Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở và phương hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.17 MB, 112 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGÔ THỊ THU HUYỀN





PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HÒA
GIẢI
Ở CƠ SỞ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








HÀ NỘI - 2007






ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGÔ THỊ THU HUYỀN




PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HÒA
GIẢI
Ở CƠ SỞ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tất Viễn




HÀ NỘI - 2007






MỤC LỤC


Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Mở đầu
1

Chương 1: hòa giải ở cơ sở và sự điều chỉnh của pháp luật đối với tổ
chức hoạt động hòa giải ở cơ sở
8

1.1.
Sự cần thiết giải quyết các tranh chấp, xích mích nhỏ trong
cộng đồng bằng hòa giải
8
1.1.1.
Khái niệm hòa giải ở cơ sở
10
1.1.2.
Đặc điểm hòa giải ở cơ sở
15
1.2.
Vai trò của hòa giải ở cơ sở và nhu cầu điều chỉnh bằng
pháp luật đối với hòa giải ở cơ sở
21
1.2.1.
Vai trò của hòa giải ở cơ sở
21
1.2.1.1.
Hòa giải góp phần giải quyết ngay, kịp thời, có hiệu quả
các vi phạm, xích mích, tranh chấp nhỏ trong nhân dân, tiết
kiệm thời gian, chi phí, công sức của nhân dân cũng như
của Nhà nước
21
1.2.1.2.
Hòa giải góp phần khôi phục, duy trì, củng cố sự đoàn kết
trong nội bộ nhân dân, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội
22
1.2.1.3.
Hòa giải góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
của nhân dân.

22
1.2.1.4.
Hòa giải góp phần duy trì và phát huy đạo lý truyền thống
tốt đẹp, thuần phong mỹ tục của dân tộc, thực hiện cuộc
vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư
23


1.2.2.
Nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với hòa giải ở cơ sở
23
1.3.
Nguyên tắc, phạm vi hòa giải ở cơ sở
25
1.3.1.
Nguyên tắc hòa giải ở cơ sở
25
1.3.1.1.
Phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp
của nhân dân
25
1.3.1.2.
Tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt buộc, áp
đặt các bên tranh chấp phải tiến hành hòa giải
26
1.3.1.3.
Khách quan, công minh, có lý, có tình; giữ bí mật thông tin
đời tư của các bên tranh chấp; tôn trọng quyền, lợi ích hợp

pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, lợi ích công cộng
27
1.3.1.4.
Kịp thời, chủ động, kiên trì nhằm ngăn chặn vi phạm pháp
luật, hạn chế những hậu quả xấu khác có thể xảy ra và đạt
được kết quả hòa giải
28
1.3.2.
Phạm vi hòa giải ở cơ sở
30
1.3.2.1.
Những vụ, việc được tiến hành hòa giải
30
1.3.2.2.
Những vụ, việc không được hòa giải
32

Chương 2: các quy định pháp luật về Tổ Chức Hoạt Động Hòa Giải
ở CƠ Sở và thực tiễn áp dụng
36
2.1.
Thực trạng pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở
36
2.1.1.
Quy định của pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở
36
2.1.1.1.
Thời kỳ trước năm 1945
36

2.1.1.2.
Thời kỳ từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay
39
2.1.2.
Quản lý nhà nước về công tác hòa giải
47
2.1.2.1.
Nội dung quản lý nhà nước về công tác hòa giải
47
2.1.2.2.
Trách nhiệm của cơ quan nhà nước về công tác hòa giải
49


2.2.
Thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải
ở cơ sở
55
2.2.1.
Tổ chức hòa giải ở cơ sở
55
2.2.2.
Bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ hòa giải
65
2.2.3.
Thể chế tài chính cho hoạt động hòa giải
66
2.3.
Những vướng mắc về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở
67

2.3.1.
Pháp luật chưa đồng bộ, thiếu thống nhất
67
2.3.2.
Những vấn đề mới phát sinh về tổ chức hòa giải chưa được
giải quyết dứt điểm
68
2.3.3.
Đầu tư nguồn lực
69

Chương 3: phương huớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ
chức hoạt động hòa giải ở cơ sở
72
3.1
Những phương hướng chủ yếu hoàn thiện pháp luật về tổ
chức hoạt động hòa giải ở cơ sở
72
3.1.1.
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở
phải được tiến hành trong sự phù hợp với các biện pháp
thực thi chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020
theo tinh thần Nghị Quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5
năm 2005 của Bộ Chính trị
72
3.1.2.
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở
phải đáp ứng yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát huy dân chủ

