Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Hòa giải cơ sở - qua thực tiễn ở huyện Gia Lâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 116 trang )



1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN PHI LONG





HÒA GIẢI CƠ SỞ -
QUA THỰC TIỄN Ở HUYỆN GIA LÂM




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






HÀ NỘI – 2012









2





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN PHI LONG




HÒA GIẢI CƠ SỞ -
QUA THỰC TIỄN Ở HUYỆN GIA LÂM

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01



luận văn thạc sĩ luật học



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tất Viễn


Hà nội - 2012





3
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HÒA GIẢI
CƠ SỞ
8
1.1.
Xung đột xã hội và giải quyết xung đột xã hội bằng hòa giải
8
1.1.1.
Xung đột xã hội và phương thức giải quyết xung đột xã hội
8
1.1.2.
Triết lý hòa giải trong giải quyết tranh chấp, xích mích
10
1.2.
Khái niệm, đặc điểm, phạm vi của hòa giải ở cơ sở
14
1.2.1.
Khái niệm "hòa giải ở cơ sở"
14
1.2.2.
Đặc điểm hòa giải ở cơ sở
20
1.2.3.
Phạm vi hòa giải ở cơ sở
22
1.3.
Khái quát thể chế hòa giải ở cơ sở ở Việt Nam
27
1.3.1.

Thời kỳ trước năm 1945
27
1.3.2.
Thời kỳ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước năm 1998
30
1.3.3.
Thời kỳ từ năm 1998 đến nay
35
1.4.
Hòa giải của một số nước trong khu vực và kinh nghiệm
đối với Việt Nam
41
1.4.1.
Hòa giải ở Trung Quốc
41
1.4.2.
Hòa giải ở Thái Lan
42
1.4.3.
Hòa giải ở Singapore
44


4
1.4.4.
Hòa giải ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
44
1.4.5.
Hòa giải ở Nhật Bản
46

1.4.6.
Những kinh nghiệm cho Việt Nam
48

Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM
49
2.1.
Những điều kiện lịch sử, văn hóa chi phối và ảnh hưởng
đến hoạt động hòa giải của huyện Gia Lâm
49
2.2.
Việc áp dụng các quy định về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn
huyện Gia Lâm
55
2.2.1.
Những quy định chung về hòa giải ở cơ sở
55
2.2.2.
Những quy định của thành phố Hà Nội
61
2.2.3.
Những quy định của huyện Gia Lâm
65
2.3.
Thực trạng về tổ chức và hoạt động hòa giải cơ sở trên địa
bàn huyện Gia Lâm và những vấn đề đang đặt ra
66
2.3.1.
Về tổ chức thực hiện hòa giải cơ sở trên địa bàn huyện

66
2.3.2.
Quản lý nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn
71
2.3.3.
Đánh giá chung
78
2.3.3.1.
Kết quả
78
2.3.3.2.
Tồn tại và nguyên nhân
79

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG CÔNG TÁC HÒA GIẢI TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN GIA LÂM
83
3.1.
Phương hướng
84
3.1.1.
Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội
về hòa giải, xác định đó là một định chế xã hội phát huy
quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở
84
3.1.2.
Nâng cao năng lực quản lý của cơ quan Tư pháp huyện và
84



5
đội ngũ cán bộ tư pháp xã, thị trấn đối với công tác hòa giải
ở cơ sở
3.1.3.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở;
tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho hoạt động hòa giải
85
3.1.4.
Đẩy mạnh hoạt động phối hợp của chính quyền với các
đoàn thể, tổ chức chính trị trong thực hiện công tác hòa giải
ở cơ sở
86
3.2.
Giải pháp
87
3.2.1.
Hoàn thiện thể chế pháp lý về hòa giải ở cơ sở
87
3.2.2
Những giải pháp khác
92

KẾT LUẬN
101

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
103

PHỤ LỤC

110



6
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, dưới tác động của kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước
pháp quyền, hội nhập quốc tế, đời sống kinh tế - xã hội của người Việt Nam
có những biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ. Các tranh chấp, mâu thuẫn và xung đột
xã hội có chiều hướng gia tăng với những diện mạo mới, đòi hỏi phải được
giải quyết bằng những phương thức thích hợp. Hòa giải ở cơ sở là một trong
những hình thức góp phần giải quyết hài hòa và có hiệu quả các mâu thuẫn,
tranh chấp đó.
Hòa giải là một truyền thống, một đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Công tác hòa giải ở cơ sở góp phần giữ ổn định trật tự xã hội, giữ gìn tình làng
nghĩa xóm, tình đoàn kết, tương thân tương ái trong cộng đồng, tập thể, hàn
gắn, vun đắp sự hòa thuận, hạnh phúc cho từng gia đình. Nhiều vụ việc mâu
thuẫn giữa hàng xóm, láng giềng, giữa những người thân trong gia đình, dòng họ
nhờ được kịp thời can thiệp, dàn xếp của những cán bộ hòa giải mà giải tỏa
được những bức xúc, giữ được "tình làng, nghĩa xóm" và sự bình yên trong
mỗi mái ấm gia đình. Hơn nữa việc thực hiện tốt công tác hòa giải ở cơ sở sẽ
có tác dụng tích cực trong việc xây dựng xã hội bình yên, giàu mạnh, tăng
cường tình đoàn kết trong nhân dân và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân.
Tại lớp tập huấn cán bộ tư pháp toàn quốc năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dạy: "Các cô, các chú xét xử đúng là tốt, nhưng không phải xét xử
thì càng tốt hơn". Hiểu đúng và đầy đủ lời dạy của Người thì hòa giải có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội và cộng đồng dân cư. Hòa
giải có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hướng dẫn các bên có xích mích,

va chạm hay tranh chấp trở lại trạng thái quan hệ bình thường, tránh việc nhỏ
trở thành việc lớn trên cơ sở thỏa thuận, tự nguyện với tinh thần "chín bỏ làm
mười", nhằm hướng tới sự đoàn kết gắn bó bền vững, lâu dài trong mỗi cộng


