp dưới. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân giải
tán Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp phải được Hội đồng nhân dân cấp
trên trực tiếp phê chuẩn. Những quy định này nhằm tăng cường tính chủ
động, sáng tạo cho chính quyền các cấp.

13
Giai đoạn từ năm 1980 đến 1992
- Để hạn chế tình trạng tuỳ tiện, làm thiệt hại quyền lợi của công dân
trong lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan chính quyền địa
phương, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 quy định từ nay ở
địa phương chỉ có Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
mới có thẩm quyền ban hành văn bản quy định về vi phạm hành chính, nếu
những hành vi này chưa được Chính phủ quy định (trước đây Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân các cấp đều có thẩm quyền ban hành văn bản quy
định về các hành vi vi phạm hành chính và mức độ, hình thức xử phạt hành
chính ).
Tuy nhiên, pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của chính quyền
địa phương trong giai đoạn này cũng có những hạn chế sau đây:
- Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1983 đã bỏ
bộ phận thường trực Uỷ ban nhân dân để mọi vấn đề thuộc thẩm quyền Uỷ
ban nhân dân đều phải bàn bạc giải quyết tập thể và biểu quyết theo đa số tại
phiên họp của Uỷ ban nhân dân. Quy định này về mặt lí thuyết có vẻ hợp lí
nhưng thực tiễn chỉ ra rằng các công việc chấp hành, điều hành của Uỷ ban
nhân dân đòi hỏi sự phản ứng nhanh nhạy, không phải khi nào cũng có điều

kiện để bàn bạc tập thể được.
- Hiến pháp năm 1980, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân năm 1983 đồng nhất hoá các cấp tổ chức chính quyền địa phương ở
nông thôn cũng như thành thị. Có thể thấy rằng đây là bước thụt lùi trong việc
tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta.
- Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1983 (sửa
đổi năm 1989) đã hạn chế sự kiểm soát của Uỷ ban nhân dân cấp trên đối với
Uỷ ban nhân dân cấp dưới bằng quy định chỉ có Hội đồng nhân dân cùng cấp
có quyền bãi nhiệm Uỷ ban nhân dân. Quy định này đã tăng quyền lực theo

14
chiều ngang (cho Hội đồng nhân dân cùng cấp) nhưng đã hạn chế quyền lực
theo chiều dọc (Uỷ ban hành chính cấp trên đối với cấp dưới).
Giai đoạn từ năm 1992 đến nay
Các văn bản pháp luật chủ yếu điều chỉnh hoặc liên quan đến hoạt động
của chính quyền địa phương trong thời gian này là Hiến pháp 1992; Luật tổ
chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân do Quốc hội thông qua ngày
5/7/1994; Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996; Luật sửa đổi
bổ sung một số điều của Luật tổ chức toà án nhân dân (28/10/1995); Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính 1995; Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính 1996, sửa đổi bổ sung năm 1998; Luật tổ chức Hội đồng nhân dân
và Uỷ ban nhân dân năm 2003, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2004.
So với các giai đoạn trước đây, Hiến pháp năm 1992, Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1994, Luật tổ chức Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003 vẫn xác định Hội đồng nhân dân là cơ
quan quyền lực của nhà nước ở địa phương, Uỷ ban nhân dân vẫn là cơ quan
chấp hành của Hội đồng nhân dân và cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương.
Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1992 và luật tổ chức Hội đồng nhân dân và

Uỷ ban nhân dân năm 1994 đã mở rộng quyền hạn và tăng cường trách nhiệm
của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp, tăng cường tính tập trung thống nhất
của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có
những quyền hạn trước đây thuộc về Uỷ ban nhân dân như đình chỉ việc thi
hành hoặc bãi bỏ những văn bản sai trái của Uỷ ban nhân dân cấp dưới, đình
chỉ thi hành nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân cấp dưới và đề nghị
Hội đồng nhân dân cấp mình bãi bỏ những nghị quyết đó. Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân có quyền phê chuẩn kết quả bầu, bãi miễn các thành viên Uỷ ban