72
3.1.3.
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở
phải theo hướng phù hợp với việc kiện toàn các thiết chế
xã hội tự nguyện trong điều kiện xây dựng và củng cố xã
hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa
74
3.1.4.
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở
75


phải đáp ứng được yêu cầu củng cố trật tự xã hội, giáo dục
đạo đức kết hợp giáo dục pháp luật và những quy ước tiến
bộ của cộng đồng
3.1.5.
Hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở
phải hướng tới việc bảo đảm hài hòa giữa các lợi ích, tăng
cường sự đồng thuận trong xã hội
76
3.2.
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức
hoạt động hòa giải ở cơ sở
77
3.2.1.
Sớm ban hành Luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ
sở
77
3.2.2.
Tiếp tục bảo đảm cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động

hòa giải
83
3.2.3.
Hoàn thiện các quy định về sự quản lý của Nhà nước, sự
phối hợp của các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác
hòa giải ở cơ sở
84
3.2.4.
Nâng cao việc tuyên truyền pháp luật về vai trò của hòa
giải trong đời sống xã hội, phát huy dân chủ ở cơ sở
86
3.2.5.
Đổi mới công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp
vụ hòa giải cho tổ viên Tổ hòa giả
86

kết luận
89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
91

phụ lục
97



1
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay, công tác hòa giải ở
cơ sở có vị trí rất quan trọng. Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ tám khóa VII (tháng 1-1995) đã khẳng định: "Coi trọng vai trò
hòa giải của chính quyền kết hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở cơ
sở" [1, tr. 30].
Chế định hòa giải cũng đã được Hiến pháp năm 1992 ghi nhận: "Ở cơ
sở, thành lập các tổ chức thức hợp của nhân dân để giải quyết những vi phạm
pháp luật và những tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp
luật" (Điều 127 Hiến pháp 1992) [29].
Hòa giải thể hiện vai trò của mình trong bảo đảm ổn định xã hội trên
nhiều phương diện. Hòa giải ở cơ sở thể hiện đặc điểm lịch sử, đạo đức tâm lý
truyền thống của dân tộc. Hòa giải góp phần duy trì và phát huy đạo lý, truyền
thống tốt đẹp, thuần phong mỹ tục của dân tộc, thực hiện cuộc vận động toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.
Hòa giải là sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong giải quyết các xung
đột nhỏ trong xã hội. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý và tình, đến mức
"thấu tình, đạt lý". Hòa giải là một phương thức để thực hiện dân chủ, là sự
thể hiện rõ rệt của tư tưởng "lấy dân làm gốc".
Một đặc trưng cơ bản của hòa giải là bảo đảm quyền tự định đoạt của
các bên trong việc giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn. Đây chính là biểu hiện
của tính dân chủ trong quá trình giải quyết các tranh chấp. Thông qua các
hình thức hòa giải, đặc biệt là hòa giải ở cơ sở, nhân dân phát huy quyền làm
chủ của mình trong việc giải quyết các tranh chấp, xây dựng tình làng nghĩa
xóm, góp phần ngăn ngừa và hạn chế vi phạm pháp luật, làm giảm số vụ án


2
phải đưa ra tòa án xét xử. Dễ trăm lần không dân cũng chịu - Khó vạn lần dân
liệu cũng xong như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói.

Tại Hội nghị tập huấn tư pháp toàn quốc năm 1950 ở Việt Bắc, Hồ Chủ
tịch đã nói: "Xét xử đúng là tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì càng tốt
hơn".
Hòa giải ở cơ sở là phong trào có sự tham gia của cả hệ thống chính trị
ở cơ sở: cấp ủy đảng, chính quyền, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân,
Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh , qua đó xây dựng được một cộng đồng dân cư mà vai trò tự quản của
người dân được tăng cường, thực hiện được việc xã hội hóa hoạt động giải
quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật. Đây là một xu hướng phát triển
khách quan của xã hội, theo đó Nhà nước có thể từng bước giao cho nhân dân
tự quản những gì họ có thể tự quản được. Đó chính là biểu hiện của một xã
hội dân sự trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang
nghiên cứu để khẳng định nó trong quá trình đổi mới, trong đó có đổi mới
việc điều hành, quản lý đất nước và xã hội.
Hòa giải đã từng có trong lịch sử làng xã Việt Nam, gắn liền với quá
trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Sau Cách mạng tháng Tám năm
1945 (giai đoạn 1945 - 1981), chế định hòa giải được ghi nhận trong các văn
bản pháp luật quy định hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
ngành tư pháp, chế định này hình thành cùng với sự hình thành và phát triển
của các cơ quan tư pháp. Nhiệm vụ hòa giải lúc đầu được giao cho Ban Tư
pháp xã sau đó được giao cho tổ chức xã hội, đó là Tổ hòa giải - một tổ chức
mang tính chất tự quản, dân chủ trực tiếp của nhân dân. Trong giai đoạn từ
năm 1982 đến năm 1992, tổ chức và hoạt động hòa giải đã phát triển mạnh
mẽ, tuy nhiên cũng trải qua nhiều thăng trầm, tổ chức và hoạt động hòa giải ở
nhiều nơi bị giảm sút, gần như tan rã, hoạt động không hiệu quả. Từ năm


3
1992, tổ chức và hoạt động hòa giải đã từng bước được khôi phục, củng cố và
phát triển.

