Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính tại thành phố Huế trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 118 trang )

MỤC LỤC


LỜI CAM ĐOAN
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
A. MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 3
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 4
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 6
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài 6
7. Kết cấu của luận văn 7
B. PHẦN NỘI DUNG 8
Chương 1: CƠ SỎ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC 8
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH 8
1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức 8
1.1.2. Vị trí, vai trò của cán bộ, công chức hành chính nhà nƣớc 18
1.1.3. Đặc điểm cán bộ, công chức 20
1.1.4. Phân loại công chức 23
1.2. CHẤT LƢỢNG, CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƢỢNG CÁN
BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC 24
1.2.1. Chất lƣợng cán bộ, công chức 24
1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lƣợng cán bộ, công chức hành chính 27
1.2.3. Các nhân tố cơ bản ảnh hƣởng đến chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công
chức hành chính Nhà nƣớc 33
1.2.4. Nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính
nhà nƣớc 37
Chương 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH TẠI THÀNH PHỐ HUẾ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 49


2.1. MỘT SỐ ĐIỀU KIỆN VỀ TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI ẢNH
HƢỞNG ĐẾN CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
HÀNH CHÍNH TẠI THÀNH PHỐ HUẾ 49
2.1.1. Điều kiện tự nhiên 49
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 50
2.2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC TẠI THÀNH PHỐ HUẾ 55
2.3. THỰC TRẠNG CHẤT LƢỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH
CHÍNH TẠI THÀNH PHỐ HUẾ. 57
2.3.1. Chất lƣợng cán bộ, công chức hành chính theo trình độ đào tạo 57
2.3.2. Chất lƣợng cán bộ, công chức hành chính theo kỹ năng công việc 62
2.3.3. Chất lƣợng đội ngũ công chức hành chính theo cơ cấu độ tuổi và
giới tính 62
2.3.4. Đánh giá chung về chất lƣợng cán bộ, công chức hành chính tại
thành phố Huế 63
2.4. NGUYÊN NHÂN ẢNH HƢỞNG ĐẾN CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH TẠI THÀNH PHỐ HUẾ. 65
2.4.1. Nguyên nhân khách quan 65
2.4.2. Nguyên nhân chủ quan 67
Chương 3: MỤC TIÊU, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
HÀNH CHÍNH TẠI THÀNH PHỐ HUẾ TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY 71
3.1. MỤC TIÊU 71
3.1.1. Mục tiêu tổng quát 71
3.1.2. Mục tiêu cụ thể 71
3.2. PHƢƠNG HƢỚNG 72
3.2.1. Những quan điểm và phƣơng hƣớng xây dựng nhằm nâng cao chất
lƣợng của đội ngũ cán bộ, công chức 72
3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CỦA

ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH 89
3.3.1. Tăng cƣờng công tác giáo dục chính trị, đạo đức, lý tƣởng cách mạng
cho mỗi cán bộ, công chức, để họ có sự nhận thức đúng đắn về vị trí,
vai trò và trách nhiệm của mình đối với nhân dân, đất nƣớc 89
3.3.2. Đổi mới nâng cao chất lƣợng thi tuyển đối với công chức, và thi
nâng ngạch đối với công chức, đảm bảo nguyên tắc công khai,
minh bạch và khách quan 92
3.3.3. Tạo dựng môi trƣờng và động lực làm việc lành mạnh, hiệu quả 92
3.3.4. Tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát 93
3.3.5. Có cơ chế ràng buộc ngƣời cán bộ, công chức gần dân, hiểu dân để
phục vụ nhân dân 94
3.3.6. Nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức 96
3.4. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH TẠI THÀNH PHỐ HUẾ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 99
3.4.1. Xác định tiêu chuẩn chức danh và xây dựng bản tiêu chuẩn chức
danh cán bộ, công chức hành chính nhà nƣớc 99
3.4.2. Hoàn thiện công tác tuyển dụng công chức hành chính nhà nƣớc 100
3.4.3. Hoàn thiện công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ, công chức hành
chính nhà nƣớc 101
3.4.4. Không ngừng nâng cao chất lƣợng công tác đào tạo, bồi dƣỡng đội
ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nƣớc 101
3.4.5. Giải pháp về công tác sử dụng công chức hành chính nhà nƣớc 102
3.4.6. Nâng cao tinh thần và đạo đức, đẩy mạnh đấu tranh chống tham
nhũng, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, công chức hành chính tại
thành phố Huế 103
3.4.7. Về chính sách tiền lƣơng, chính sách thu hút nhân tài 106
3.4.8. Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế cần hoàn thiện các văn bản
liên quan đến cán bộ, công chức hành chính 107
C. PHẦN KẾT LUẬN 108

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 111


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
GS: Giáo sƣ
HĐND: Hội đồng nhân dân
Nxb: Nhà xuất bản
PGS: Phó Giáo sƣ
Tr: Trang
TS: Tiến sĩ
UBND: Uỷ ban nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa

1
A. MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đội ngũ cán bộ, công chức hành chính đóng vai trò quan trọng trong hệ
thống chính trị nói chung và hệ thống hành chính ở nƣớc ta nói riêng. Nếu
nhƣ nhà nƣớc là trụ cột của hệ thống chính trị, thì đội ngũ cán bộ, công chức
hành chính là lực lƣợng quan trọng vận hành cỗ máy hành chính nhà nƣớc,
giúp guồng máy hành chính hoạt động thông suốt từ Trung ƣơng đến địa
phƣơng. Nói cách khác, đội ngũ cán bộ, công chức đƣợc coi nhƣ "xƣơng
sống" của chính quyền, của chế độ, có vai trò hết sức quan trọng trong việc
quản lý và thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ xã hội, đảm bảo nền hành chính
nhà nƣớc hoạt động liên tục có hiệu quả, đặc biệt Việt Nam đang trong thời
kỳ đổi mới, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, từng bƣớc công nghiệp hóa,
hiện đại hoá nên đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính Nhà

nƣớc trở thành một nguồn lực lớn phục vụ cho quá trình tổ chức và hoạt động
của Nhà nƣớc.
Thời gian qua, phải khẳng định rằng, đội ngũ cán bộ, công chức trong
các cơ quan hành chính nhà nƣớc đã và đang góp phần đáng kể vào tiến trình
cải cách hành chính theo mục tiêu xây dựng nền hành chính hiện đại, có tính
chuyên nghiệp cao mà Đảng và nhân dân ta đã đặt ra trong thời kỳ mới. Song,
cũng cần nhận thấy một thực tế: còn không ít cán bộ, công chức trong các cơ
quan hành chính nhà nƣớc hiện nay làm việc thiếu tích cực. Điều đó thể hiện
ở chỗ: nhiều cán bộ, công chức bảo thủ trong cách nghĩ, cách làm, thiếu sự
năng động, sáng tạo và đổi mới; cách làm việc quan liêu, hành chính hoá,
không thạo việc, tác phong chậm chạp, rƣờm rà, thái độ thờ ơ, thiếu trách
nhiệm dẫn đến sự trì trệ về phƣơng thức hoạt động trong các cơ quan hành
chính khi ngƣời dân kêu ca về tinh thần, thái độ, ý thức trách nhiệm của

2
không ít cán bộ, công chức trong giải quyết công việc, lợi ích của ngƣời dân
bị tổn hại. Nếu tình trạng này cứ tiếp tục thì chính quyền sẽ không đƣợc lòng
dân và cán bộ, công chức sẽ ngày càng xa dân. Và điều này đã đi ngƣợc lại
với phƣơng châm xây dựng một nền hành chính phát triển, hiện đại của một
Nhà nƣớc pháp quyền XHCN "của dân, do dân, vì dân".
Những hạn chế, bất cập đang và sẽ là những vấn đề không nhỏ buộc cả
hệ thống chính trị phải phân tích thấu đáo để có những giải pháp khắc phục
kịp thời và có hiệu quả nếu không muốn bị tụt hậu, kém phát triển.
Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính tại thành phố Huế
không nằm ngoài thực trạng chung của đội ngũ cán bộ, công chức trong cả
nƣớc, đội ngũ cán bộ, công chức thành phố Huế luôn đƣợc kiện toàn, chất
lƣợng đội ngũ đƣợc nâng lên rõ rệt phần nào đã đáp ứng đƣợc những đòi hỏi
rất khắc khe của thời kỳ mở cửa, hội nhập. Những thành công bƣớc đầu đó rất
quan trọng và là hƣớng chủ đạo trong tiến trình cải cách hành chính. Tuy
nhiên vẫn còn nhiều hạn chế bất cập nhƣ: tình trạng hẫng hụt về cơ cấu, chƣa

hợp lý ngành nghề, chất lƣợng cán bộ, công chức của thành phố chƣa đáp ứng
đƣợc yêu cầu của công việc, cơ sở vật chất phục vụ cho đội ngũ cán bộ, công
chức hành chính nhà nƣớc còn hạn chế, đào tạo bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ,
công chức hành chính nhà nƣớc chƣa gắn với việc sử dụng, chƣa có chính
sách thỏa đáng để thu hút cán bộ, công chức có trình độ cao về thành phố
công tác…Trƣớc yêu cầu mới của hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, thành phố Huế cần nhanh chóng xây dựng và nâng cao
chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nƣớc.
Vì vậy, việc chọn đề tài "Chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức
hành chính tại thành phố Huế trong giai đoạn hiện nay" làm đề tài luận
văn thạc sĩ Luật, chuyên ngành Lịch sử và Lý luận Nhà nƣớc và Pháp luật là
đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra hiện nay.

3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng
là chủ đề nghiên cứu đƣợc nhiều nhà khoa học quan tâm. Đến nay đã có nhiều
công trình nghiên cứu ở những cấp độ khác nhau: bài báo khoa học, luận văn,
luận án, sách chuyên khảo, trƣớc hết cần kể tới:
- Tác phẩm "Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ" của
tác giả Bùi Đình Phong, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002.
- "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công
chức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp, hóa hiện đại hóa đất nƣớc" của
PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm, Nxb Chính trị quốc
gia, 2003; các tác giả của công trình nghiên cứu này nghiên cứu lịch sử phát triển
của các khái niệm về cán bộ, công chức, viên chức; góp phần lý giải, hệ thống
hóa các căn cứ khoa học của việc nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức
nói chung. Từ đó đƣa ra những kiến nghị về phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm
củng cố, phát triển đội ngũ này cả về chất lƣợng, số lƣợng và cơ cấu.
- "Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà

nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân" của TS. Thang
Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh Phƣơng, 2004. Trên cơ sở nghiên cứu các
quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và của
Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò, vị trí ngƣời cán bộ cách mạng, cũng
nhƣ yêu cầu đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; tìm hiểu những
bài học kinh nghiệm về việc tuyển chọn và sử dụng nhân tài trong suốt quá
trình lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc ta, cũng nhƣ kinh nghiệm
xây dựng nền công vụ chính quy hiện đại của các nƣớc trong khu vực và
trên thế giới. Từ đó xác định hệ thống các yêu cầu, tiêu chuẩn của cán bộ,
công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân.