15
nhân dân cấp dưới trực tiếp (Điều 52 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân năm 1994).
- Một bước tiến mới trong việc hoàn thiện tổ chức của chính quyền địa
phương ở nước ta là việc ban hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2004. Văn bản của chính
quyền cấp huyện, quận có hiệu lực sau 7 ngày kể từ ngày ký hoặc thông qua,
của cấp xã phường có hiệu lực sau 5 ngày kể từ ngày ký hoặc thông qua nếu
trong các văn bản quy phạm pháp luật đó không xác định cụ thể ngày phát
sinh hiệu lực. Mặt khác, để đảm bảo tính công khai minh bạch của văn bản
quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương luật này quy định các văn
bản chính quyền cấp huyện, quận phải được niêm yết công khai trong vòng 3
ngày kể từ ngày ký hoặc thông qua. Đây là một bước tiến bộ đáng kể, đáp ứng
những nguyên tắc mới của pháp luật theo xu hướng hội nhập quốc tế và toàn
cầu hoá [23, tr 2-6].
Thứ hai, về số lượng thành viên Uỷ ban nhân dân cấp quận thì không
có gì thay đổi, tổng số vẫn là 09 thành viên nhưng có sự thay đổi về số phó
chủ tịch uỷ ban nhân dân quận.
Theo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 1994
thì số phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận là hai Phó chủ tịch, số uỷ viên ủy
ban nhân dân là 6 Uỷ viên.

Còn theo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm
2003 thì số phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận là 3 phó chủ tịch, số uỷ viên
uỷ ban nhân dân là 5 uỷ viên.
Hiện nay chúng ta đã tăng số phó chủ tịch Ủy ban nhân dân ( một phó
chủ tịch) và giảm số uỷ viên Uỷ ban nhân dân (một uỷ viên).
Ở một số nước trên thế giới, họ có tồn tại chính quyền cấp quận. Ở đây,
cấp quận đóng một vai trò khá quan trọng trong đời sống đô thị.

16
Ví dụ ở Canada họ quan niệm quận là một cấp quyết định và tham mưu
mới, thành lập trên lãnh thổ các thành phố lớn chính quyền cấp quận có một
số nhiệm vụ, quyền hạn. Việc thành lập các quận nhằm bảo vệ tính đặc thù
của các địa phương trong việc giải quyết các vấn đề và cung cấp các dịch vụ
trực tiếp phục vụ công dân. Nó là cấp gần dân nhất và có tác động của địa
phương, cơ sở. Những dịch vụ cấp này cung cấp có thể điều chỉnh theo nhu
cầu của công dân. Quận là điểm kết nối giữa công dân và hoạt động quản lý
của thành phố.
Trách nhiệm của quận
- Quận quản lý công viên, trang thiết bị thể thao, văn hoá giải trí tại địa
phương;
- Phát triển kinh tế địa phương cộng đồng và xã hội;
- Tổ chức lấy ý kiến của công chúng đối với quy hoạch vùng;
- Tiến hành điều chỉnh nhỏ liên quan đến quy hoạch đô thị;
- Cấp phép xây dựng;
- Thu gom rác thải;
- Quản lý các hệ thống đường địa phương.
Họ quan niệm quận như là thành phố nhỏ trong thành phố lớn. Sơ đồ tổ
chức của Quận:
- Phòng văn hoá, giải trí và đời sống cộng đồng: thể thao, giải trí, nghệ
thuật văn hoá;

- Phòng quan hệ với công dân: giải quyết các vấn đề công dân;
- Phòng quản lý lãnh thổ;
Trong việc cung cấp dịch vụ đòi hỏi phải có tính linh hoạt, hiệu quả
cao. Trước hết cần hiểu nhiệm vụ nào do thành phố đảm nhiệm, dịch vụ nào
do thành phố cung cấp.

17
- Thành phố có trách nhiệm cung cấp sự hỗ trợ cần thiết cho hoạt động
cấp quận.
- Thành phố chăm lo sự gắn kết giữa những sáng kiến đưa ra trên toàn
thành phố. Quận là cầu nối chủ yếu giữa công dân và thành phố.
- Thành phố đảm nhiệm công việc đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực.
Khả năng quản lý trong tương lai, theo đặc thù các quận:
- Các quận có thể được cấp hạn mức ngân sách riêng;
- Các quận có thể đánh thuế và điều chỉnh thuế theo dịch vụ họ cung
cấp [6, tr. 29].
1.3. Tính chất của Uỷ ban nhân dân quận
1.3.1. Uỷ ban nhân dân quận là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân
dân cùng cấp, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
Chỉ duy nhất ở Hiến pháp năm 1946, Uỷ ban hành chính được xác định
chức năng, nhiệm vụ: chịu trách nhiệm đối với cấp trên và đối với hội
đồng nhân dân địa phương mình.
Từ luật tổ chức chính quyền địa phương năm 1958 đến nay, Uỷ ban
nhân dân được xác định là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng
cấp, là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm và báo
cáo công tác trước hội đồng nhân dân cùng cấp, chịu sự lãnh đạo thống nhất
của chính phủ. Theo Điều 123 Hiến pháp năm 1992 “ Uỷ ban nhân dân do hội
đồng nhân dâu bầu là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân, cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp,

luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và Nghị quyết của hội
đồng nhân dân” [4].
Với tính chất là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân quận là một bộ phận của chính quyền quận, do Hội đồng nhân dân