Ngày 25 tháng 11 năm 1998, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban
hành Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở. Đây là văn bản pháp
lý có hiệu lực cao nhất từ trước đến nay về hòa giải ở cơ sở, đánh dấu một
bước phát triển mới của công tác hòa giải trong quá trình đổi mới hệ thống
chính trị và phát huy dân chủ ở cơ sở. Để thực hiện Pháp lệnh, ngày 18 tháng
10 năm 1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định 160/1999/NĐ-CP quy định
chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở,
tiếp đó, Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 06 tháng 6 năm 2003 quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp (thay thế
Nghị định 38/CP ngày 04 tháng 6 năm 1993) và Thông tư liên tịch số
04/2005/TTLT-BTP-BNV ngày 05 tháng 5 năm 2005 của Bộ Tư pháp, Bộ
Nội vụ hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức các cơ quan
chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở
địa phương (thay thế Thông tư liên bộ số 12/TTLB ngày 26 tháng 7 năm
1993) đều có quy định về việc quản lý nhà nước đối với công tác hòa giải ở
cơ sở.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền đòi hỏi cao hơn tính tự quản của
người dân trong quản lý nhà nước, trong đó có các giải quyết tranh chấp nhỏ,
tạo ổn định và trật tự xã hội mà không cần Nhà nước can thiệp vào. Đó là vấn đề
có tính quy luật của sự chuyển đổi vai trò của Nhà nước trong thế giới hiện đại.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác hòa giải ở cơ sở trong
những năm qua cũng đã bộc lộ những hạn chế như chưa có mô hình thống
nhất về tổ chức hòa giải ở cơ sở, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của
Tổ hòa giải trong điều kiện hiện nay; về trình độ của đội ngũ cán bộ làm công
tác hòa giải, phần lớn tổ viên Tổ hòa giải chưa được bồi dưỡng kiến thức pháp


4
luật và nghiệp vụ hòa giải thường xuyên, đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. Bên cạnh đó, tài liệu hướng dẫn nghiệp

vụ hòa giải được biên soạn thống nhất còn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu thực
tế cho cán bộ hòa giải nói riêng và công tác hòa giải nói chung…
Thực tế tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở đang đặt ra nhiều vấn
đề trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Việc nghiên cứu, đánh giá thực
trạng quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ chức hoạt
động hòa giải ở cơ sở từ đó đề ra phương hướng hoàn thiện pháp luật về tổ chức
hoạt động hòa giải ở cơ sở và giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả chất
lượng của công tác hòa giải ở cơ sở là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và mang
tính cấp thiết, góp phần thực hiện dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội,
duy trì, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
Được sự gợi ý của Khoa Luật và Bộ môn Lý luận và lịch sử nhà nước và
pháp luật, tác giả đã lựa chọn đề tài "Pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở
cơ sở và phương hướng hoàn thiện" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong nhiều năm qua, nghiên cứu về lĩnh vực hòa giải ở cơ sở cũng đã
có nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu. Chẳng hạn như cuốn sách: "Một số
tham luận và kinh nghiệm công tác hòa giải ở cơ sở năm 1996" của Sở Tư
pháp Thành phố Hồ Chí Minh (1997), "Công tác hòa giải ở cơ sở" do Luật
gia Nguyễn Đình Hảo chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1997), "Vì hạnh phúc của mọi nhà" do Phó tiến sĩ Nguyễn Vĩnh Oánh và Luật
gia Trần Thị Quốc Khánh chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1998). Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở một phạm
vi hẹp, đề cập đến thực tiễn tổ chức và hoạt động của Tổ hòa giải, chứ không
đi sâu nghiên cứu về mặt lý luận của công tác hòa giải ở cơ sở.


