Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã ở Tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (938.28 KB, 105 trang )


1

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



LÊ THỊ HƢƠNG



HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
Ở TỈNH THANH HÓA

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số : 60 38 01



TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



HÀ NỘI - 2012
Công trình đƣợc hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội




Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Đăng Dung




Phản biện 1:


Phản biện 2:



Luận văn đƣợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2012.



Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm tƣ liệu - Thƣ viện Đại học Quốc gia Hà Nội Trung
tâm tƣ liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội


4
MỤC LỤC




Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


Danh mục các bảng


Danh mục các sơ đồ


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
7
1.1.
Vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phương
thức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã
7

1.1.1.
Vị trí, tính chất của Hội đồng nhân dân cấp xã
7
1.1.2.
Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp xã
9
1.1.2.1.
Chức năng quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương
10
1.1.2.2.
Chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã
11
1.1.3.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp xã
20
1.1.4.
Phương thức hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã
24
1.1.4.1.
Kỳ họp của Hội đồng nhân dân cấp xã
24
1.1.4.2.
Hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã
25
1.1.4.3.
Hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã
27
1.2.
Khái niệm, tiêu chí đánh giá và điều kiện đảm bảo hiệu quả
hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã

29


5
1.2.1.
Khái niệm hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã
29
1.2.2.
Tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân
cấp xã
31
1.2.2.1.
Đảm bảo dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân cấp xã
32
1.2.2.2.
Tạo ra sự chuyển biến tích cực về tình hình kinh tế - xã hội ở
địa phương
32
1.2.2.3.
Kết quả hoạt động mang lại so với chi phí bỏ ra
33
1.2.3.
Điều kiện đảm bảo hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân
dân cấp xã
34
1.2.3.1.
Đảm bảo sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với hoạt động
của Hội đồng nhân dân cấp xã
34

1.2.3.2.
Ban hành đầy đủ các quy định của pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã
36
1.2.3.3.
Tổ chức bộ máy của Thường trực và bộ phận giúp việc của
Hội đồng nhân dân cấp xã
37
1.2.3.4.
Phẩm chất, năng lực, trách nhiệm của đại biểu Hội đồng
nhân dân cấp xã
38
1.2.3.5.
Điều kiện vật chất, chi phí cho hoạt động của Hội đồng nhân
dân cấp xã
39

Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN
DÂN CẤP XÃ Ở TỈNH THANH HÓA
41
2.1.
Khái quát điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội và cơ
cấu, tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa
41
2.1.1.
Khái quát điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội
tỉnh Thanh Hóa
41
2.1.2.
Cơ cấu, tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thanh

Hóa nhiệm kỳ 2004 - 2011 và nhiệm kỳ 2011 - 2016
44


6
2.2.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa
từ năm 2004 đến nay
48
2.2.1.
Thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh
Thanh Hóa từ năm 2004 đến nay
48
2.2.1.1.
Kỳ họp của Hội đồng nhân dân cấp xã
48
2.2.1.2.
Hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã
54
2.2.1.3.
Hoạt động của các đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã
58
2.2.2.
Đánh giá về ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những ưu
điểm, hạn chế
62
2.2.2.1.
Ưu điểm
62
2.2.2.2.

Hạn chế
65

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở
TỈNH THANH HÓA
70
3.1.
Yêu cầu khách quan nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội
đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa
70
3.1.1.
Xuất phát từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân
70
3.1.2.
Xuất phát từ những bất cập giữa vị trí, vai trò và chức năng
của Hội đồng nhân dân cấp xã với thực trạng hoạt động của
Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay
71
3.1.3.
Xuất phát từ yêu cầu nâng cao vai trò quản lý của chính
quyền địa phương
71
3.2.
Quan điểm nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân
dân cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa
72
3.2.1.
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam

về nâng cao hiệu quả hoạt động các cơ quan dân cử nói
chung và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã nói riêng
72


7
3.2.2.
Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và chức năng của Hội
đồng nhân dân cấp xã
74
3.2.3
Nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã
phải được tiến hành có kế hoạch, thường xuyên và liên tục
75
3.3.
Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng
nhân dân cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay
77
3.3.1.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng đối
với Hội đồng nhân dân cấp xã
77
3.3.2.
Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã
78
3.3.3.
Nâng cao năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã
80
3.3.4.