7
đồng dân cư và toàn xã hội. Vấn đề này đã được Đảng ta quan tâm và đã có
chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, được thể hiện rõ trong Nghị quyết
Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (khóa VII) đó là: "Coi trọng vai
trò hòa giải của chính quyền kết hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở
cơ sở".
Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001, tại Điều 127
quy định: "Ở cơ sở thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải
quyết những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo
quy định của pháp luật" [46]. Hòa giải ở cơ sở thể hiện tính dân chủ trong
giải quyết tranh chấp; thông qua hòa giải ở cơ sở nhân dân thể hiện làm chủ
của trong quá trình giải quyết các tranh chấp, xây dựng và củng cố tình làng,
nghĩa xóm, góp phần ngăn ngừa và hạn chế các vi phạm pháp luật và những
vấn đề bức xúc dễ dẫn đến "điểm nóng". Với phương châm giải quyết "thấu
tình, đạt lý", hòa giải cơ sở là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý và tình, giữa
đạo đức và pháp luật, là phương thức thể hiện dân chủ và sự thể hiện tư tưởng
"lấy dân làm gốc".
Quá trình tổ chức thực hiện công tác hòa giải trên phạm vi cả nước,
trong đó có địa bàn huyện Gia Lâm (thành phố Hà Nội) cho thấy ở những xã,
thị trấn nào làm tốt công tác hòa giải ở cơ sở thì tình hình an ninh, trật tự được
giữ vững, tạo đà cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống người dân.
Ngược lại, ở những nơi còn coi nhẹ công tác hòa giải, tình hình mâu thuẫn,
tranh chấp có chiều hướng tăng, dẫn đến mất trật tự, trị an xã hội. Thông thường,
những mâu thuẫn, va chạm trong cuộc sống, lúc đầu đơn giản, nhưng do không
được quan tâm giải quyết kịp thời cho nên đã nhanh chóng trở thành phức tạp,

thậm chí là nguyên nhân xuất hiện những "điểm nóng" về khiếu kiện.
Vai trò của công tác hòa giải ở cơ sở quan trọng như vậy, song thể chế
pháp lý, cơ chế, chính sách cho tổ chức, hoạt động hòa giải còn nhiều bất cập.
Thực tế tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn cả nước nói chung
và trong phạm vi huyện Gia Lâm nói riêng đang đặt ra nhiều vấn đề trên cả


8
phương diện lý luận và thực tiễn. Việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng quy
định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ chức hoạt động hòa
giải ở cơ sở từ đó đề ra phương hướng hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt
động hòa giải ở cơ sở và giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng công tác
hòa giải ở cơ sở trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội là vấn đề có ý
nghĩa quan trọng và mang tính cấp thiết, góp phần thực hiện dân chủ hóa mọi
mặt của đời sống xã hội, duy trì, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trong sự
nghiệp xây dựng quê hương Gia Lâm dân chủ, văn minh, giàu đẹp.
Là một cán bộ của huyện Gia Lâm, có nhiều năm gắn bó với công tác
hòa giải ở cơ sở, tác giả nhận thấy những giá trị to lớn mà công tác hòa giải đã
mang lại. Với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng công tác hòa giải ở
cơ sở trên địa bàn huyện Gia Lâm, được sự gợi ý của Khoa Luật và Bộ môn
Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, tác giả đã lựa chọn đề tài "Hòa giải
cơ sở - qua thực tiễn ở huyện Gia Lâm" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực
hòa giải ở cơ sở, cụ thể: "Một số tham luận và kinh nghiệm công tác hòa giải
ở cơ sở năm 1996" của Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh (1997), "Công
tác hòa giải ở cơ sở" do Luật gia Nguyễn Đình Hảo chủ biên (Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997), "Vì hạnh phúc của mọi nhà" do Phó tiến sĩ
Nguyễn Vĩnh Oánh và Luật gia Trần Thị Quốc Khánh chủ biên (Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998). Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này

mới chỉ dừng lại ở một phạm vi hẹp, nội dung mới chỉ đề cập những vấn đề
về thực tiễn tổ chức và hoạt động của Tổ hòa giải, chưa đi sâu nghiên cứu về
mặt lý luận của công tác hòa giải ở cơ sở.
Ngoài ra, còn một số sách hướng dẫn về nghiệp vụ công tác hòa giải ở
cơ sở mới chỉ đề cập đến các quy định pháp luật về công tác hòa giải ở cơ sở
với tính chất hướng dẫn nghiệp vụ chứ không đi vào nghiên cứu thực trạng,