5
Trong một số sách hướng dẫn về nghiệp vụ công tác hòa giải ở cơ sở
như: "Hướng dẫn nghiệp vụ công tác hòa giải ở cơ sở (tủ sách pháp luật xã,
phường, thị trấn)" - Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, năm

2000 do Tiến sỹ Dương Thanh Mai chủ biên, "Công tác hòa giải ở cơ sở" -
Bộ tài liệu tập huấn thống nhất về công tác hòa giải ở cơ sở dành cho cán bộ
tư pháp và các hòa giải viên do Bộ Tư pháp xây dựng trong khuôn khổ Dự án
VIE/02/015 "Hỗ trợ thực thi Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010" do Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP),
cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế của Chính phủ Thụy Điển (Sida), cơ quan
Hợp tác phát triển quốc tế của Chính phủ Đan Mạch (DANIDA), Chính phủ
Na Uy và Chính phủ Ai Len tài trợ, các cuốn sách này chỉ đề cập đến các quy
định pháp luật về công tác hòa giải ở cơ sở với tính chất hướng dẫn nghiệp vụ
chứ không đi vào nghiên cứu thực trạng, phân tích, đánh giá các quy định của
pháp luật về lĩnh vực hòa giải ở cơ sở hay như chỉ đề cập đến một khía cạnh
con người của công tác hòa giải ở cơ sở như cuốn sách "Đánh giá năng lực
cán bộ tư pháp cấp tỉnh về quản lý, hướng dẫn công tác hòa giải ở cơ sở",
trong khuôn khổ Dự án VIE/02/015 "Hỗ trợ thực thi Chiến lược phát triển hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010", Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội,
2005. Cuốn "Hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật" do Nhà xuất
bản Tư pháp, Hà Nội ấn hành năm 2006 cũng đã có một chương riêng về hòa
giải ở cơ sở và phổ biến giáo dục pháp luật. Một số nhà nghiên cứu về xã hội
học cũng có những công trình nghiên cứu liên quan đến hòa giải ở cơ sở như
Giáo sư Tương Lai với bài viết "Đồng thuận xã hội" trên Tạp chí Tia sáng,
tháng 11 năm 2005; tác giả Nguyễn Thị Lan với bài viết "Đồng thuận xã hội
và việc xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay" đăng trên Tạp chí
Lý luận chính trị, số 6 năm 2006; các bài viết của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Bùi
Quang Dũng về "Giải quyết xích mích trong nhóm gia đình: phác thảo từ
những kết quả nghiên cứu định tính", "Giải quyết xích mích trong nội bộ nhân
dân: phác thảo từ những kết quả nghiên cứu định tính", "Hòa giải ở nông


6
thôn miền Bắc Việt Nam (giả thuyết dành cho một cuộc nghiên cứu)" đăng

trên Tạp chí Xã hội học, số 4 năm 2001, số 1 và số 3 năm 2002.
Một số các bài viết trong Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề
tháng 7 năm 2006 về công tác hòa giải ở Hải Phòng mới chỉ đề cập đến thực
tiễn công tác hòa giải như kết quả, một số tồn tại cũng như giải pháp nâng cao
hiệu quả và chỉ trong phạm vi một địa bàn nhất định.
Còn đối với các nhà nghiên cứu nước ngoài, cũng đã có những công
trình nghiên cứu, khảo sát trực tiếp hoặc gián tiếp về hòa giải ở cơ sở tại Việt
Nam với tư cách là một phương thức giải quyết xung đột xã hội dưới dạng
những tranh chấp, xích mích nhỏ trong cộng đồng dân cư, hoặc cũng có thể
coi hòa giải là một khía cạnh của đời sống xã hội dân sự truyền thống của
nông thôn Việt Nam. Đó là các công trình nghiên cứu của nhóm tác giả về
"Đánh giá xã hội dân sự ở Việt Nam"; Dự án điều tra của Viện Xã hội học -
Viện Khoa học xã hội Việt Nam; hoặc là các công trình nghiên cứu của các
chuyên gia Nhật Bản, Hàn Quốc về vấn đề này.
Tuy nhiên đến nay chưa có những công trình nghiên cứu một cách cơ
bản, có hệ thống về pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở và
phương hướng hoàn thiện ở Việt Nam.
Những vướng mắc nói trên chưa được đề cập và nghiên cứu một cách
thấu đáo. Do đó, việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về tổ chức
hoạt động hòa giải ở cơ sở trên cơ sở đó đề ra phương hướng và các giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở là cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: làm rõ những vấn đề lý luận về hòa giải ở cơ sở, đánh giá
được thực trạng tổ chức hoạt động của thiết chế xã hội này, từ đó đề xuất
phương hướng và các giải pháp hoàn thiện thể chế hòa giải ở cơ sở.