Nâng cao chất lượng kỳ họp của Hội đồng nhân dân cấp xã
83
3.3.5.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của Thường trực Hội đồng
nhân dân cấp xã
89
3.3.6.
Tạo các điều kiện thuận lợi cho hoạt động Hội đồng nhân
dân cấp xã
90

KẾT LUẬN
93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
95



8



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

HĐND
: Hội đồng nhân dân
MTTQ
: Mặt trận Tổ quốc
UBND

: Ủy ban nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa


9
DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Cơ cấu, số lượng đại biểu HĐND cấp xã nhiệm kỳ 2004 -
2011 và nhiệm kỳ 2011 - 2016
44
2.2
Trình độ văn hóa và chuyên môn của đại biểu HĐND cấp
xã tỉnh Thanh Hóa nhiệm kỳ 2004 - 2011 và nhiệm kỳ
2011 - 2016
45
2.3
Trình độ lý luận chính trị và quản lý nhà nước của đại
biểu HĐND cấp xã tỉnh Thanh Hóa nhiệm kỳ 2004 -
2011 và nhiệm kỳ 2011 - 2016
45
2.4
Độ tuổi đại biểu HĐND cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa nhiệm
kỳ 2004 - 2011 và nhiệm kỳ 2011 - 2016
45

2.5
Số liệu cơ cấu, tổ chức Thường trực HĐND cấp xã nhiệm
kỳ 2004 - 2011 và nhiệm kỳ 2011 - 2016
46
2.7
Về trình độ chuyên môn của Thường trực HĐND cấp xã
nhiệm kỳ 2004 - 2011 và nhiệm kỳ 2011- 2016
47


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Số hiệu
sơ đồ
Tên sơ đồ
Trang
2.1
Đối tượng chất vấn của HĐND cấp xã
51
2.2
Các chức vụ do HĐND cấp xã bầu
53


10

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ chủ yếu để thực

hiện quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu
quả hoạt động của bộ máy nhà nước là một trong những yêu cầu quan trọng
để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. Mục đích là làm cho các cơ quan nhà nước ở trung
ương cũng như ở địa phương thực hiện đúng và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ
của mình theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Trong bộ máy nhà nước, Hội đồng nhân dân (HĐND) vừa là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy, xây dựng HĐND các cấp có
thực quyền để đảm đương đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình là một yêu
cầu cấp thiết hiện nay.
Trong hệ thống HĐND các cấp, HĐND cấp xã (cấp xã gồm: xã, phường,
thị trấn) có vị trí, vai trò quan trọng, là nơi gần dân nhất, trực tiếp thực thi
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tại địa phương và là
nơi trực tiếp quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để xây dựng
và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh.
HĐND cấp xã là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ
của nhân dân ở cơ sở, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước
nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
Nhận thức được vai trò quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta luôn quan
tâm đến việc đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã.


11
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng nhấn mạnh:
"Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân,
bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương
trong phạm vi được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của Hội đồng nhân
dân" [14, tr. 127].
Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X

khẳng định: "Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân biệt rõ những
khác biệt giữa chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị: Đối với chính
quyền nông thôn, không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện; đối với chính quyền
đô thị, không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, phường" [15, tr. 170-172].
Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X khẳng định: "Tiến hành thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân
huyện, quận, phường, kịp thời rút kinh nghiệm để nhân rộng trong nhiệm kỳ
mới (2011 - 2016)" [16, tr. 132].
Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 725/2009/NQ-UBTVQH của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, tại một số địa phương thí điểm không tổ chức HĐND ở
huyện, quận, phường.
Như vậy, ở những địa phương không tổ chức HĐND huyện thì hoạt
động của HĐND xã, thị trấn sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy, cần phải nâng
cao hiệu quả hoạt động của HĐND xã, thị trấn là yêu cầu bức thiết.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục
khẳng định:
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện những chính sách
trong phạm vi được phân cấp. Nghiên cứu tổ chức, thẩm quyền của
chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo. Tiếp tục thực hiện thí