9
phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về lĩnh vực hòa giải ở cơ sở
như: "Hướng dẫn nghiệp vụ công tác hòa giải ở cơ sở (tủ sách pháp luật xã,
phường, thị trấn)" - Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, năm
2000 do Tiến sĩ Dương Thanh Mai chủ biên, "Công tác hòa giải ở cơ sở" - Bộ
tài liệu tập huấn thống nhất về công tác hòa giải ở cơ sở dành cho cán bộ tư
pháp và các hòa giải viên do Bộ Tư pháp xây dựng trong khuôn khổ Dự án
VIE/02/015 "Hỗ trợ thực thi Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010" do Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP),
cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế của Chính phủ Thụy Điển (Sida), cơ quan
Hợp tác phát triển quốc tế của Chính phủ Đan Mạch (DANIDA), Chính phủ
Na Uy và Chính phủ Ai Len tài trợ.
Một số cuốn sách khác chỉ đề cập đến một khía cạnh con người của
công tác hòa giải ở cơ sở như: cuốn "Đánh giá năng lực cán bộ tư pháp cấp
tỉnh về quản lý, hướng dẫn công tác hòa giải ở cơ sở", trong khuôn khổ Dự
án VIE/02/015 "Hỗ trợ thực thi Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010", Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2005, cuốn "Hướng dẫn
nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật" do Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội ấn
hành năm 2006,
Một số nhà nghiên cứu về xã hội học cũng có những công trình nghiên
cứu liên quan đến hòa giải ở cơ sở như Giáo sư Tương Lai với bài viết "Đồng
thuận xã hội" trên Tạp chí Tia sáng, tháng 11 năm 2005; tác giả Nguyễn Thị

Lan với bài viết "Đồng thuận xã hội và việc xây dựng sự đồng thuận xã hội ở
nước ta hiện nay" đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị, số 6 năm 2006; các bài
viết của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi Quang Dũng về "Giải quyết xích mích trong
nhóm gia đình: phác thảo từ những kết quả nghiên cứu định tính", "Giải
quyết xích mích trong nội bộ nhân dân: phác thảo từ những kết quả nghiên
cứu định tính", "Hòa giải ở nông thôn miền Bắc Việt Nam (giả thuyết dành
cho một cuộc nghiên cứu)" đăng trên Tạp chí Xã hội học, số 4 năm 2001, số 1
và số 3 năm 2002.


10
Một số các bài viết trong Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề
tháng 7 năm 2006 về công tác hòa giải ở Hải Phòng mới chỉ đề cập đến thực
tiễn công tác hòa giải như kết quả, một số tồn tại cũng như giải pháp nâng cao
hiệu quả và chỉ trong phạm vi một địa bàn nhất định.
Còn đối với các nhà nghiên cứu nước ngoài, cũng đã có những công
trình nghiên cứu, khảo sát trực tiếp hoặc gián tiếp về hòa giải ở cơ sở tại Việt
Nam với tư cách là một phương thức giải quyết xung đột xã hội dưới dạng
những tranh chấp, xích mích nhỏ trong cộng đồng dân cư, hoặc cũng có thể
coi hòa giải là một khía cạnh của đời sống xã hội dân sự truyền thống của
nông thôn Việt Nam. Đó là các công trình nghiên cứu của nhóm tác giả về
"Đánh giá xã hội dân sự ở Việt Nam"; Dự án điều tra của Viện Xã hội học -
Viện Khoa học xã hội Việt Nam; hoặc là các công trình nghiên cứu của các
chuyên gia Nhật Bản, Hàn Quốc về vấn đề này.
Tuy nhiên đến nay chưa có những công trình nghiên cứu nào về tổ
chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn huyện Gia Lâm. Do đó, việc
nghiên cứu những quy định của pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ
sở và việc áp dụng chúng trên một địa bàn huyện ven đô, từ thực tiễn đó đề ra
phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt
động hòa giải ở cơ sở là rất cần thiết.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: làm rõ vai trò và đặc điểm hòa giải ở cơ sở, trên cơ sở đánh
giá thực trạng tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ địa bàn huyện Gia Lâm, thành
phố Hà Nội, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở.
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu
luận văn cần giải quyết những vấn đề sau:
+ Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về hòa giải ở cơ sở, khái quát thể
chế hòa giải ở cơ sở ở Việt Nam và tìm hiểu những điểm ưu việt của công tác
hòa giải của một số nước trong khu vực.


11
+ Nêu, phân tích thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ
chức hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
+ Đề xuất phương hướng và các giải pháp nâng cao chất lượng công
tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, các phương pháp nghiên cứu cụ thể được tác giả sử dụng
trong quá trình nghiên cứu: phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh,
điều tra xã hội học.
5. Những điểm mới của luận văn
- Nghiên cứu về xung đột xã hội và nhu cầu giải quyết xung đột xã hội
bằng hòa giải, khái niệm, đặc điểm, phạm vi của hòa giải ở cơ sở nhằm góp
phần hoàn thiện những cơ sở lý luận về hòa giải ở cơ sở.
- Phát hiện những điểm còn bất cập trong quy định của pháp luật về
hòa giải ở cơ sở, những tồn tại trong tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở trên
địa bàn huyện Gia Lâm, tìm ra nguyên nhân của những tồn tại đó. Đề xuất
phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động hòa
giải ở cơ sở trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể
được khai thác, sử dụng trong nghiên cứu về công tác hòa giải ở cơ sở của các cơ
quan tư pháp và có thể làm tài liệu tham khảo trong xây dựng Luật về tổ chức
và hoạt động hòa giải ở cơ sở đang được Bộ Tư pháp chủ trì trình Quốc hội.
- Về mặt thực tiễn: Các cơ quan tư pháp, cán bộ tư pháp, hòa giải viên
trong huyện Gia Lâm và những quận huyện khác của Hà Nội có thể khai thác,
vận dụng những kết quả nghiên cứu của luận văn để tham mưu đề xuất những
giải pháp với cơ quan có chức năng để nâng cao chất lượng, hiệu quả của


12
công tác hòa giải ở cơ sở, vận dụng để triển khai các hoạt động nghiệp vụ về
hòa giải ở cơ sở như: quản lý nhà nước, tập huấn nghiệp vụ, xây dựng các
chương trình phối hợp,
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hòa giải cơ sở.
Chương 2: Thực trạng công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn huyện
Gia Lâm.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác hòa
giải trên địa bàn huyện Gia Lâm.