7
- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu
luận văn cần giải quyết những vấn đề sau:

+ Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về hòa giải ở cơ sở, vai trò của hoạt
động hòa giải đối với đời sống xã hội và nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật
đối với công tác hòa giải ở cơ sở.
+ Nêu, phân tích thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật về
tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở.
+ Đề xuất phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ
chức hoạt động hòa giải ở cơ sở.
4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, các phương pháp nghiên cứu cụ thể được tác giả sử dụng
trong quá trình nghiên cứu: phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh,
điều tra xã hội học.
5. Những điểm mới của luận văn
- Nghiên cứu một cách có hệ thống từ khái niệm, vị trí, vai trò của hòa
giải ở cơ sở cũng như nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với công tác hòa
giải ở cơ sở nhằm góp phần hoàn thiện những cơ sở lý luận về hòa giải ở cơ sở.
- Phát hiện những điểm còn bất cập trong quy định của pháp luật về
hòa giải ở cơ sở, những tồn tại trong tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở, tìm
ra nguyên nhân của những tồn tại đó. Đề xuất phương hướng và một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức hoạt động hòa giải ở cơ sở.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể
được khai thác, sử dụng trong công tác nghiên cứu về công tác hòa giải ở cơ
sở của các cơ quan tư pháp và có thể làm tài liệu tham khảo trong xây dựng


8
Luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở, dự kiến trong Chương trình
xây dựng pháp luật của Quốc hội khóa XII.
- Về mặt thực tiễn: Các cơ quan tư pháp, cán bộ tư pháp, hòa giải viên

có thể khai thác, vận dụng những kết quả nghiên cứu của luận văn để tập huấn
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác hòa giải ở cơ sở.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ

1.1. SỰ CẦN THIẾT GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP, XÍCH MÍCH NHỎ
TRONG CỘNG ĐỒNG BẰNG HÒA GIẢI
Trong đời sống xã hội, mối quan hệ giữa con người với con người rất
đa dạng, phong phú, bao gồm tổng hòa các mối quan hệ xã hội: quan hệ giữa
các thành viên trong gia đình (quan hệ vợ chồng, ông bà, bố mẹ, con cái, anh
chị em ), quan hệ giữa các thành viên trong môi trường giáo dục: quan hệ
thầy trò; quan hệ của những nhóm người trong xã hội: quan hệ đồng nghiệp,
quan hệ bạn bè, quan hệ đồng hương Các quan hệ này có thể hình thành dưới
nhiều góc độ khác nhau như quan hệ huyết thống được pháp luật quy định
(quan hệ gia đình), các quan hệ xã hội khác được hình thành và chi phối bởi
các quy phạm đạo đức xã hội và được tồn tại dưới hình thức khác nhau.
Thực tiễn cho thấy, qua các giai đoạn, qua các thời kỳ lịch sử, trong xã
hội, tồn tại và phổ biến là những quan hệ xã hội tốt đẹp, lành mạnh. Chính
những quan hệ tốt đẹp, lành mạnh đó là nền tảng, là cơ sở, động lực cho việc
xây dựng lối sống văn hóa, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Tuy


9
nhiên, bên cạnh những quan hệ xã hội tốt đẹp kể trên, còn tồn tại những mối
quan hệ không lành mạnh, tiêu cực, lệch chuẩn, những quan hệ bị biến dạng
theo chiều hướng xấu, thậm chí đi ngược lại với lợi ích chung của cộng đồng,

của xã hội. Những quan hệ đó có thể là những nguyên nhân trực tiếp làm nảy
sinh những hiện tượng tiêu cực trong xã hội như những tệ nạn xã hội, vi phạm
pháp luật thậm chí là những hành vi phạm tội.
Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước hòa mình trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế, đa dạng hóa các mối quan hệ, chủ động xây dựng kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thành tựu, kết
quả trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà nền kinh tế
thị trường mang lại, sự phát triển của đời sống xã hội trên các lĩnh vực cũng
kéo theo những hạn chế, tiêu cực và những mặt trái của nó: sự xung đột về lợi
ích, sự xuống cấp về đạo đức, lối sống thực dụng
Chính những yếu tố đó đã trực tiếp hoặc gián tiếp làm ảnh hưởng, biến
dạng những quan hệ truyền thống tốt đẹp vốn có của dân tộc ta. Trong một
chừng mực nào đó, ở những hoàn cảnh cụ thể, các quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình, dòng tộc, thầy trò, bạn bè cũng có những xáo trộn nhất
định, bị chi phối bởi những yếu tố về lợi ích, quan điểm khác nhau, hay có thể
gọi chung là những "xung đột xã hội nhỏ".
Các xung đột xã hội được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau,
trong đó có các tranh chấp, xích mích nhỏ ở cộng đồng. Những va chạm, xích
mích giữa các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng là điều không thể
tránh khỏi, có điều kiện nảy sinh, tồn tại thậm chí phát triển. Có thể là mâu
thuẫn ngay giữa các thành viên trong gia đình, giữa hai hay nhiều hộ gia đình,
có khi là mâu thuẫn giữa một dòng họ, một dòng tộc, xóm này với xóm kia,
mâu thuẫn giữa làng với làng Mâu thuẫn đó xảy ra khá đa dạng, phong phú
trên các lĩnh vực kinh tế, dân sự, hôn nhân và gia đình.