12
điểm chủ trương không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận,
phường [17, tr. 251].
Quán triệt, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, trong thời gian qua hoạt động của HĐND cấp xã đã có những
chuyển biến tích cực, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp đổi mới đất nước,

khẳng định được vai trò là cơ quan đại biểu của nhân dân địa phương, là nơi
đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của HĐND
cấp xã hiện nay do nhiều nguyên nhân vẫn còn những hạn chế nhất định, thực
chất chưa tương xứng với vị trí, vai trò của nó trong hệ thống cơ quan quyền
lực nhà nước cũng như với nhiệm vụ mà nhân dân giao phó. Nhiều nơi hoạt
động của HĐND cấp xã chỉ mang tính hình thức, tính đại diện và khả năng
thay mặt nhân dân quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phương thấp, dẫn
đến việc vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, cản trở quá trình dân chủ hóa
đời sống xã hội. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã
hiện nay là yêu cầu bức thiết.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn cho thấy nâng cao hiệu quả hoạt động
của Hội đồng nhân dân cấp xã là đòi hỏi khách quan, là yêu cầu cấp thiết.
Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài "Hiệu quả hoạt động của Hội
đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa" làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND nói chung, HĐND cấp
xã nói riêng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, tiếp cận dưới
nhiều góc độ khác nhau. Có thể nêu một số công trình sau:
- Tổ chức chính quyền nhà nước ở địa phương, của PGS.TS Nguyễn
Đăng Dung, NXB Đồng Nai, năm 1997.
- Đổi mới hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp
xã, của Trần Nho Thìn, Luận án tiến sĩ, năm 2000.


13
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân các cấp, của Lê Minh Thông, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/1999.
- Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã trong giai đoạn
hiện nay, của ThS. Nguyễn Hoàng Anh, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 5/2003.

- Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay, của GS.TS
Hoàng Chí Bảo (Chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
- Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm
kỳ 2004 - 2009, của Đinh Ngọc Giang, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 2/2005.
- Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân các cấp, của ThS. Nguyễn Quốc Tuấn, Tổ chức nhà
nước, số 4/2004.
- Tổ chức và hoạt động của chính quyền xã theo hướng xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của Bùi Thị Hải, Luận văn thạc
sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009.
- Nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An
trong giai đoạn hiện nay, của Hồ Thị Hưng, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2006.
Các công trình trên đã tiếp cận tổ chức và hoạt động của HĐND ở
nhiều góc độ, nhiều khía cạnh với những luận giải, đánh giá khoa học có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên có thể nói cho đến nay chưa có một đề
tài độc lập đi sâu nghiên cứu hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã ở tỉnh
Thanh Hóa để tổng kết, đánh giá những thành tựu, hạn chế, qua đó đưa ra
những giải pháp có giá trị thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
HĐND cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn


14
Mục đích của luận văn là đề xuất những quan điểm và các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ làm rõ cơ sở

lý luận về vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phương thức
hoạt động của HĐND cấp xã; khái niệm, tiêu chí đánh giá và điều kiện đảm
bảo hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã; phân tích thực trạng hoạt động của
HĐND cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa để tìm ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân
của những ưu điểm, hạn chế; trên cơ sở đó đưa ra quan điểm, giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về hoạt
động của HĐND cấp xã và được giới hạn trong thực tiễn hoạt động của
HĐND cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 2004 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nhà nước và
pháp luật XHCN, về tổ chức và hoạt động của HĐND.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin kết hợp
phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế…
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng ở cả ba chương để làm sáng
tỏ các vấn đề lý luận, cũng như đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa.


15
Phương pháp thống kê, so sánh, khảo sát thực tế được sử dụng chủ yếu ở
chương 2, nhằm đánh giá đúng đắn thực trạng hoạt động của HĐND cấp xã ở
tỉnh Thanh Hóa.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Với việc đi sâu nghiên cứu những vấn đề liên quan đến hiệu quả hoạt
động của HĐND cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa, luận văn sẽ có những đóng góp

mới như sau:
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận hiệu quả hoạt động
của HĐND cấp xã như khái niệm, tiêu chí đánh giá, điều kiện đảm bảo hiệu
quả hoạt động của HĐND cấp xã.
- Đánh giá một cách hệ thống, toàn diện thực trạng hoạt động của
HĐND cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 2004 đến nay.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của HĐND cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân
dân cấp xã.
Chương 2: Thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh
Thanh Hóa.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa.