13
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HÒA GIẢI CƠ SỞ


1.1. XUNG ĐỘT XÃ HỘI VÀ GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT XÃ HỘI BẰNG
HÒA GIẢI
1.1.1. Xung đột xã hội và phương thức giải quyết xung đột xã hội
Trong xã hội luôn luôn tồn tại những mặt đối lập và sự đấu tranh giữa
các mặt đối lập, đó là động lực của sự phát triển. Con người là tổng hòa của
các quan hệ xã hội, gắn kết với nhau bởi những mối quan hệ đa dạng, phức
tạp, nhiều chiều cạnh. Bên cạnh xu hướng đồng thuận trong xã hội, xung đột
xã hội là một xu hướng khác, diễn ra theo chiều "âm bản", là một trong trong
những hệ quả của sự đa dạng phức tạp đó.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về xung đột xã hội. Có quan
điểm cho rằng: xung đột xã hội là sự mâu thuẫn căng thẳng nhất thể hiện sự
xung khắc giữa các cộng đồng xã hội khác nhau - các giai cấp, các quốc gia,
các nhóm xã hội, các thiết chế xã hội,… do sự đối lập hoặc sự khác biệt đáng
kể về lợi ích, mục đích, khuynh hướng phát triển của chúng quyết định. Xung
đột xã hội nảy sinh và giải quyết trong tình huống xã hội cụ thể do xuất hiện
vấn đề xã hội đòi hỏi phải được giải quyết. Xung đột xã hội có các nguyên
nhân, những người đại diện của mình (các giai cấp, các nhóm xã hội,…), có
các chức năng, độ dài và mức độ căng thẳng nhất định.
Quan điểm khác lại cho rằng, xung đột xã hội là tình trạng mâu thuẫn
hoặc ngấm ngầm của các cấu thành xã hội có sự đối lập khách quan về các lợi
ích, các mục đích và các khuynh hướng phát triển vốn không phù hợp với
nhau, là sự đụng độ trực tiếp hay gián tiếp giữa các lực lượng xã hội trên cơ
sở phản kháng hay ủng hộ trật tự xã hội hiện tồn, là hình thức đặc biệt về mặt
lịch sử của sự thống nhất mới về mặt xã hội.


14
Xung đột xã hội, theo quan điểm khác - đó là tình huống khi các bên
tác động lẫn nhau, theo đuổi những mục đích nào đó của mình mà những mục

đích đó đối lập hoặc loại trừ nhau.
Những khái niệm trên nhìn chung là phù hợp nhưng rộng và trừu
tượng. Trong những khái niệm đó không có chỗ cho những xung đột xã hội
"có quy mô hẹp hơn" chẳng hạn như các xung đột xã hội trong đời sống hàng
ngày, các xung đột trong lao động, sản xuất, kinh doanh… Trong khi đó
những hiện tượng xung đột này không thể không nói đến.
Như vậy, xung đột xã hội là sự biểu hiện của những mâu thuẫn xã hội
khách quan hoặc chủ quan phản ánh sự đối lập giữa những người đại diện
(các bên) của chúng. Trong xã hội, những lực lượng đó là những chủ thể của
xã hội: những con người cụ thể như các cá thể (cá nhân), các nhóm, các tầng
lớp xã hội, các tổ chức chính trị, các tổ chức xã hội…
Khi những xung đột xã hội diễn ra dưới dạng các mâu thuẫn, tranh
chấp, cần có phương thức điều hòa, giải quyết để xã hội trở lại một trật tự
nhất định. Về nguyên lý, cơ chế giải quyết xung đột xã hội có thể được phân
thành hai loại: a) cơ chế tự giải quyết xung đột xã hội (việc giải quyết xung
đột do chính các bên xung đột thực hiện); b) cơ chế giải quyết xung đột xã hội
có sự can thiệp của bên thứ ba.
Hòa giải là một trong những phương thức có hiệu quả để giải quyết
các xung đột đó. Thực tế cho thấy, không thể tránh được mọi xung đột xã hội,
nhưng yêu cầu quản lý xã hội và quản lý phát triển xã hội đặt ra là phải tránh
được những thiệt hại mà các sự kiện xung đột xã hội có thể mang lại do
không được kiểm soát.
Có nhiều cách tiếp cập giải quyết xung đột xã hội bằng con đường
hòa giải, trong số đó có những cách tiếp cận sau:
- Cách tiếp cận giải quyết xung đột căn cứ vào các quy định pháp
luật. Theo cách tiếp cận này, trong xã hội cần phải có các cơ chế tiến hành các