4
- Công chức nhà nƣớc của PGS.TS. Phạm Hồng Thái, Nxb. Tƣ pháp,
2004. Cuốn sách tập trung giải quyết một số vấn đề lý luận về công vụ, công
chức, phân tích quá trình hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về
công vụ, công chức, chỉ ra xu hƣớng điều chỉnh của pháp luật về công vụ,
công chức ở Việt Nam qua các giải đoạn lịch sử từ năm 1945 tới nay và
hƣớng phát triển của pháp luật về công vụ, công chức.
- "Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của hệ thống chính trị
cấp tỉnh, thành phố (Qua kinh nghiệm của Hà Nội)" của Thạc sĩ Cao Khoa
Bảng, Nxb Chính trị quốc gia, 2008; chuyên nghiên cứu về đối tƣợng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Hà Nội, từ đó đề ra luận cứ khoa học và kinh
nghiệm thực tiễn góp phần nâng cao chất lƣợng công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo của hệ thống chính trị thuộc diện Ban Thƣờng vụ Thành ủy
Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay.
- Thạc sĩ Nguyễn Duy Phƣơng (2007), Thực trạng và giải pháp nâng cao
năng lực đội ngũ công chức hành chính ở Thừa Thiên Huế từ năm 2004- 2006.
Ngoài ra còn nhiều bài viết đăng trên các tạp chí khoa học hoặc nhiều
công trình, luận văn, luận án khác có đề cập ít nhiều tới vấn đề này.

* Đánh giá chung: Những công trình khoa học này cung cấp nhiều tƣ
liệu quý báu về cơ sở lý luận, về kiến thức, kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức nhà nƣớc nói chung và công chức hành chính nói riêng để tác
giả tham khảo trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình.
Tuy nhiên, chƣa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu về chất lƣợng
đội ngũ cán bộ, công chức hành chính tại thành phố Huế trong giai đoạn
hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu của luận văn
Xuất phát từ tì nh hì nh th ực tiễn về công tá c tuyể n dụ ng , sƣ̉ dụ ng, quản

5
lý và chất lƣợng đội ngũ cán bộ , công chƣ́ c hành chính thành phố, đề ra một
số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức
hành chính chuyên nghiệp, có phẩm chất tốt và đủ năng lực thƣ̣ c thi công vụ
có hiệu quả, tận tụy phục vụ đất nƣớc và phục vụ nhân dân.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục tiêu nói trên, luận văn có các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về cán bộ, công chức hành chính; xác định
khái niệm, vị trí, vai trò, đặc điểm và phân loại cán bộ, công chức hành chính
nhà nƣớc; chất lƣợng, các tiêu chí đánh giá chất lƣợng cán bộ, công chức
hành chính nhà nƣớc.
- Phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, đánh giá
ƣu điểm, hạn chế, nguyên nhân hạn chế của đội ngũ cán bộ, công chức hành
chính thành phố Huế hiện nay.
- Mục tiêu, phƣơng hƣớng và các giải pháp nâng cao chất lƣợng đội ngũ
cán bộ, công chức hành chính tại thành phố Huế nhằm đáp ứng với yêu cầu
nhiệm vụ mới, xứng đáng với vị trí, vai trò, sự nghiệp phát triển một thành phố
là đô thị loại I thuộc tỉnh hƣớng tới thành phố trực thuộc Trung ƣơng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tƣợng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn liên quan đến đội ngũ cán bộ, công chức hành chính tại thành
phố Huế.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu cán bộ, công chức công
tác tại các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Huế, tập
trung vào các nội dung: tuyển dụng, quản lý và sử dụng cán bộ, công chức
hành chính.
Thời gian nghiên cứu đƣợc tiến hành từ năm 2008 đến năm 2012.

6
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật.
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu: Phƣơng pháp phân tích
– tổng hợp, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp lịch sử - cụ thể và kết hợp với
việc điều tra khảo sát chấ t lƣợ ng độ i ngũ cá n bộ , công chƣ́ c hành chính.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Tính mới của đề tài: Liên quan đến lĩnh vực cán bộ, công chức có rất
nhiều tác nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau nhƣng chƣa có đề tài nào đi
sâu nghiên cứu thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính thành phố
Huế trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy đây là đề tài hoàn toàn mới tại thành
phố Huế và chƣa có ai đặt vấn đề nghiên cứu.
- Đóng góp của đề tài về mặt khoa học pháp lý góp phần vào hệ
thống hoá lý luận về đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nƣớc và
nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nƣớc; hệ
thống hoá và xây dựng các tiêu chí đánh giá chất lƣợng cán bộ, công chức
hành chính nhà nƣớc; làm rõ những đặc điểm của đội ngũ cán bộ, công
chức hành chính nhà nƣớc và điều kiện khách quan của việc xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nƣớc trên địa bàn thành phố thành
phố Huế trong giai đoạn hiện nay.