16
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ

1.1. VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ
PHƢƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.1.1. Vị trí, tính chất của Hội đồng nhân dân cấp xã
Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) khẳng định:
"Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân…" [35]. Với khẳng định trên, ở nước ta nguồn gốc,
bản chất quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. "Nhân dân sử dụng quyền
lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân" [35].
Trong hệ thống HĐND các cấp, HĐND cấp xã (cấp xã gồm: xã, phường,
thị trấn) có vị trí, vai trò quan trọng, là nơi gần dân hơn, sát dân hơn, thường
xuyên tiếp xúc với dân, trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tại địa phương; là nơi để người dân
bày tỏ trực tiếp ý chí, nguyện vọng của mình, đóng góp ý kiến xây dựng chính
quyền của dân, do dân, vì dân và là nơi trực tiếp quyết định những chủ trương,
biện pháp quan trọng để xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã
hội, củng cố quốc phòng - an ninh.
Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, HĐND cấp xã đã khẳng định
được vị trí, vai trò, trách nhiệm to lớn của mình. HĐND thực sự trở thành
diễn đàn để nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ Nhà nước và xã hội. Sự
hiện diện của HĐND dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện
được tính chất giai cấp sâu sắc, tính nhân dân thực sự của nhà nước, tạo nên
niềm tin vững chắc cho nhân dân về một chính quyền của dân, do dân, vì dân.


17
Điều 119 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Điều 1
Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: "Hội đồng nhân dân là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên" [35].
Từ những quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001), Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, có thể khái quát vị trí, tính
chất của HĐND cấp xã như sau:
* Tính chất: HĐND cấp xã là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương

Ở địa phương, HĐND là cơ quan duy nhất do cử tri bầu ra theo
nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đại biểu HĐND
là những người tiêu biểu, ưu tú, đại diện cho ý chí và quyền làm chủ của nhân
dân. Tính chất đại diện của HĐND về mặt hình thức thể hiện rõ nét nhất ở
chỗ HĐND có cơ cấu đại biểu thuộc mọi tầng lớp, mọi thành phần xã hội.
Điều đó có nghĩa, HĐND không đại diện cho một Đảng phái, tổ chức nào mà
đại diện cho toàn thể nhân dân địa phương; thành phần trong HĐND thể hiện
khối đại đoàn kết toàn dân. tính chất đại diện của HĐND khác với tính chất
đại diện của Quốc hội. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,
đại biểu Quốc hội là người đại diện cho nhân dân cả nước. Còn HĐND là cơ
quan đại diện của nhân dân địa phương bầu ra mình, đồng thời chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên.
* Vị trí: HĐND cấp xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương
Trong bài "Dân vận" đăng trên báo Sự thật, Bác Hồ đã viết: "Nước ta
là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Nói tóm lại,
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" [25, tr. 698]. Điều đó cho thấy nguồn
gốc, bản chất quyền lực nhà nước là quyền lực nhân dân.


18
HĐND cấp xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, có quyền
quyết định những vấn đề quan trọng về kinh tế, văn hóa - xã hội … ở địa
phương; đồng thời giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà
nước và nghị quyết của HĐND các cấp ở cơ sở, thể hiện trên các mặt sau đây:
- Căn cứ vào quy định của pháp luật, HĐND cấp xã bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm các chức danh trong tổ chức của mình (Chủ tịch và Phó Chủ tịch
HĐND cấp xã);
- Căn cứ vào quy định của pháp luật, HĐND cấp xã bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm các chức danh Chủ tịch, Phó chủ tịch và các thành viên khác của

UBND cùng cấp (là cơ quan chấp hành của mình, là cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương);
- Căn cứ vào quy định của Hiến pháp và pháp luật, HĐND cấp xã ban
hành các Nghị quyết để triển khai các mặt công tác ở địa phương;
- HĐND cấp xã giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương.
Tính chất đại diện và vị trí cơ quan quyền lực nhà nước của HĐND
cấp xã có quan hệ biện chứng với nhau. Tính đại diện là tiền đề đảm bảo để
HĐND cấp xã trở thành cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Và chỉ có
thể là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, HĐND cấp xã mới có đủ
quyền năng thực hiện tính chất đại diện cho nhân dân, thay mặt nhân dân
quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương.
Với vị trí, tính chất được quy định trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ
sung năm 2001), Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì HĐND cấp xã
vừa là một cơ quan trong bộ máy nhà nước, vừa là chủ thể quyền lực, đại diện
cho nhân dân địa phương. Chính vị trí, tính chất này đã quyết định chức năng
của HĐND cấp xã.
1.1.2. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp xã
Chức năng của HĐND cấp xã là những phương diện hoạt động chính,
chủ yếu của HĐND.