15
cuộc tư vấn, các cuộc thương lượng tìm kiếm các quyết định có lợi cho tất cả

các bên xung đột, tranh chấp, trong đó có các cơ chế hoạt động trong khuôn
khổ của quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Cách tiếp cận giải quyết xung đột bằng sự đồng thuận. Theo cách
tiếp cận này, khi có sự bất đồng giữa các bên xung đột về một vấn đề nào đó,
xung đột cần được giải quyết theo sự chấp nhận của các bên. Các xung đột ở
mức độ cao hay thấp đều có thể điều chỉnh và giải quyết được một khi cả hai
bên xung đột đều có hệ thống các giá trị chung. Việc tìm kiếm một quyết định
mà cả hai bên xung đột đều chấp nhận được có khả năng trở thành hiện thực
trên thực tế.
- Cách tiếp cận tâm lý. Có rất nhiều điều phụ thuộc vào những đặc
điểm nhân thân của những người tham gia vào việc đưa ra một quyết định
trong thời gian xảy ra xung đột. Đối với các chủ thể của cuộc xung đột, nếu
nhận thức được việc mình thực hiện là không có triển vọng hoặc thiếu kinh
nghiệm (thiếu hiểu biết), họ điều chỉnh hành vi của mình chủ yếu theo hướng
làm giảm sự căng thẳng xã hội do tình huống xung đột gây ra.
1.1.2. Triết lý hòa giải trong giải quyết tranh chấp, xích mích
Hiện nay ở Việt Nam có nhiều hình thức hòa giải khác nhau: hòa giải
ở cơ sở, hòa giải tại Tòa án, hòa giải lao động, hòa giải thương mại, kể cả thỏa
thuận trong tố tụng hành chính và tố tụng hình sự cũng được coi là một biểu
hiện của hòa giải. Những cơ sở lịch sử - nhận thức của hòa giải ở Việt Nam
có thể phân tích dưới các biểu hiện sau:
Thứ nhất: Xét từ góc độ lịch sử - truyền thống và tâm lý xã hội, đối
với Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, hòa giải là một hiện tượng
văn hóa. Theo Hồ Chí Minh: "Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích
ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn" [37, tr. 431].


16
Lịch sử cho thấy xã hội cổ truyền Việt Nam được mở rộng theo công

thức Nhà - Làng - Nước. Làng là đơn vị cơ sở cấu thành nên quốc gia, mang
tính khép kín, tự quản rất cao. Trong một cộng đồng làng xã khép kín, "phép
vua thua lệ làng", người Việt xưa có thói quen ứng xử theo đạo đức, phong
tục tập quán hơn là theo pháp luật. Cách sống duy tình hơn duy lý đã làm cho họ
rất ngại kiện tụng, coi việc phải đến chốn công đường là một điều bất đắc dĩ.
Vì vậy, trong nhiều trường hợp, người ta thường dĩ hòa vi quý, hòa giải được
xem là phương án tối ưu. Nước có thời mất nhưng làng xã và truyền thống
làng xã, trong đó có truyền thống hòa giải không bao giờ mất. Đó là tiền đề
lịch sử rất quan trong của việc tồn tại ý thức hòa giải trong tâm lý người Việt.
Thứ hai: Hòa giải "là một nhu cầu của xã hội tự quản, hay nói đúng
hơn là nhu cầu của xã hội dân sự, hòa giải dễ được chấp nhận vì không có
người thắng người thua" [38], nếu có "thua thiệt" thì cũng là thua ít nhất,
nhưng lại chính là thắng nhiều nhất. Hòa giải giúp cho việc giải quyết các
tranh chấp, xích mích, vi phạm pháp luật vừa tiết kiệm thời gian, chi phí xã
hội. C. Mác đã từng nói: Nếu xem xét mức độ phát triển nhất định của sản
xuất, trao đổi và phân phối, các anh sẽ thấy một chế độ xã hội nhất định, một
tổ chức nhất định của gia đình, các tầng lớp, giai cấp, một xã hội dân sự. Điều đó
hoàn toàn phù hợp với định chế hòa giải. Theo những quan niệm chung nhất,
thì xã hội dân sự bao gồm những yếu tố cơ bản sau đây:
a) Đó là tập hợp những cơ cấu tách khỏi phạm vi các thiết chế nhà
nước. Nó bao gồm rất nhiều các hội, các đoàn thể được hình thành trên cơ sở
tự nguyện của công dân;
b) Đó là lĩnh vực thể hiện các lợi ích của xã hội nằm ngoài phạm vi
tác động trực tiếp của nhà nước; (quan hệ gia đình, đạo đức, văn hóa tinh
thần, thông tin không mang tính chất chính trị).
c) Đó là tập hợp tất cả những người có quan hệ nhất định với nhau
theo sự tự do thỏa thuận mà không có sự can thiệp của nhà nước.


17

Xã hội dân sự đó chứa đựng những yếu tố, những hạt nhân hợp lý như
hòa giải.
Thứ ba: Hòa giải góp phần khôi phục, duy trì, củng cố sự đồng thuận,
đoàn kết trong xã hội. Bởi lẽ hòa giải là một biện pháp giải quyết tranh chấp
mà mỗi bên đều chấp nhận nhượng bộ một phần quyền lợi của mình để đạt
được thỏa thuận. Mặt khác, hòa giải thành là dựa trên sự tự nguyện của các
bên, không do ai áp đặt, cưỡng ép nên các bên sẽ tự giác thực hiện cam kết
của mình. Tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh nếu được giải quyết bằng con
đường hòa giải thì kết quả của hòa giải thường mang tính bền vững.
Thứ tư: Hòa giải góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của
các thành viên trong xã hội. Khi hòa giải (dù là hình thức nào) đều phải vận
dụng các quy định pháp luật để giải thích, hướng dẫn, thuyết phục các bên
tranh chấp, giúp họ hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình để từ đó có xử sự
phù hợp với quy định pháp luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp phát sinh
do các bên không hiểu biết pháp luật, nên lầm tưởng rằng quyền và lợi ích của
mình bị xâm phạm, hoặc cho rằng hành vi của mình là đúng pháp luật. Nếu
các bên được giải thích pháp luật một cách cặn kẽ, tranh chấp có thể sẽ được
giải quyết dứt điểm và nhanh chóng.
Thứ năm: Hòa giải góp phần duy trì và phát huy đạo lý truyền thống
tốt đẹp, thuần phong mỹ tục của dân tộc, thực hiện cuộc vận động toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Khi tiến hành hòa giải không chỉ dựa
trên các quy định pháp luật, mà còn phải dựa vào những chuẩn mực đạo đức,
văn hóa ứng xử, truyền thống để tác động tới các bên tranh chấp. Trong lịch
sử nước ta, hòa giải được xem như một phương thức giải quyết các tranh
chấp, mâu thuẫn và xung đột trong xã hội, được nhìn nhận như một nét văn
hóa truyền thống của cộng đồng người Việt cần được bảo tồn và phát huy.
Đây là một hiện tượng xã hội - pháp luật - văn hóa đã thấm vào đời sống của
nhân dân hàng thế kỷ nay, chi phối và tác động đến nhiều lĩnh vực hoạt động