18
quận bầu ra, chịu trách nhiệm về việc triển khai, tổ chức thực hiện các nghị
quyết của Hội đồng nhân dân, biến các nội dung của nghị quyết hội đồng
nhân dân thành hiện thực. Trên cơ sở các quy định trong các văn bản của cơ
quan nhà nước cấp trên và của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân họp để
thông qua và chỉ đạo triển khai thực hiện.
Là cơ quan song trùng trực thuộc, Uỷ ban nhân dân quận chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Uỷ ban nhân dân quận chịu trách nhiệm thi hành những Nghị quyết của
hội đồng nhân dân, chịu sự giám sát của hội đồng nhân dân quận.
Hội đồng nhân dân có quyền bãi miễn những thành viên của Uỷ ban
nhân dân, giám sát, sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng
của Uỷ ban nhân dân.
Các cơ quan hành chính nhà nước theo luật định là Chính phủ và Uỷ
ban nhân dân các cấp. Những cơ quan này giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong
hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước. Phạm vi thẩm quyền của những
cơ quan này không bị giới hạn trong ngành hay lĩnh vực. Chúng là những cơ
quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung, thực hiện chức năng quản lý
hành chính nhà nước toàn diện trên địa bàn hành chính lãnh thổ tương ứng.
Quốc hội và Uỷ ban thường vụ quốc hội quy định về tổ chức, nhiệm vụ, cách
thức thành lập các cơ quan này nên chức năng, nhiệm vụ và cách thức tổ chức
bộ máy các cơ quan này tương đối ổn định.
1.3.2.Nhiệm vụ, quyền hạn của uỷ ban nhân dân quận
Một là, trong lĩnh vực quản lý nhà nước

Đây là lĩnh vực chủ yếu, bao trùm lên toàn bộ hoạt động của Uỷ ban
nhân dân. Uỷ ban nhân dân thống nhất quản lý hành chính ở địa phương về
chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh - quốc phòng… đảm bảo cho hiến

19
pháp và pháp luật được thực hiện ở địa phương. Để thực hiện quản lý hành
chính ở địa phương, Uỷ ban nhân dân xây dựng các kế hoạch, qui hoạch, đề
án phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải, nông
nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp… Dự toán thu, chi ngân sách nhà nước ở địa
phương trình Hội đồng nhân dân thông qua. Sau khi được Uỷ ban nhân dân
cấp trên trực tiếp hoặc Chính phủ phê chuẩn, Uỷ ban nhân dân tổ chức thực
hiện các kế hoạch, qui hoạch, đề án đó ở địa phương.
Uỷ ban nhân dân phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước chuyên
ngành cấp trên trong việc quản lý ngân sách nhà nước theo lĩnh vực trên địa
bàn; chỉ đạo, kiểm tra cơ quan thuế và cơ quan được nhà nước khác giao
nhiệm vụ thu ngân sách tại địa phương; thực hiện các chương trình khuyến
nông, khuyến lâm, khuyến ngư, quản lý việc sử dụng đất đai, quản lý việc
khai thác và bảo vệ nguồn tài nguyên nước, khai thác và bảo vệ các công trình
thuỷ lợi vừa và nhỏ; quản lý bảo vệ hệ thống đê điều, các công trình chống
bão lụt; tổ chức quản lý các công trình giao thông đô thị, vệ sinh môi trường
đường bộ và đường sông ở địa phương theo qui định của pháp luật; quản lý
việc thực hiện các chính sách về nhà ở, chỉ đạo công tác quản lý thị trường;
quản lý hộ tịch, hộ khẩu, việc đi lại của người nước ngoài ở địa phương; quản
lý các hoạt động văn hoá, giáo dục - đào tạo, thông tin, thể dục, thể thao ở địa
phương.
Hai là, trong lĩnh vực pháp luật
Là cơ quan quản lý hành chính nhà nước ở địa phương, Uỷ ban nhân
dân quản lý cơ sở vật chất, tài chính và nhân lực cũng như những tiềm năng
khác của địa phương. Do đó, Uỷ ban nhân dân có điều kiện tổ chức thực hiện
các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước ở cấp trên và nghị quyết của