10
Những mâu thuẫn, xích mích, tranh chấp này dù là nhỏ nhưng nếu
không có biện pháp giải quyết sẽ gây mất ổn định xã hội, ảnh hưởng đến sự
phát triển của xã hội. Để giữ gìn trật tự xã hội, việc giải quyết xung đột có thể

được tiến hành theo năm phương pháp: giải quyết bằng sự tác động của dư
luận xã hội; thông qua các tổ chức tự quản; giải quyết bằng các phán quyết
của trọng tài; bằng các quyết định của cơ quan hành pháp và thông qua cách
giải quyết của cơ quan tư pháp - Tòa án.
Như vậy, có rất nhiều cách giải quyết xung đột trong xã hội, trong số
những cách giải quyết đó, hòa giải nói chung và hòa giải ở cơ sở nói riêng -
hình thức giải quyết thông qua các tổ chức tự quản được coi là một trong
những phương pháp giải quyết rất hiệu quả. Đây là hình thức giải quyết đang
ngày càng khẳng định được vai trò của nó trong đời sống xã hội đối với các
mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ trong nhân dân.
1.1.1. Khái niệm hoà giải ở cơ sở
Trước khi đi sâu vào khái niệm hòa giải ở cơ sở, cần tìm hiểu các quan
niệm về hòa giải nói chung. Tùy theo cách tiếp cận phù hợp với từng loại hình
hòa giải mà có rất nhiều quan niệm về hòa giải trong khoa học cũng như trong
thực tiễn: quan niệm hòa giải như một hình thức, một quá trình giải quyết
tranh chấp. Theo ý kiến của một số luật gia, hòa giải được coi là một chế định
pháp luật, coi hòa giải như trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh tế, lao động. Đối với các nhà thực tiễn thì coi hòa giải
là những hành vi thuyết phục các bên tranh chấp xóa bỏ những bất đồng, mâu
thuẫn.
Trên thế giới có rất nhiều quan niệm về hòa giải. Hiệp hội hòa giải
Hoa Kỳ quan niệm "Hòa giải là một quá trình, trong đó bên thứ ba giúp hai
bên tranh chấp ngồi lại với nhau để cùng giải quyết vấn đề của họ" [39]. Như
vậy, vai trò của người hòa giải là người trung gian giúp hai bên tranh chấp


11
giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng của họ trên cơ sở tự nguyện, chứ người
hòa giải không tham gia vào quá trình, vào việc thỏa thuận các giải pháp.
Từ điển thuật ngữ của ILO/EASMAT về quan hệ lao động và các vấn

đề có liên quan thì cho rằng:
Hòa giải là sự tiếp nối của quá trình thương lượng, trong đó
các bên cố gắng làm điều hòa những ý kiến bất đồng. Bên thứ ba
đóng vai trò người trung gian hoàn toàn độc lập với hai bên ,
không có quyền áp đặt , hành động như một người môi giới, giúp
hai bên ngồi lại với nhau và tìm cách đưa các bên tranh chấp tới
những điểm mà họ có thể thỏa thuận được [39].
Quan niệm khác thì cho rằng: "Mục đích của hòa giải là chuyển cuộc
đấu tranh hai bên thành cuộc khảo cứu ba bên, nhằm kiến tạo một kết quả
chung" [39].
Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành
năm 1995, hòa giải được hiểu là "hành vi thuyết phục các bên đồng ý chấm
dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa" [60].
Theo Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Tư pháp, Nhà xuất bản Từ
điển Bách Khoa và Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp xuất bản
năm 2006 thì hòa giải "là thuyết phục các bên tranh chấp tự giải quyết tranh
chấp của mình một cách ổn thỏa" [59, tr. 365]. Như vậy, có rất nhiều quan
niệm về hòa giải cả trong lý luận cũng như trong thực tiễn. Dựa trên những
khái niệm về hòa giải ở trên cũng như qua thực tiễn hoạt động hòa giải, có thể
khái quát được đặc trưng của hòa giải cụ thể như sau:
Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp giữa các bên, trong đó có
sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian. Bên thứ ba này không áp đặt ý chí
của mình lên sự thỏa thuận của hai bên tranh chấp mà chỉ giải thích, thuyết
phục, giúp hai bên đạt được sự thỏa thuận, chấm dứt bất đồng, mâu thuẫn. Sự


12
thỏa thuận đó của hai bên - chủ thể của tranh chấp, mâu thuẫn là kết quả được
hình thành trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện của mỗi bên, phù hợp với quy
định của pháp luật và đạo đức xã hội.