19
Căn cứ vào Điều 1, Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, HĐND
cấp xã có 2 chức năng: Quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương và
giám sát.
1.1.2.1. Chức năng quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương
Điều 1, Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định:
Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp
quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát
triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh,

không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước [36].
Để có cơ sở pháp lý thực hiện tốt chức năng này, Luật tổ chức HĐND
và UBND năm 2003 quy định HĐND cấp xã có quyền quyết định trên các
lĩnh vực sau:
+ Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (Điều 29)
+ Quyết định về phát triển giáo dục, y tế, xã hội và đời sống, văn hóa,
thông tin, thể dục, thể thao, bảo vệ tài nguyên và môi trường (Điều 30)
+ Quyết định về quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội (Điều 31)
+ Quyết định về thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo
(Điều 32)
+ Quyết định về việc thi hành pháp luật (Điều 33)
+ Quyết định về việc xây dựng chính quyền địa phương (Điều 34)
Như vậy, nội dung chức năng quyết định của HĐND cấp xã rất rộng,
bao gồm mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội, khoa học, quốc
phòng, an ninh. Điều này một lần nữa khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan
trọng của HĐND cấp xã. Mặt khác, đây cũng là những căn cứ pháp lý tạo môi
trường thuận lợi để chính quyền địa phương khai thác hết mọi tiềm năng, nội


20
lực sẵn có của mình, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân
địa phương, làm tròn mọi nhiệm vụ mà nhân dân và cấp trên giao cho.
1.1.2.2. Chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân cấp xã
Giám sát là chức năng quan trọng của HĐND nói chung và HĐND cấp
xã nói riêng. Để nhận thức đúng đắn bản chất, nội dung và phương thức hoạt
động giám sát của HĐND cấp xã, trước hết cần làm rõ khái niệm "giám sát".
- Có quan niệm cho rằng "giám sát" là: "Sự theo dõi, xem xét, làm
đúng hoặc sai những điều đã quy định" [40, tr. 305].
- Quan niệm khác coi "giám sát là việc theo dõi và kiểm tra xem có

thực hiện đúng những điều quy định không" [39, tr. 374].
- Có ý kiến chỉ coi "giám sát là một nhóm hoặc là một tổ chức để theo
dõi người, việc nào đấy" [43, tr. 230].
- Với cách tiếp cận mang tính hệ thống, tính khoa học pháp lý, có ý
kiến lại cho rằng:
Giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ
động, thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện
pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của các đối tượng chịu
sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được những mục
đích, hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm cho pháp luật được tuân
thủ nghiêm chỉnh [42, tr. 174].
Tuy cách diễn đạt và biểu hiện ‎ý nghĩa của từ "giám sát" có khác
nhau, nhưng các quan niệm trên đều đề cập đến nội dung cơ bản: giám sát là
việc theo dõi, xem xét và kiểm tra một chủ thể nào đó trong một công việc,
lĩnh vực cụ thể đã thực hiện đúng hay chưa những điều đã quy định; từ đó có
biện pháp điều chỉnh hoặc xử lý đối với những hành vi sai lệch, nhằm đạt
được mục đích, hiệu quả xác định từ trước, đảm bảo cho các quy định được
thực hiện đúng và đầy đủ.


21
Với quan niệm trên giám sát có những đặc trưng sau:
- Giám sát luôn luôn gắn với một chủ thể nhất định. Tức là phải trả lời
được câu hỏi cá nhân hoặc tổ chức nào có quyền theo dõi, xem xét, đánh giá
một việc đã được thực hiện là đúng hay sai những điều đã quy định?
- Giám sát luôn luôn gắn với một đối tượng nhất định. Tức là phải trả
lời được câu hỏi giám sát ai và giám sát việc gì?
- Giám sát phải thể hiện được quan hệ giữa các chủ thể tham gia vào
hoạt động giám sát. Nội dung của quan hệ này biểu hiện ở những quyền và
nghĩa vụ của chủ thể giám sát và đối tượng chịu sự giám sát.