18
của xã hội và nhà nước. Tìm hiểu về cội nguồn, nhất là các truyền thống tốt
đẹp, để từ đó có cách thức bảo tồn và phát huy, phát triển đã trở thành một
nhu cầu tự thân của mỗi dân tộc, trong đó có Việt Nam.
Ngày nay, dưới tác động của kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước
pháp quyền, hội nhập quốc tế, đời sống kinh tế - xã hội của người Việt Nam
có những biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ. Các tranh chấp, mâu thuẫn và xung đột
xã hội có diện mạo mới, và như vậy đã và đang tạo tạo ra nhiều khả năng và
cơ hội cho hòa giải trong điều kiện mới.
- Trong một xã hội dân chủ, nhất là trong điều kiện nước ta hiện nay
ngày càng xuất hiện nhiều loại quan hệ xã hội đan xen, nhiều nhóm lợi ích xã
hội (cá nhân, tập thể, giai tầng, ngành nghề, địa phương ) cùng tồn tại. Một
xã hội phát triển bền vững, nhất thiết phải có sự tham gia và tác động cùng
chiều của nhiều loại định chế, thể chế xã hội khác nhau. Do đó, nghiên cứu để
củng cố, phát triển hoạt động hòa giải với tư cách là một định chế giải quyết
các tranh chấp, mâu thuẫn, xung đột trong xã hội ngày càng trở nên cấp bách.
- Trong đời sống quốc tế, xu hướng chung của thế giới hiện nay là
muốn định chế hòa giải phải được tăng cường hơn nữa, thâm nhập sâu hơn
nữa vào đời sống, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế và xã hội. Trong khoảng
mấy chục năm trở lại đây, nhất là những năm đầu thế kỷ XXI, nhiều học giả
trên thế giới rất chú trọng nghiên cứu các phương thức giải quyết tranh chấp
ngoài tòa án. Hòa giải trở thành một hướng nghiên cứu rất cần thiết trong quá
trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng thể chế kinh tế thị trường có
điều tiết của nhà nước ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có Việt
Nam. Những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, hướng nghiên cứu của thế
giới về hòa giải bao gồm:
Một là, nghiên cứu về phương thức hòa giải trong giải quyết tranh
chấp nói chung;
Hai là, nghiên cứu về các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án;



19
Ba là, nghiên cứu so sánh về hòa giải và xu hướng phát triển của hòa
giải trên thế giới.
Do đó, phương thức giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn và xung đột
trong xã hội thông qua con đường hòa giải có chiều hướng trở thành xu thế
của thời đại.
Ở Việt Nam, những năm gần đây, hòa giải đã được quan tâm hơn rất
nhiều. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị
về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đòi hỏi:
Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực
hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà nước để tạo
điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng
minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đổi mới thủ tục
hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân tiếp cận công lý;
Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua
thương lượng, hòa giải, trọng tài; tòa án hỗ trợ bằng quyết định
công nhận việc giải quyết đó [29].
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, PHẠM VI CỦA HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
1.2.1. Khái niệm "hòa giải ở cơ sở"
Hòa giải cơ sở là một trong các hình thức hòa giải. Vậy nên, để tìm
hiểu khái niệm "hòa giải ở cơ sở" cần tìm hiểu về "hòa giải" theo nghĩa chung.
Trong khoa học cũng như trong thực tiễn có rất nhiều quan điểm khác
nhau về hòa giải:
- Quan điểm thứ nhất: Hòa giải như một hình thức, một quá trình giải
quyết tranh chấp; hòa giải được coi là một chế định pháp luật, coi hòa giải
như trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
tế, lao động (nghiêng về giới luật gia).



20
- Quan điểm thứ hai: Hòa giải được coi là hành vi thuyết phục các bên
tranh chấp xóa bỏ những bất đồng, mâu thuẫn (nghiêng về những nhà thực tiễn).
Theo Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Tư pháp, Nhà xuất bản Từ
điển Bách Khoa và Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp xuất bản
năm 2006 thì hòa giải "là thuyết phục các bên tranh chấp tự giải quyết tranh
chấp của mình một cách ổn thỏa" [68, tr. 365]. Theo Từ điển Tiếng Việt của
Nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành năm 1995, hòa giải được hiểu là
"hành vi thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích mích một
cách ổn thỏa" [70]. Theo quan niệm dân gian thông thường thì: hòa giải được
coi là hành vi hàn gắn rạn nứt, mâu thuẫn giữa các bên có mâu thuẫn.
Trên thế giới cũng có nhiều quan niệm khác nhau về hòa giải. Hòa
giải được coi là hành vi của người trung gian giúp hai bên có mâu thuẫn giải
quyết những tranh chấp, bất đồng trên cơ sở tự nguyện: "Hòa giải là một quá
trình, trong đó bên thứ ba giúp hai bên tranh chấp ngồi lại với nhau để cùng
giải quyết vấn đề của họ" [Dẫn theo 2]. Theo đây, người hòa giải không tham
gia, can thiệp vào việc thỏa thuận các giải pháp mà để các bên tranh chấp tự
thỏa thuận, chọn lựa giải pháp. Từ điển thuật ngữ của ILO/EASMAT về quan
hệ lao động và các vấn đề có liên quan thì cho rằng:
Hòa giải là sự tiếp nối của quá trình thương lượng, trong đó
các bên cố gắng làm điều hòa những ý kiến bất đồng. Bên thứ ba
đóng vai trò người trung gian hoàn toàn độc lập với hai bên ,
không có quyền áp đặt , hành động như một người môi giới, giúp
hai bên ngồi lại với nhau và tìm cách đưa các bên tranh chấp tới
những điểm mà họ có thể thỏa thuận được [Dẫn theo 2].
Quan niệm khác thì cho rằng: "Mục đích của hòa giải là chuyển cuộc
đấu tranh hai bên thành cuộc khảo cứu ba bên, nhằm kiến tạo một kết quả
chung" [Dẫn theo 2].
Như vậy, trên thế giới cũng như trong nước, về phương diện lý luận