- Đóng góp của đề tài về mặt thực tiễn
+ Qua phân tích, so sánh, đánh giá thực trạng, rút ra những mặt mạnh;
những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế. Từ đó, làm tiền đề để xây
dựng, nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nƣớc tại
thành phố Huế, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc.
+ Làm rõ và đƣa ra quan điểm, phƣơng hƣớng và những giải pháp, kiến

7
nghị nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nƣớc
thành phố Huế trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng
Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức
hành chính nhà nƣớc.
Chương 2: Thực trạng chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức hành
chính tại thành phố Huế trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Mục tiêu, phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm nâng cao chất
lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính tại thành phố Huế trong giai
đoạn hiện nay.
***


8
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỎ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC


1.1. KHÁI QUÁT VỀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC HÀNH CHÍNH
1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức
1.1.1.1. Khái niệm chung về cán bộ, công chức
Cán bộ, công chức, viên chức là những thuật ngữ cơ bản của chế độ
công vụ. Trong khoa học hành chính, theo các cách tiếp cận khác nhau, ngƣời
ta đã đƣa ra các quan niệm khác nhau về các thuật ngữ "cán bộ", "công chức",
"viên chức"
Khái niệm “cán bộ” (cadres) đƣợc sử dụng khá lâu tại các nƣớc xã hội
chủ nghĩa và bao hàm một diện rất rộng các loại nhân sự thuộc khu vực Nhà
nƣớc và các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Thuật ngữ khi đó
thƣờng dùng là “cán bộ, công nhân viên chức”, bao gồm tất cả những ngƣời
làm công hƣởng lƣơng từ Nhà nƣớc, từ những ngƣời đứng đầu một cơ quan
tới các nhân viên phục vụ nhƣ lái xe, bảo vệ hay lao động tạp vụ. Sự đánh
đồng nhƣ vậy dẫn tới việc không phân định rõ ràng về chức năng và nhiệm
vụ, không phân biệt rõ những ngƣời thực thi chức năng quản lý nhà nƣớc và
những ngƣời cung ứng dịch vụ công trong bộ máy nhà nƣớc, thậm chí gây
nhầm lẫn trong hoạt động cũng nhƣ hành xử công vụ. Thực tiễn cho thấy,
ngay cả nhiều quy định về kỷ luật cán bộ cũng khó thực thi bởi chính sự mơ
hồ và dễ gây lẫn lộn trong khái niệm này.
Các hoạt động thuộc chức năng công vụ do các công chức của bộ máy
hành chính nhà nƣớc thực hiện, đó cũng chính là lý do chủ yếu khi nói đến
công vụ, các học giả và các nhà hoạt động thực tiễn luôn đề cập đội ngũ công

9
chức. Mặc dù hiện nay quan niệm và phạm vi công chức ở mỗi quốc gia có
khác nhau. Có nơi hiểu công chức theo nghĩa rất rộng nhƣ ở Pháp là bao gồm
tất cả những nhân viên trong bộ máy hành chính nhà nƣớc, tất cả những ngƣời
tham gia dịch vụ công. Hay hẹp hơn nhƣ tại Anh, nơi công chức là những
ngƣời thay mặt nhà nƣớc giải quyết công việc công, nhất là ở tại Trung ƣơng,
nên phạm vi công chức thu hẹp hơn rất nhiều.

Ở Việt Nam, trải qua một thời gian dài cho đến trƣớc khi Luật Cán bộ,
công chức đƣợc ban hành năm 2008, trong nhận thức cũng nhƣ trong các hoạt
động quản lý, chúng ta chƣa xác định rõ ràng cán bộ, công chức, viên chức.
Trong điều kiện thể chế chính trị của Việt Nam, có một điểm đặc biệt là đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức luôn có sự liên thông với nhau. Theo yêu
cầu nhiệm vụ, cơ quan có thẩm quyền có thể điều động, luân chuyển họ giữa
các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nƣớc, tổ chức chính trị - xã hội. Với điểm
đặc thù này, việc nghiên cứu để xác định rõ cán bộ, công chức, viên chức một
cách triệt để rất khó và phức tạp. Vấn đề làm rõ thuật ngữ cán bộ, công chức,
viên chức đƣợc coi là vấn đề cơ bản, quan trọng, là một nhu cầu cần thiết xuất
phát từ thực tiễn đổi mới cơ chế quản lý đặt ra hiện nay.
Nhìn lại lịch sử Việt Nam, khái niệm công chức đƣợc quy định lần đầu
tiên tại Điều 1 của Sắc lệnh số 76/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950 của Chủ tịch
nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà về Quy chế công chức, trong đó khái niệm
công chức Việt Nam chỉ đƣợc xác định trong phạm vi các cơ quan Chính phủ,
đó là “Những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ
một chức vụ thường xuyên trong cơ quan Chính Phủ, ở trong hay ở ngoài
nước, đều là công chức theo quy chế này, trừ những trường hợp riêng biệt do
Chính phủ quy định”.
Tuy nhiên do điều kiện đất nƣớc chiến tranh nên bản quy chế công
chức này không đƣợc triển khai đầy đủ, và suốt một thời gian dài (đến cuối