Với nhiều quan niệm về hòa giải, các luật gia cho rằng rất khó có thể
đưa ra một khái niệm hòa giải chung, thống nhất cho tất cả các loại hình hòa
giải do các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội hoặc cá nhân tiến hành trong
đời sống xã hội. Tuy nhiên, từ đặc trưng được rút ra ở trên, có thể đưa ra một
khái niệm về hòa giải như sau: "Hòa giải là một quá trình giải quyết những
bất đồng, tranh chấp giữa các bên, quá trình đó có sự tham gia của bên thứ
ba với vai trò trung lập, giúp các bên đạt được sự thỏa thuận phù hợp với quy
định của pháp luật, đạo đức xã hội và tự nguyện thực hiện những thỏa thuận
đó".
Hiện nay, ở nước ta có nhiều hình thức hòa giải với những phạm vi,
đối tượng, phương pháp, trình tự, thủ tục tiến hành hòa giải khác nhau như:
hòa giải tại Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, hôn nhân và
gia đình, hòa giải các tranh chấp lao động, hòa giải bằng trọng tài kinh tế, hòa
giải ở cơ sở - hòa giải các tranh chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân.
Theo quy định của pháp luật, đối với các ngành luật như dân sự, kinh
tế, lao động, hôn nhân gia đình , hòa giải đều được coi là một nguyên tắc,
một thủ tục bắt buộc khi giải quyết các tranh chấp. Ví dụ: đối với luật dân sự,
sự bình đẳng, thỏa thuận giữa các bên, quyền tự định đoạt, tự do giao kết hợp
đồng dân sự là bản chất của các quan hệ pháp luật dân sự, do đó, các chủ thể
của quan hệ pháp luật dân sự có quyền tự định đoạt và tự do thỏa thuận giải
quyết tranh chấp. Vì vậy, một mặt hòa giải là nguyên tắc trong quan hệ dân
sự, mặt khác, hòa giải vừa là thủ tục bắt buộc của các cấp Tòa án trong quá
trình giải quyết phần lớn các tranh chấp dân sự.
Điều 12 Bộ luật Dân sự (được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông
qua ngày 14 tháng 6 năm 2005) quy định về nguyên tắc hòa giải như sau:


13
"Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định của
pháp luật được khuyến khích. Không ai được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng

vũ lực khi tham gia quan hệ dân sự, giải quyết các tranh chấp dân sự" [33].
Dưới góc độ của luật hình thức, hòa giải là thủ tục bắt buộc thể hiện
thông qua trách nhiệm hòa giải thuộc về Tòa án. Đây cũng là một trong những
nguyên tắc được quy định tại Điều 10 Bộ luật Tố tụng dân sự (được Quốc hội
khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004): "Tòa án có
trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự
thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ
luật này" [32].
Hòa giải là hoạt động của Tòa án khi tiến hành giải quyết vụ kiện dân
sự. Theo quy định tại khoản 1 Điều 180 của Bộ luật Tố tụng dân sự, hòa giải
là thủ tục bắt buộc ở thời điểm trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm để giải
quyết vụ án dân sự.
Tuy nhiên, không phải tất cả các vụ án dân sự Tòa án đều phải tiến
hành hòa giải. Theo quy định của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự,
Tòa án không tiến hành thủ tục hòa giải đối với những vụ việc mà nếu hòa
giải sẽ trái với mục đích xét xử của vụ án đó. Đó là những vụ, việc được quy
định tại Điều 181 Bộ luật Tố tụng dân sự như yêu cầu đòi bồi thường gây
thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch
trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.
Trong Bộ luật Tố tụng hình sự cũng có những quy định gần với hòa
giải. Khoản 1, Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: "Những
vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108,
109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi
có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị
hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất"
[30]. Như vậy, không phải mọi trường hợp phạm vào các tội nêu trong các