cũng như trong thực tiễn có rất nhiều quan niệm về hòa giải. Dựa trên những


21
khái niệm về hòa giải ở trên cũng như qua thực tiễn hoạt động hòa giải, có thể
khái quát được đặc trưng của hòa giải cụ thể như sau:
- Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp giữa các bên có mâu
thuẫn có sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian. Bên thứ ba này không áp
đặt ý chí của mình lên sự thỏa thuận của hai bên tranh chấp mà chỉ giải thích,
thuyết phục, giúp hai bên đạt được sự thỏa thuận, chấm dứt bất đồng, mâu
thuẫn. Sự thỏa thuận đó của hai bên - chủ thể của tranh chấp, mâu thuẫn là kết
quả được hình thành trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện của mỗi bên, phù hợp
với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.
Với nhiều quan niệm về hòa giải, các luật gia cho rằng rất khó có thể
đưa ra một khái niệm hòa giải chung, thống nhất cho tất cả các loại hình hòa
giải do các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội hoặc cá nhân tiến hành trong
đời sống xã hội. Tuy nhiên, từ đặc trưng được rút ra ở trên, có thể đưa ra một
khái niệm về hòa giải như sau: Hòa giải là một quá trình giải quyết những bất
đồng, tranh chấp giữa các bên, quá trình đó có sự tham gia của bên thứ ba với
vai trò trung lập, giúp các bên đạt được sự thỏa thuận phù hợp với quy định
của pháp luật, đạo đức xã hội và tự nguyện thực hiện những thỏa thuận đó.
Hiện nay, ở nước ta có nhiều hình thức hòa giải với những phạm vi,
đối tượng, phương pháp, trình tự, thủ tục tiến hành hòa giải khác nhau như:
hòa giải tại Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, hôn nhân và
gia đình, hòa giải các tranh chấp lao động, hòa giải bằng trọng tài kinh tế, hòa
giải ở cơ sở - hòa giải các tranh chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân.
Theo quy định của pháp luật, đối với các ngành luật như dân sự, kinh
tế, lao động, hôn nhân gia đình , hòa giải đều được coi là một nguyên tắc,
một thủ tục bắt buộc khi giải quyết các tranh chấp. Ví dụ: đối với luật dân sự,
sự bình đẳng, thỏa thuận giữa các bên, quyền tự định đoạt, tự do giao kết hợp

đồng dân sự là bản chất của các quan hệ pháp luật dân sự, do đó, các chủ thể
của quan hệ pháp luật dân sự có quyền tự định đoạt và tự do thỏa thuận giải


22
quyết tranh chấp. Vì vậy, một mặt hòa giải là nguyên tắc trong quan hệ dân
sự, mặt khác, hòa giải vừa là thủ tục bắt buộc của các cấp Tòa án trong quá
trình giải quyết phần lớn các tranh chấp dân sự.
Điều 12 Bộ luật Dân sự (được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông
qua ngày 14 tháng 6 năm 2005) quy định về nguyên tắc hòa giải như sau:
"Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định của
pháp luật được khuyến khích. Không ai được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng
vũ lực khi tham gia quan hệ dân sự, giải quyết các tranh chấp dân sự" [50].
Dưới góc độ của luật hình thức, hòa giải là thủ tục bắt buộc thể hiện
thông qua trách nhiệm hòa giải thuộc về Tòa án. Đây cũng là một trong những
nguyên tắc được quy định tại Điều 10 Bộ luật Tố tụng dân sự (được Quốc hội
khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004): "Tòa án có trách
nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận
với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này" [49].
Hòa giải là hoạt động của Tòa án khi tiến hành giải quyết vụ kiện dân
sự. Theo quy định tại khoản 1 Điều 180 của Bộ luật Tố tụng dân sự, hòa giải
là thủ tục bắt buộc ở thời điểm trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm để giải
quyết vụ án dân sự.
Tuy nhiên, không phải tất cả các vụ án dân sự Tòa án đều phải tiến
hành hòa giải. Theo quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự,
Tòa án không tiến hành thủ tục hòa giải đối với những vụ việc mà nếu hòa
giải sẽ trái với mục đích xét xử của vụ án đó. Đó là những vụ, việc được quy
định tại Điều 181 Bộ luật Tố tụng dân sự như yêu cầu đòi bồi thường gây
thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch
trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.