10
những năm 1980), khái niệm công chức không đƣợc sử dụng mà thay vào đó
là khái niệm cán bộ, công nhân viên chức nhà nƣớc. Khái niệm này dùng
chung cho tất cả mọi ngƣời làm việc cho Nhà nƣớc, không có sự phân biệt,
theo đó đội ngũ này rất đông đảo vì nó đƣợc hình thành từ rất nhiều con
đƣờng, có thể do bầu, có thể do phân công sau khi tốt nghiệp, do tuyển dụng,
bổ nhiệm… Phạm vi làm việc của họ cũng rất rộng, vì vậy đội ngũ cán bộ,
công nhân viên chức không ổn định. Thực tế trên đã gây khó khăn, thiếu

thống nhất cho công tác cán bộ của Đảng và Nhà nƣớc trong việc sử dụng và
quản lý đội ngũ cán bộ, công chức.
- Từ ngày 30/4/1975 đến nay
Sau ngày giải phóng miền Nam 30/4/1975, thống nhất đất nƣớc, chúng
ta thực hiện chế độ cán bộ trên phạm vi cả nƣớc, lấy ngƣời cán bộ làm trung
tâm. Theo đó, tất cả những ngƣời làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà
nƣớc, tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp nhà nƣớc, nông trƣờng, lâm
trƣờng và lực lƣợng vũ trang đều đƣợc gọi chung trong một cụm từ "cán bộ,
công nhân viên nhà nƣớc"
Chuyển sang thời kỳ đổi mới (năm 1986), trƣớc yêu cầu khách quan
cần cải cách nền hành chính và đòi hỏi phải chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nƣớc, khái niệm công chức đƣợc sử dụng trở lại trong Nghị định
169/HĐBT ngày 25/5/1991. Nghị định chỉ rõ: “Công dân Việt Nam đƣợc
tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thƣờng xuyên trong một công sở
của nhà nƣớc ở Trung ƣơng hay địa phƣơng, ở trong nƣớc hay ngoài nƣớc đã
đƣợc xếp vào một ngạch, hƣởng lƣơng do ngân sách nhà nƣớc cấp gọi là công
chức nhà nƣớc”. Khái niệm công chức này cũng giống nhƣ khái niệm công
chức theo sắc lệnh 76/SL.
Đến năm 1998, khi Pháp lệnh Cán bộ, công chức đƣợc ban hành,
những ngƣời làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà

11
nƣớc, đoàn thể đƣợc gọi chung trong một cụm từ là "cán bộ, công chức". Để
cụ thể hoá Pháp lệnh, Chính phủ ban hành Nghị định số 95/1998/NĐ-CP,
ngày 17/11/1998 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức. Theo Nghị
định này, công chức là “công dân Việt Nam, trong biên chế và hƣởng lƣơng
từ ngân sách nhà nƣớc, bao gồm những ngƣời đƣợc tuyển dụng, bổ nhiệm
hoặc giao giữ một công việc thƣờng xuyên, đƣợc phân loại theo trình độ đào
tạo, ngành chuyên môn, đƣợc xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp;
những ngƣời làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân và

công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp và
công nhân quốc phòng”.
Pháp lệnh Cán bộ, công chức ra đời là văn bản pháp lý cao nhất của
nƣớc ta về công chức, đánh dấu bƣớc chuyển biến cơ bản về công tác cán bộ
của Đảng và Nhà nƣớc. Với quy định của Pháp lệnh Cán bộ, công chức, các
tiêu chí: Công dân Việt Nam, trong biên chế, hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà
nƣớc mới chỉ là những căn cứ để xác định một ngƣời có phải là "cán bộ, công
chức" hay không. Tuy nhiên, vấn đề ai là cán bộ, ai là công chức vẫn chƣa
đƣợc phân biệt và giải quyết triệt để. Sau 2 năm thực hiện, Pháp lệnh đã bộc
lộ những hạn chế, nên đã đƣợc sửa đổi vào năm 2000. Tuy vậy, ngay cả Pháp
lệnh sửa đổi vẫn không phân định rõ ràng đƣợc các đối tƣợng là cán bộ, công
chức, chẳng hạn những ngƣời làm việc trong đơn vị sự nghiệp của nhà nƣớc
là công chức, trong khi đó những ngƣời làm việc trong cơ quan hành chính
xã, phƣờng, thị trấn lại không phải là công chức. Nhằm khắc phục những hạn
chế đó, Pháp lệnh đƣợc sửa đổi một lần nữa vào năm 2003.
Pháp lệnh Cán bộ, công chức sửa đổi năm 2003 đã phân biệt đƣợc đối
tƣợng làm việc trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nƣớc và gọi họ là viên
chức, đồng thời Pháp lệnh sửa đổi đã quy định thêm công chức xã, phƣờng,
thị trấn. Tuy nhiên, cả Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 và Pháp lệnh

12
Cán bộ, công chức sửa đổi năm 2003 đều không đƣa ra đƣợc khái niệm về cán
bộ, khái niệm về công chức, chỉ đƣa ra thuật ngữ chung là cán bộ, công chức.
Để khắc phục mặt hạn chế của các văn bản từ trƣớc đến nay, chƣa
làm rõ đƣợc các khái niệm về cán bộ, công chức. Ngày 13 tháng 11 năm
2008, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XII, đã thông qua Luật Cán bộ, công
chức. Đây là một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất từ trƣớc đến nay và
cắt nghĩa đƣợc rõ ràng hơn về các khái niệm cán bộ, công chức. Tại Điều 4
của Luật quy định:
"1. Cán bộ là công dân Việt Nam, đƣợc bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm

giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nƣớc, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ƣơng, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ƣơng (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hƣởng
lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc.
2. Công chức là công dân Việt Nam, đƣợc tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nƣớc, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ƣơng, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nƣớc, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập), trong biên chế và hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc; đối
với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
thì lƣơng đƣợc bảo đảm từ quỹ lƣơng của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật.
3. Cán bộ xã, phƣờng, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân

13
Việt Nam, đƣợc bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thƣờng trực Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thƣ, Phó Bí thƣ Đảng ủy, ngƣời đứng
đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam đƣợc
tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân
cấp xã, trong biên chế và hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc"
Nhƣ vậy, mỗi quốc gia có những quan niệm và định nghĩa khác nhau
về công chức. Song, có thể khái quát, công chức là thuật ngữ đƣợc sử dụng để
chỉ những ngƣời đƣợc tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một công cụ thƣờng xuyên,
làm việc trong một cơ quan nhà nƣớc (hoặc cơ quan, đơn vị thuộc quân đội
nhân dân hay công an nhân dân mà không phải là sỹ quan, quân nhân chuyên

nghiệp, công nhân quốc phòng), đƣợc phân loại theo trình độ đào tạo, ngành
chuyên môn, đƣợc xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp, trong biên chế
và đƣợc hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc.
1.1.1.2. Phân định cán bộ, công chức hành chính
Theo quy định của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 thì cán bộ và
công chức có những tiêu chí chung là: công dân Việt Nam; trong biên chế;
hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc (riêng trường hợp công chức làm việc
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì tiền lương
được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của
pháp luật); giữ một công vụ, nhiệm vụ thƣờng xuyên; làm việc trong công sở;
đƣợc phân định theo cấp hành chính (cán bộ ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện; cán bộ cấp xã; công chức ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; cán bộ,
công chức cấp xã). Bên cạnh đó, giữa cán bộ và công chức đƣợc phân định rõ
theo tiêu chí riêng, gắn với cơ chế hình thành.
Khoản 1 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức quy định:
"Cán bộ là công dân Việt Nam, đƣợc bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt

14
Nam, Nhà nƣớc, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ƣơng, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ƣơng (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hƣởng
lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc". Theo quy định này thì tiêu chí xác định cán bộ
gắn với cơ chế bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo
nhiệm kỳ. Những ngƣời đủ các tiêu chí chung của cán bộ, công chức mà đƣợc
tuyển vào làm việc trong các cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức
chính trị - xã hội thông qua con đƣờng bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức
vụ chức danh theo nhiệm kỳ thì đƣợc xác định là cán bộ. Thực tế cho thấy,
cán bộ luôn gắn liền với chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ; hoạt động của họ
gắn với quyền lực chính trị đƣợc nhân dân hoặc các thành viên trao cho và

chịu trách nhiệm chính trị trƣớc Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân. Việc quản lý
cán bộ phải thực hiện theo các văn bản pháp luật tƣơng ứng chuyên ngành
điều chỉnh hoặc theo Điều lệ. Do đó, căn cứ vào các tiêu chí do Luật Cán bộ,
công chức năm 2008 quy định, những ai là cán bộ trong cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội sẽ đƣợc các cơ quan có thẩm
quyền của Đảng căn cứ Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính
trị - xã hội quy định cụ thể. Những ai là cán bộ trong cơ quan Nhà nƣớc sẽ
đƣợc xác định theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính
phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân,
Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Luật Kiểm toán nhà
nƣớc và các quy định khác của pháp luật có liên quan và do Ủy ban Thƣờng
vụ Quốc hội quy định cụ thể.
Nhƣ vậy, cán bộ hành chính sẽ đƣợc xác định theo quy định của Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và Nghị định số 107/2004/NĐ-
CP ngày 01 tháng 4 năm 2004 của Chính phủ quy định số lƣợng Phó Chủ tịch
và cơ cấu thành viên Ủy ban nhân dân các cấp đã đƣợc sửa đổi, bổ sung theo

15
Nghị định số 27/2009/NĐ-CP ngày 19 tháng 3 năm 2009 và Nghị định số
36/2011/NĐ-CP ngày 23 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ.
Cán bộ hành chính sẽ bao gồm:
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân;
- Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;
- Các thành viên Ủy ban nhân dân.
Ngoài những tiêu chuẩn quy định chung đối với cán bộ, thành viên Uỷ
ban nhân dân phải là những ngƣời có năng lực quản lý nhà nƣớc, quản lý kinh
tế, xã hội ở địa phƣơng; chấp hành có hiệu quả nghị quyết của Hội đồng nhân
dân cùng cấp và pháp luật, chính sách của Nhà nƣớc; trong công tác, biết phát
huy tính chủ động, sáng tạo của địa phƣơng và nghiêm chỉnh chấp hành sự
quản lý tập trung thống nhất của Trung ƣơng.

Khoản 2 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức quy định Công chức là công
dân Việt Nam, đƣợc tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh
trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nƣớc, tổ chức chính trị - xã
hội ở trung ƣơng, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội
nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân
quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là
sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn
vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nƣớc, tổ chức chính
trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và
hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc; đối với công chức trong bộ máy lãnh
đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lƣơng đƣợc bảo đảm từ quỹ
lƣơng của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Theo quy định này thì tiêu chí để xác định công chức gắn với cơ chế
tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh. Những ngƣời đủ các
tiêu chí chung của cán bộ, công chức mà đƣợc tuyển vào làm việc trong các