- Giám sát phải được tiến hành trên những căn cứ do pháp luật quy định.
Bởi đó chính là cơ sở, chuẩn mực để chủ thể có quyền thực hiện việc giám sát
đưa ra những nhận định chính xác về hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát.
- Giám sát là hoạt động có mục đích. Mục đích của giám sát là đưa ra
được những nhận định chính xác của chủ thể giám sát đối với hoạt động của
đối tượng chịu sự giám sát. Từ đó có biện pháp xử lý đối với những việc làm
sai trái, nhằm đảm bảo những quy định pháp luật được thực hiện nghiêm túc.
Như vậy, thuật ngữ "giám sát" nếu chỉ hiểu theo nghĩa chung thì phạm
vi áp dụng của nó rất rộng. Muốn có một cách hiểu cụ thể thì hoạt động giám
sát bao giờ cũng phải gắn với một chủ thể xác định như giám sát của Đảng,
giám sát của Quốc hội, của HĐND, giám sát của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ)
Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1983 đã chính thức sử dụng thuật
ngữ "giám sát" để qui định chức năng giám sát của HĐND. Đến Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 1994, chức năng này một lần nữa được qui định cụ thể
hơn. Đặc biệt với sự ra đời của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, đã
đánh dấu một bước phát triển mới về chức năng giám sát của HĐND, góp phần
nâng cao vị thế, vai trò của HĐND. Tuy nhiên, Luật tổ chức HĐND và UBND
năm 2003 vẫn chưa có điều luật nào giải thích cụ thể, rõ ràng thuật ngữ này.


22
Nếu căn cứ vào các yếu tố cấu trúc của khái niệm giám sát, căn cứ vào
những quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và
các văn bản pháp luật khác, hoạt động giám sát của HĐND cấp xã được hiểu
như sau: Hoạt động giám sát của HĐND cấp xã là tổng thể các hoạt động của
HĐND, của Thường trực HĐND và đại biểu HĐND cấp xã nhằm xem xét,
theo dõi, đánh giá hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám
sát trong việc chấp hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, các văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên và các nghị quyết của HĐND cấp xã; từ đó đưa ra các kết
luận và phương án xử l


ý phù hợp để khắc phục những hạn chế, phát huy mọi
tiềm năng, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, đảm bảo quốc
phòng an ninh; không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.
Đặc điểm hoạt động giám sát của HĐND cấp xã
Trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, quyền giám sát việc thực
hiện pháp luật thuộc về nhiều cơ quan, tổ chức: Quốc hội, Chủ tịch nước,
VKSND, TAND, HĐND, Đảng Cộng sản Việt Nam, MTTQ và các tổ chức
thành viên Trong đó, giám sát của HĐND cấp xã có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với sự phát triển của địa phương. Xuất phát từ vị trí, vai trò của
HĐND cấp xã và tính phong phú trong hoạt động giám sát, giám sát của
HĐND cấp xã có các đặc điểm sau:
- Đặc điểm về chủ thể giám sát
Theo Điều 57 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, giám sát của
HĐND cấp xã bao gồm: giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của Thường
trực HĐND và giám sát của đại biểu HĐND.
- Đặc điểm về đối tượng giám sát
Theo Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, đối tượng giám sát
của HĐND cấp xã bao gồm:
+ Thường trực HĐND, UBND cùng cấp (Khoản 1, Điều 58).


23
+ Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND và các thành viên khác của UBND,
cán bộ chuyên môn của UBND cùng cấp (Khoản 2, Điều 58)
+ Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân và công dân ở địa phương (Điều 1, Điều 42).
Như vậy, theo pháp luật hiện hành, đối tượng giám sát của HĐND cấp
xã rất phong phú và đa dạng, bao gồm tất cả các cơ quan nhà nước, đơn vị

kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân ở địa phương.
Quy định như trên vừa thể hiện được vị trí của HĐND cấp xã là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, vừa đảm bảo cho Hiến pháp, pháp
luật, các nghị quyết của HĐND cấp xã được tuân thủ nghiêm minh. Đây là
nội dung có ý nghĩa quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho HĐND cấp xã thực
hiện có hiệu quả những nhiệm vụ, quyền hạn của mình trên thực tế.
- Đặc điểm về hình thức giám sát
Hình thức ở đây được hiểu là cách thức mà HĐND cấp xã áp dụng để
giám sát các đối tượng theo quy định của pháp luật.
Để phát huy vai trò của hoạt động giám sát, Điều 58 Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 2003 và Quy chế hoạt động của HĐND các cấp năm
2005 đã quy định HĐND cấp xã giám sát dựa trên những hình thức như sau:
Thứ nhất: Xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND và UBND
cùng cấp.
Đây là hình thức giám sát trực tiếp rất quan trọng của HĐND cấp xã.
Theo Điều 60 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì: Tại kỳ họp cuối
năm, HĐND xem xét, thảo luận báo cáo công tác hàng năm của Thường trực
HĐND, UBND cùng cấp. Tại kỳ họp giữa năm, các cơ quan này gửi báo cáo
công tác đến đại biểu HĐND; khi cần thiết, HĐND có thể xem xét, thảo luận.
Tại kỳ họp cuối nhiệm kỳ, HĐND xem xét, thảo luận báo cáo công tác cả
nhiệm kỳ của HĐND, Thường trực HĐND và UBND cùng cấp. HĐND có thể
yêu cầu báo cáo về những vấn đề khác khi xét thấy cần thiết.


24
Theo Khoản 3 Điều 60 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì
HĐND cấp xã xem xét, thảo luận các báo cáo phải đảm bảo trình tự: Người
đứng đầu các cơ quan bị giám sát trình bày báo cáo; HĐND thảo luận; người
đứng đầu cơ quan trình báo cáo có thể trình bày thêm những vấn đề có liên
quan mà HĐND quan tâm; HĐND ra nghị quyết về báo cáo công tác khi xét

thấy cần thiết.
Việc xem xét báo cáo buộc chủ thể bị giám sát phải báo cáo về công
việc của mình là một hình thức giám sát quan trọng. Trên cơ sở đó HĐND
cấp xã có thể kiểm soát tình hình thực thi Hiến pháp, pháp luật và các văn bản
pháp luật cũng như nghị quyết của HĐND cấp xã trong thực tiễn đời sống xã
hội, tăng cường trách nhiệm cá nhân người đứng đầu UBND cùng cấp và các
ban ngành về công tác của họ trước HĐND.
Thứ hai: Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch
UBND, thành viên khác của UBND, cán bộ chuyên môn của UBND cùng cấp
Chất vấn là hoạt động giám sát đặc biệt quan trọng, thể hiện quyền lực
của cơ quan dân cử ở địa phương. Tại kỳ họp, chất vấn là nội dung thu hút
được sự quan tâm của đông đảo nhân dân. Thông qua chất vấn, các đại biểu
thể hiện trách nhiệm của mình đối với cử tri. Đồng thời, qua việc trả lời chất
vấn, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng.
Theo quy định tại Điều 61 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003
thì tại kỳ họp việc chất vấn và trả lời chất vấn được thực hiện như sau:
+ Đại biểu HĐND ghi rõ nội dung chất vấn, người bị chất vấn vào
phiếu ghi chất vấn và gửi đến Thường trực HĐND. Thường trực HĐND
chuyển chất vấn đến người bị chất vấn và tổng hợp các chất vấn của đại biểu
HĐND để báo cáo HĐND.
+ Thường trực HĐND dự kiến danh sách những người có trách nhiệm
trả lời chất vấn và báo cáo HĐND quyết định.


25
+ Việc trả lời chất vấn tại phiên họp toàn thể của HĐND được thực
hiện theo trình tự: Người bị chất vấn trả lời trực tiếp, đầy đủ về các nội dung
mà đại biểu HĐND đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm, biện pháp khắc
phục. Đại biểu HĐND có thể nêu câu hỏi liên quan đến nội dung đã chất vấn.
Sau khi nghe trả lời chất vấn, nếu đại biểu HĐND không đồng ý với nội dung

trả lời thì có quyền đề nghị HĐND tiếp tục thảo luận tại phiên họp đó hoặc
đưa ra thảo luận tại phiên họp khác hoặc kiến nghị HĐND xem xét trách
nhiệm của người bị chất vấn. HĐND ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và
trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết.
Thực chất hoạt động chất vấn là việc đại biểu HĐND đưa ra các câu
hỏi chất vấn cho các đối tượng bị chất vấn, nội dung của câu hỏi này thường
xoay quanh các vấn đề nóng bỏng mà nhân dân địa phương quan tâm thuộc
lĩnh vực quản lý trực tiếp hoặc có liên quan đến đối tượng bị chất vấn.
Thứ ba: Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của UBND cấp xã khi
phát hiện có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp
lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp
luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp.
Đây là hình thức HĐND cấp xã giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của
các văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp. Nếu HĐND cấp xã
phát hiện thấy những văn bản này có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của
HĐND cấp xã thì HĐND cấp xã sẽ xem xét, quyết định việc bãi bỏ văn bản đó.
Việc xem xét phải đảm bảo trình tự sau:
+ Đại diện Thường trực HĐND trình văn bản quy phạm pháp luật có
dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan
nhà nước cấp trên;