Khoản 1, Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định:
Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các
điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của


23
Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại
hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa
thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất [47].
Như vậy, không phải mọi trường hợp phạm vào các tội nêu trong các
điều luật nói trên của Bộ luật Hình sự đều khởi tố theo yêu cầu của người bị
hại. Theo quy định, chỉ được áp dụng việc khởi tố theo yêu cầu của người bị
hại trong trường hợp hành vi phạm tội được nói đến ở khoản 1 của các điều
luật nói trên. Điều đó có nghĩa là việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị
hại chỉ áp dụng trong trường hợp hành vi phạm tội xảy ra ở mức nguy hiểm
thấp nhất cho xã hội, tội phạm ít nghiêm trọng, không có tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự. Và khi người bị hại đã không yêu cầu khởi tố hoặc rút
yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự,
Viện Kiểm sát hoặc Tòa án không tiếp tục tiến hành việc tố tụng và không bị
cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của
pháp luật thì có thể tự dàn xếp với nhau.
Hòa giải ở cơ sở là một hình thức của hòa giải. Tuy nhiên, khác với
hình thức hòa giải khác, "hòa giải ở cơ sở" không có yếu tố "tư pháp", nghĩa
là không có sự tham gia của Tòa án mà được thực hiện thông qua hoạt động
của Tổ hòa giải hoặc các tổ chức thích hợp khác của nhân dân ở cơ sở thực
hiện, pháp luật không quy định thời hạn tiến hành hòa giải tranh chấp do Tổ
hòa giải tiến hành như các loại hình hòa giải khác, vì vậy, việc hòa giải chỉ
kết thúc khi các bên đạt được kết quả hòa giải và tự nguyện thực hiện thỏa
thuận đó.
Dưới góc độ tiếp cận từ cơ cấu của hệ thống chính trị, thì Hòa giải ở

cơ sở tức là hoạt động hòa giải diễn ra ở cấp cơ sở, diễn ra ở cấp xã, phường,
thị trấn. Trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, cấp cơ sở được hiểu là cấp "gần
dân nhất", cấp tiếp xúc và giải quyết trực tiếp những vấn đề với nhân dân -
cấp xã, phường, thị trấn.Tuy nhiên, phạm vi, giới hạn của hòa giải ở cơ sở lại
được giới hạn trong phạm vi, thẩm quyền của các cơ quan cấp cơ sở do pháp


24
luật quy định. Việc tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở thông qua các Tổ hòa
giải là hình thức triển khai hoạt động hòa giải trong phạm vi nhiệm vụ, thẩm
quyền của mình của chính quyền cấp cơ sở.
Dưới một góc độ tiếp cận khác, từ những văn bản pháp lý cũng có
những quy định về "hòa giải ở cơ sở".
Điều 127 Hiến pháp sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 ghi nhận:
"Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những
vi phạm pháp luật và những tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định
của pháp luật " [46].
Cụ thể hóa Điều 127 Hiến pháp sửa đổi, bổ sung một số điều Hiến
pháp năm 1992, Điều 1 Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở
năm 1998 (có hiệu lực từ ngày 08 tháng 01 năm 1999) quy định:
Hòa giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục
các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những
việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết
trong nội bộ nhân dân, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư [65].
Điều 2, Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18 tháng 10 năm 1999
của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt
động hòa giải ở cơ sở quy định:
Hòa giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục
các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với

nhau những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn
đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy những tình cảm
và đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư,
phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn
xã hội trong cộng đồng dân cư [15].


25
Cũng như khái niệm " hòa giải" nói chung, khái niệm hòa giải ở cơ sở
vẫn còn có nhiều vấn đề phải bàn luận. Nếu xét dưới góc độ cơ cấu hệ thống
chính trị như ở trên, nội hàm khái niệm " hòa giải ở cơ sở" còn chưa đầy đủ, chưa
toát lên hết ý nghĩa nhân văn của hoạt động này ở cơ sở. Nếu dẫn theo những
quy định pháp lý hiện hành, khái niệm " hòa giải ở cơ sở" lại chưa rõ ràng, cụ thể
và còn mang tính ước lệ (chưa có "thước đo" thế nào là "tranh chấp nhỏ").
Từ những những cách tiếp cận khoa học về hòa giải ở cơ sở, có thể nói
rằng: Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên bằng việc vận dụng những quy
định của pháp luật cũng như những quy phạm đạo đức để giải thích, giúp đỡ,
thuyết phục các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với
nhau những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp mà pháp luật cho phép
được hòa giải trên cơ sở phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội.
1.2.2. Đặc điểm hòa giải ở cơ sở
Với ý nghĩa là phương thức giúp các bên thỏa thuận, tự nguyện giải
quyết với nhau những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn
đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy những tình cảm và đạo lý,
truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư, phòng ngừa, hạn chế
vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư, có
thể rút ra một số đặc điểm của hòa giải ở cơ sở như sau:
Một là, hòa giải ở cơ sở là hoạt động thuyết phục vận động, giúp đỡ
các bên tranh chấp thông cảm hiểu nhau hơn, tự dàn xếp, thỏa thuận để xóa
bỏ tranh chấp, nối lại tình cảm gắn bó từ gia đình, xóm giềng, góp phần giữ

gìn ổn định, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
Hai là, hòa giải ở cơ sở được tiến hành do một hoặc một số tổ viên tổ
hòa giải hoặc người có uy tín đối với các bên tranh chấp tiến hành gọi chung
là hòa giải viên. Đây là những người nhiệt tình, tâm huyết, có tinh thần trách
nhiệm cao đối với cộng đồng, ở nhiều độ tuổi khác nhau, hoạt động không có
lương, phụ cấp của Nhà nước khi tham gia hòa giải.

×