16
cơ quan, đơn vị của Đảng, Nhà nƣớc, tổ chức chính trị - xã hội, bộ máy lãnh
đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thông qua quy chế tuyển dụng (thi
tuyển, xét tuyển), bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh thì đƣợc xác định
là công chức. Công chức là những ngƣời đƣợc tuyển dụng lâu dài, hoạt động
của họ gắn với quyền lực công (hoặc quyền hạn hành chính nhất định) đƣợc
cơ quan có thẩm quyền trao cho và chịu trách nhiệm trƣớc cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đƣợc giao. Việc quy
định công chức trong phạm vi nhƣ vậy xuất phát từ mối quan hệ liên thông
giữa các cơ quan của Đảng, Nhà nƣớc và tổ chức chính trị - xã hội trong hệ
thống chính trị. Đây là điểm đặc thù của Việt Nam rất khác so với một số
nƣớc trên thế giới nhƣng lại hoàn toàn phù hợp với điều kiện cụ thể và thể chế
chính trị ở Việt Nam.
Bên cạnh đó, việc quy định công chức có trong bộ máy lãnh đạo, quản

lý của các đơn vị sự nghiệp công lập là phù hợp với Hiến pháp của Việt Nam,
thể hiện đƣợc trách nhiệm của Nhà nƣớc trong việc tổ chức cung cấp các dịch
vụ công thiết yếu và cơ bản cho ngƣời dân, bảo đảm sự phát triển cân đối giữa
các vùng, lãnh thổ có mức sống chênh lệch, thực hiện mục tiêu dân chủ và
công bằng xã hội. Hiện nay, khi vai trò của Nhà nƣớc đang đƣợc nhấn mạnh
trong điều kiện kinh tế thị trƣờng, nhằm khắc phục ảnh hƣởng của suy thoái
kinh tế tác động đến sự ổn định đời sống xã hội thì việc quy định công chức
có trong bộ máy lãnh đạo, quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập lại càng có ý
nghĩa và thể hiện tƣ duy pháp lý tiến bộ của Luật Cán bộ, công chức 2008.
Tuy nhiên, phạm vị công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý các đơn vị sự
nghiệp công lập rộng hay hẹp còn tùy thuộc vào quy mô, phạm vi hoạt động
của từng đơn vị sự nghiệp; vào cấp có thẩm quyền thành lập và quản lý.
Công chức trong các cơ quan của Đảng, Nhà nƣớc, tổ chức chính trị -
xã hội, bộ máy lãnh đạo, quản lý đơn vị sự nghiệp công lập, lực lƣợng vũ

17
trang đã đƣợc quy định cụ thể tại Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày
25/01/2020 của Chính phủ về việc quy định những ngƣời là công chức.
Theo Nghị định số 06/2010/NĐ-CP, công chức là công dân Việt Nam,
đƣợc tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong biên chế,
hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc hoặc đƣợc đảm bảo từ quỹ lƣơng của đơn
vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật, làm việc trong các cơ
quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà nƣớc, tổ chức chính trị - xã hội và bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập.
Việc phân định cán bộ và công chức của Luật Cán bộ, công chức là căn
cứ để quy định cơ chế quản lý phù hợp với cán bộ ở trung ƣơng, cấp tỉnh, cấp
huyện; công chức ở trung ƣơng, cấp tỉnh, cấp huyện; cán bộ cấp xã, công
chức cấp xã. Với những quy định mới này, pháp luật về cán bộ, công chức đã
tiếp tục quy định những vấn đề thể hiện tính đặc thù trong hoạt động công vụ
của công chức liên quan đến các nội dung nhƣ: quyền và nghĩa vụ, bầu cử,

phê chuẩn, bổ nhiệm; đào tạo, bồi dƣỡng; điều động, luân chuyển; đánh
giá; Ví dụ nhƣ:
- Bên cạnh các quyền và nghĩa vụ chung mà cán bộ, công chức đều có.
Đối với cán bộ do chịu sự điều chỉnh của cơ chế bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
nên cán bộ còn phải chịu trách nhiệm trƣớc Đảng, Nhà nƣớc, nhân dân và
trƣớc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
đƣợc giao. Điểm này thể hiện trách nhiệm chính trị của cán bộ.
Đối với công chức, do chịu sự điều chỉnh của cơ chế tuyển dụng, bổ
nhiệm nên công chức còn phải chịu trách nhiệm trƣớc cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đƣợc giao. Điểm này thể
hiện trách nhiệm hành chính của công chức.
- Việc quy định đánh giá cán bộ đã có những nội dung khác với đánh
giá công chức. Theo Luật quy định, đánh giá cán bộ thực hiện theo 5 nội

18
dung, trong đó có những nội dung khác với đánh giá công chức là: cán bộ
phải đánh giá năng lực lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ đƣợc
giao. Còn đánh giá công chức gồm 6 nội dung đánh giá. Điểm khác với đánh
giá cán bộ là việc đánh giá công chức gắn với năng lực, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ; tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ; tinh thần trách nhiệm và
phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ; thái độ phục vụ nhân dân.
- Việc áp dụng hình thức kỷ luật đối với cán bộ cũng khác với công
chức. Cán bộ có 4 hình thức kỷ luật (khiển trách, cảnh cáo, cách chức, bãi
nhiệm)còn công chức có 6 hình thức kỷ luật (khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc
lƣơng, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc).
Do vậy, công chức hành chính là công dân Việt Nam, đƣợc tuyển dụng,
bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong biên chế và hƣởng lƣơng từ
ngân sách nhà nƣớc, giữ một công vụ thƣờng xuyên, hoặc nhiệm vụ có tính
chất thƣờng xuyên trong các cơ quan hành chính từ trung ƣơng đến địa
phƣơng đảm nhiệm chức năng quản lý, điều hành của Nhà nƣớc. Công chức

hành chính đƣợc điều chỉnh bởi Nghị định số 24/2010/NĐ-CP quy định về
tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức và các văn bản có liên quan.
1.1.2. Vị trí, vai trò của cán bộ, công chức hành chính nhà nƣớc
Trong hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đến việc
xây dựng đội ngũ cán bộ để có đủ sức mạnh hoàn thành sự nghiệp vẻ vang
của Đảng. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có ý nghĩa to
lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Về vị trí của cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là giây chuyền của
bộ máy Đảng, Nhà nƣớc, đoàn thể nhân dân, “là những ngƣời đem chính sách
của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng
thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ,
để đặt chính sách cho đúng”. Nhƣ vậy, cán bộ có vị trí chủ thể của sự nghiệp