26
+ HĐND thảo luận. Trong quá trình thảo luận, Chủ tịch UBND đã ban
hành văn bản quy phạm pháp luật có thể trình bày bổ sung những vấn đề có
liên quan;
+ HĐND ra nghị quyết về việc văn bản quy phạm pháp luật trái với
Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp

trên; quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó.
Có thể nói, hoạt động xem xét văn bản quy phạm pháp luật của
HĐND cấp xã có vai trò rất quan trọng. Qua hoạt động này, mới loại bỏ được
những văn bản pháp luật sai trái, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống
nhất của các văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ tư: Thành lập Đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, xét thấy cần
thiết phải xác minh, làm rõ một sự việc nào đó thì HĐND cấp xã có thể thành
lập Đoàn giám sát.
Điều 63, Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: Khi thực
hiện nhiệm vụ giám sát do HĐND cấp xã giao, Đoàn giám sát có trách nhiệm:
+ Thông báo nội dung, kế hoạch giám sát cho cơ quan, tổ chức, cá
nhân chịu sự giám sát chậm nhất là bảy ngày trước ngày bắt đầu tiến hành
hoạt động giám sát.
+ Mời đại diện Ban thường trực Ủy ban MTTQ, các tổ chức thành viên
của Mặt trận và yêu cầu đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham
gia giám sát; cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện yêu cầu này.
+ Thực hiện đúng nội dung, kế hoạch giám sát và thẩm quyền, trình
tự, thủ tục giám sát; không làm cản trở hoạt động bình thường đối tượng chịu
sự giám sát.
+ Trong trường hợp cần thiết, Đoàn giám sát yêu cầu các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp để chấm dứt hành vi vi


27
phạm, xử lý người vi phạm nhằm khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân bị vi phạm và chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu
cầu, kiến nghị qua hoạt động giám sát của mình.
Thứ năm: Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu
Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu là một

hình thức giám sát mới của HĐND được qui định trong Luật Tổ chức HĐND
và UBND năm 2003. Với quy định này nói lên sức mạnh của nhân dân thể
hiện qua các đại biểu HĐND, nó chứng tỏ rằng nhân dân có quyền mạnh tay
nếu các công bộc - các quan chức không vì lợi ích của họ.
Những chủ thể có quyền nêu ra vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm là: Thường
trực HĐND, đại biểu HĐND, Ủy ban MTTQ cấp xã. Mặc dù theo quy định
của pháp luật có nhiều chủ thể có quyền đặt ra vấn đề bất tín nhiệm nhưng
việc trình HĐND xem xét bỏ phiếu tín nhiệm chỉ thuộc thẩm quyền của
Thường trực HĐND.
Điều 65 Luật tổ chức HĐND và UBND cũng quy định về trình tự, thủ
tục, cách thức tiến hành việc bỏ phiếu tín nhiệm:
+ Thường trực HĐND cấp xã trình HĐND về việc bỏ phiếu tín nhiệm
+ Người được đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm có quyền trình bày ý kiến của
mình trước HĐND cấp xã, HĐND cấp xã thảo luận và bỏ phiếu tín nhiệm.
+ Trong trường hợp không được quá nửa tổng số đại biểu HĐND cấp
xã tín nhiệm thì người đã giới thiệu để bầu người đó có trách nhiệm trình
HĐND cấp xã xem xét, quyết định việc miễn nhiệm, bãi nhiệm người không
được HĐND cấp xã tín nhiệm.
Theo khoản 7, Điều 53 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, cơ
sở để Thường trực HĐND cấp xã trình HĐND cấp xã bỏ phiếu tín nhiệm là
theo đề nghị Ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã hoặc ít nhất một phần ba tổng
số đại biểu HĐND (tức là hơn 33% tổng số đại biểu).

×