Hội đồng nhân dân cùng cấp. Từ thực tiễn của việc áp dụng các văn bản pháp
luật của các cơ quan nhà nước ở cấp trên vào hoạt động quản lý nhà nước ở

20
địa phương, Uỷ banh nhân dân đề xuất những kế hoạch (dài hạn, hàng năm),
những qui hoạch (đất đai, giao thông vận tải, đô thị…) những đề án chuyển
dịch cơ cấu kinh tế … trên cơ sở đó Hội đồng nhân dân cùng cấp xem xét
quyết định. Tuyệt đại đa số các dự án về kế hoạch, dự toán và quyết toán ngân
sách nhà nước ở địa phương về qui hoạch và các dự án đưa ra thảo luận và
biểu quyết tại kỳ họp Hội đồng nhân dân là do sự chủ động, năng động, đề
xuất của Uỷ ban nhân dân. Vì vậy hiệu quả của kỳ họp Hội đồng nhân dân và
tính khả thi của Nghị quyết mà Hội đồng nhân dân thông qua phụ thuộc rất
nhiều vào sáng kiến và năng lực của Uỷ ban nhân dân.
Từ thực tiễn của việc áp dụng văn bản pháp luật của các cơ quan nhà
nước cấp trên ở địa phương, Uỷ ban nhân dân kiến nghị với các cơ quan nhà
nước đó ban hành mới, bổ sung, sửa đổi hoặc huỷ bỏ văn bản pháp luật cho
phù hợp với thực tiễn đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.
Trên cơ cở những quy định của các cơ quan nhà nước cấp trên và nghị
quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp cũng như tình hình thực tế ở địa
phương, Uỷ ban nhân dân ban hành các quyết định, chỉ thị để cụ thể hoá
những văn bản đó vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở địa phương.
Uỷ ban nhân dân phải tổ chức, chỉ đạo công tác thanh tra nhà nước, tiếp
nhận giải quyết các khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân; tổ chức, chỉ
đạo công tác thi hành án ở địa phương; tổ chức, chỉ đạo công tác hộ tịch, thực
hiện công chứng, giám định tư pháp, quản lý tổ chức luật sư và tư vấn luật
pháp; quyết định xử lý vi phạm hành chính.
Uỷ ban nhân dân có nhiệm vụ tuyên truyền pháp luật để nhân dân địa
phương hiểu và tuân theo pháp luật.
Ba là, trong lĩnh vực xây dựng chính quyền nhà nước.
Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc tổ chức, chỉ đạo

thực hiện bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Uỷ ban

21
nhân dân phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân, với Uỷ ban mặt trận
tổ quốc cùng cấp và các tổ chức thành viên của mặt trận trong việc tuyên
truyền và chuẩn bị các điều kiện cho bầu cử. Kết quả các cuộc bầu cử đại biểu
Quốc hội và Hội đồng nhân dân phụ thuộc rất nhiều vào công tác tổ chức, chỉ
đạo của Uỷ ban nhân dân.
- Uỷ ban nhân dân căn cứ vào các qui định của Chính phủ cũng như
trong thực tiễn hoạt động quản lý quyết định thành lập mới, sáp nhập hoặc
giải thể, quyết định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các cơ quan chuyên môn,
tổ chức sự nghiệp thuộc Uỷ ban nhân dân để giúp Uỷ ban nhân dân quản lý
những ngành và lĩnh vực nhất định ở địa phương.
- Uỷ ban nhân dân xây dựng đề án phân vạch, điều chỉnh địa giới các
đơn vị hành chính trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua trước khi trình
cấp trên xem xét quyết định, đối với đề án phân vạch, điều chỉnh địa giới các
đơn vị hành chính cấp tỉnh thì Uỷ ban nhân dân trình Hội đồng nhân dân tỉnh
thông qua để đề nghị Chính phủ trình Quốc hội xem xét quyết định.
- Quản lý công tác tổ chức, biên chế, lao động, tiền lương theo phân
cấp của Chính phủ, tổ chức việc khen thưởng, thực hiện chính sách, chế độ
đối với cán bộ, viên chức nhà nước trên địa bàn theo qui định của pháp luật.
Riêng đối với Uỷ ban nhân dân tỉnh phải tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội
ngũ viên chức nhà nước và cán bộ cấp xã, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà
nước cho đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện và cấp xã theo hướng dẫn
của Chính phủ.
Bốn là, trong lĩnh vực kiểm tra giám sát
Uỷ ban nhân dân kiểm tra, giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật và các
văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân
cùng cấp trong cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế địa phương.