19
cách mạng nƣớc ta do Đảng lãnh đạo. Vị trí lãnh đạo, vị trí chủ thể của cán bộ
là do Đảng, Nhà nƣớc, đoàn thể phân công, và quyền lực của cán bộ cũng nhƣ
nhiệm vụ của ngƣời cán bộ là do nhân dân giao cho.
Về vai trò của cán bộ, Hồ Chí Minh khẳng định rằng: cán bộ là cái gốc
của mọi công việc; muốn việc thành công hay thất bại đều là do cán bộ tốt
hay kém. Với ý nghĩa nhƣ vậy, chúng ta có thể hiểu rằng, cán bộ là lực lƣợng
tinh tuý nhất của xã hội, có vị trí vừa tiên phong vừa là trung tâm của xã hội
và có vai trò cực kỳ quan trọng của hệ thống chính trị nƣớc ta.
Luận điểm khái quát nhất của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ
là: cán bộ vừa là ngƣời lãnh đạo, vừa là ngƣời đày tớ thật trung thành, là trâu
ngựa của nhân dân.
Trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nƣớc, đội ngũ cán bộ,
công chức hành chính nhà nƣớc đóng vai trò chủ đạo, là lực lƣợng nòng
cốt, lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ quan trọng trong mỗi giai đoạn lịch sử
của đất nƣớc.
- Cán bộ, công chức hành chính nhà nƣớc là lực lƣợng nòng cốt trong

hệ thống chính trị, có nhiệm vụ hoạch định các chính sách, đƣa các chính sách
và thực hiện đƣờng lối chính sách của Đảng, Nhà nƣớc trở thành thực tiễn,
tiếp thu nguyện vọng của nhân dân, nắm bắt những yêu cầu thực tiễn của cuộc
sống để phản ánh kịp thời với cấp trên, giúp Đảng và Nhà nƣớc đề ra đƣợc
những chủ trƣơng chính sách sát với thực tiễn.
- Đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nƣớc là nguồn nhân lực
quan trọng có vai trò quyết định trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của
bộ máy hành chính nhà nƣớc, là một trong những nguồn lực quan trọng trong
việc thực hiện công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nƣớc.
- Đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nƣớc là đội ngũ chủ yếu
trực tiếp tham gia xây dựng đƣờng lối đổi mới kinh tế của đất nƣớc, hoạch

20
định các chính sách, chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức quản lý nhà
nƣớc và kiểm tra. Đội ngũ công chức cán bộ, hành chính nhà nƣớc là những
ngƣời trực tiếp tạo môi trƣờng, điều kiện về sử dụng công cụ kinh tế, thực lực
kinh tế để tác động, quản lý, điều tiết nền kinh tế thị trƣờng.
Thực hiện đƣờng lối đổi mới nền kinh tế, trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nƣớc càng
trở nên quan trọng, bởi các lý do sau đây:
- Kinh tế xã hội phát triển toàn diện khiến cạnh tranh trên thị trƣờng
thêm quyết liệt, đòi hỏi càng nhiều phƣơng án, quyết định quản lý và sự lựa
chọn phƣơng án tối ƣu càng khó khăn, phức tạp hơn.
- Sự tác động của quá trình quản lý đối với thực tiễn trong điều kiện
mới càng trở nên quan trọng. Các quyết định quản lý sâu sắc, lâu dài, có thể
đem lại hiệu quả lớn nhƣng cũng có thể dẫn tới hậu quả nghiêm trọng. Do đó,
đối với cán bộ, công chức hành chính nhà nƣớc cần phải có trách nhiệm cao
về chất lƣợng, về tính khoa học trong các quyết định quản lý.
- Sự tăng nhanh khối lƣợng tri thức và độ phức tạp của cơ cấu tri thức,
trong đó có tri thức kinh tế và quản lý kinh tế hiện đại, đặc biệt sự xuất hiện

của hệ thống thông tin mới, gồm cả thông tin quản lý đã và đang đƣợc mở
rộng, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nƣớc phải có khả
năng, trình độ để xử lý thông tin.
- Hệ thống quản lý (gồm cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, bộ máy quản
lý) phải đổi mới để phù hợp với cơ chế thị trƣờng cũng đòi hỏi đội ngũ cán
bộ, công chức hành chính nhà nƣớc phải đổi mới về kiến thức, nghiệp vụ, kĩ
năng quản lý và nâng cao trách nhiệm của mình.
1.1.3. Đặc điểm cán bộ, công chức
Qua nghiên cứu cho thấy công chức có các đặc điểm căn bản nhƣ:
- Tính nghề nghiệp (career). Tính nghề nghiệp thể hiện ở việc công

×