22
Uỷ ban nhân dân kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới,
dự toán ngân sách và quyết toán ngân sách ở địa phương, kiểm tra việc thực
hiện qui hoạch, kế hoạch của Uỷ ban nhân dân cấp dưới.
Uỷ ban nhân dân tổ chức chỉ đạo công tác thanh tra nhà nước, tổ chức
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân; tổ chức chỉ
đạo công tác thanh tra, kiểm tra cơ quan thuế và các cơ quan khác được nhà
nước giao nhiệm vụ thu ngân sách tại địa phương; chỉ đạo thanh tra việc chấp
hành chính sách, pháp luật về khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường đối
với tổ chức, cá nhân ở địa phương; kiểm tra việc thực hiện các quy định của
pháp luật về tiêu chuẩn đo lường và chất lượng sản phẩm để ngăn chặn việc
sản xuất và lưu hành hàng giả tại địa phương, bảo vệ quyền lợi của người tiêu
dùng.
- Uỷ ban nhân dân chỉ đạo việc thực hiện các quy định về quản lý hộ
khẩu, quản lý việc cư trú, đi lại của người nước ngoài ở địa phương, tổ chức
kiểm tra việc thực hiện các thể lệ, quy tắc, biện pháp phòng cháy, chữa cháy,.
trật tự an toàn giao thông và an toàn xã hội [14].
So sánh nhiệm vụ quyền hạn của chính quyền địa phương của một
số nước khác trên thế giới
Về kiểm tra, giám sát việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương
Khác với ở Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa, chính quyền địa
phương ở các nước được tổ chức theo nguyên tắc tự quản, với các mô hình
khác nhau. Các cơ quan tự quản địa phương không nằm trong cơ cấu tổ chức
bộ máy Nhà nước, có tính độc lập với chính quyền cấp trên (và cả chính
quyền trung ương) khi giải quyết các vấn đề của địa phương theo thẩm quyền
riêng của mình đã được Hiến pháp và luật quy định. Các cơ quan tự quản địa
phưong có tài sản riêng, ngân sách riêng, viên chức tự quản riêng, có quyền

23

ban hành điều lệ, quy chế riêng… nhưng không được trái với Hiến pháp và
luật của chính quyền Trung ương. Vì vậy, sự kiểm tra, giám sát việc thi hành
Hiến pháp và pháp luật ở địa phương ở các nước trước hết và chủ yếu do các
cơ quan chính quyền Trung ương và đặc biệt là toà án thực hiện. Để bảo đảm
thi hành Hiến pháp và pháp luật của nhà nước ở địa phương, các nước áp
dụng các hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát khác nhau, phụ thuộc vào
mô hình tổ chức chính quyền địa phương của các nước.
Ở những nước theo mô hình của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa
như: Pháp, Italia, Cộng hoà liên bang Đức…, chính quyền Trung ương
thường áp dụng chế độ "giám hộ hành chính" tương đối chặt chẽ đối với hoạt
động của chính quyền địa phương. Giám hộ hành chính thể hiện bằng các
hình thức sau:
- Đặt những đại diện của chính phủ ở địa phương để kiểm soát hoạt
động của các cơ quan tự quản địa phương;
- Quyền của cơ quan chính quyền Trung ương phê chuẩn hay bãi bỏ
những văn bản của cơ quan tự quản địa phương;
- Quyền của chính quyền Trung ương được bãi chức người đứng đầu cơ
quan hành chính địa phương, giải tán cơ quan dân cử địa phương và tổ chức
bầu lại cơ quan dân cử này [22, tr. 358-366].
Ở những nước theo mô hình của hệ thống pháp luật ăng lô sác xông
như: Anh, Mỹ, Canada…, chính quyền Trung ương không áp dụng sự kiểm
soát chặt chẽ và trực tiếp đối với các cơ quan tự quản địa phương theo kiểu
"giám hộ hành chính ", không có đại diện của chính quyền Trung ương đặt ở
địa phương. Chính quyền Trung ương cung cấp cho chính quyền địa phương
"những bản chỉ dẫn", ban hành các chỉ thị, quyết định có tính bắt buộc thực
hiện đối với chính quyền địa phương. Pháp luật còn quy định những vấn đề
thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng tự quản địa phương, nhưng những

×