14
điều luật nói trên của Bộ luật Hình sự đều khởi tố theo yêu cầu của người bị

hại. Theo quy định, chỉ được áp dụng việc khởi tố theo yêu cầu của người bị
hại trong trường hợp hành vi phạm tội được nói đến ở khoản 1 của các điều
luật nói trên. Điều đó có nghĩa là việc khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị
hại chỉ áp dụng trong trường hợp hành vi phạm tội xảy ra ở mức nguy hiểm
thấp nhất cho xã hội, tội phạm ít nghiêm trọng, không có tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự. Và khi người bị hại đã không yêu cầu khởi tố hoặc rút
yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự,
Viện Kiểm sát hoặc Tòa án không tiếp tục tiến hành việc tố tụng và không bị
cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định của
pháp luật thì có thể tự dàn xếp với nhau.
Khác với hình thức hòa giải khác, hòa giải ở cơ sở không có yếu tố "tư
pháp", nghĩa là không có sự tham gia của Tòa án mà được thực hiện thông
qua hoạt động của Tổ hòa giải hoặc các tổ chức thích hợp khác của nhân dân ở
cơ sở thực hiện, pháp luật không quy định thời hạn tiến hành hòa giải tranh chấp
do Tổ hòa giải tiến hành như các loại hình hòa giải khác, vì vậy, việc hòa giải
chỉ kết thúc khi các bên đạt được kết quả hòa giải và tự nguyện thực hiện thỏa
thuận đó.
Điều 127 Hiến pháp sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 ghi nhận:
"Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những
vi phạm pháp luật và những tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định
của pháp luật " [29].
Cụ thể hóa Điều 127 Hiến pháp sửa đổi, bổ sung một số điều Hiến
pháp năm 1992, Điều 1 Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở
năm 1998 (có hiệu lực từ ngày 08 tháng 01 năm 1999) quy định:
Hòa giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục
các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những
việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết


15

trong nội bộ nhân dân, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư [37].
Điều 2, Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18 tháng 10 năm 1999 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt
động hòa giải ở cơ sở quy định:
Hòa giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục
các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với
nhau những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn
đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy những tình cảm
và đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư,
phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn
xã hội trong cộng đồng dân cư [19].
Từ những quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở, có thể nói rằng hòa
giải ở cơ sở là việc hòa giải viên bằng việc vận dụng những quy định của
pháp luật cũng như những quy phạm đạo đức để giải thích, giúp đỡ, thuyết
phục các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau
những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trên cơ sở phù hợp với pháp
luật và đạo đức xã hội, nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, hàn gắn
tình nghĩa trong gia đình, dân cư, phát huy truyền thống đạo đức và các phong
tục, tập quán tốt đẹp trong nhân dân, hạn chế vi phạm pháp luật ở cơ sở, giảm
bớt nguyên nhân gia tăng tội phạm, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội,
góp phần xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư, tạo tiền đề cho kinh tế - xã
hội phát triển, góp phần mở rộng dân chủ ở cơ sở, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
1.1.2. Đặc điểm hoà giải ở cơ sở
Với ý nghĩa là phương thức giúp các bên thỏa thuận, tự nguyện giải
quyết với nhau những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn


16

đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy những tình cảm và đạo lý
truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư, phòng ngừa, hạn chế
vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư, có
thể rút ra một số đặc điểm của hòa giải ở cơ sở như sau:
- Hòa giải là một định chế xã hội mang đậm tính chất tự nguyện, là
một biểu hiện của xã hội dân sự ở cơ sở. Nhìn từ góc độ đời sống xã hội trong
mỗi quốc gia, có thể thấy rằng, hòa giải phải là một định chế xã hội mang
đậm tính chất tự nguyện và nhìn từ khía cạnh đời sống xã hội dân sự, có thể
coi đó là một biểu hiện của xã hội dân sự ở cơ sở. Đó là toàn bộ đời sống xã
hội trong lĩnh vực tự quản của công dân tự do và các tổ chức tự quản của họ.
Lĩnh vực tự quản đó nằm ngoài sự can thiệp trực tiếp của cơ quan nhà nước.
Yếu tố tự quản với những giá trị nhân văn của hòa giải sẽ là một biện pháp
điều hòa những lợi ích trong các tranh chấp, xích mích, làm giảm thiểu sự
khác biệt trong mỗi thành viên cộng đồng, góp phần tạo ra sự đồng thuận xã
hội rộng rãi hiện nay. Hòa giải ở cơ sở được thực hiện thông qua hoạt động
của Tổ hòa giải hoặc các tổ chức thích hợp khác của nhân dân ở thôn, xóm,
bản, ấp, tổ dân phố và các cụm dân cư khác như các chợ cố định, tụ điểm du
lịch, vui chơi giải trí phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội và phong tục, tập
quán tốt đẹp của nhân dân.
- Các yếu tố lịch sử, truyền thống, tâm lý dân tộc là những tiền đề rất
quan trọng, là cội nguồn, là "mảnh đất" cho hòa giải hình thành và phát triển
và vượt qua được những thay đổi của các thể chế chính trị ngày càng khẳng
định được vai trò, ý nghĩa to lớn của mình trong đời sống xã hội. Hay nói
cách khác, hòa giải nói chung và hòa giải ở cơ sở nói riêng được người dân
Việt Nam chấp nhận. Bản chất và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc vì con người
chính là cội nguồn, mảnh đất cho hòa giải hình thành và phát triển trường tồn,
vượt qua thử thách của thời gian, những biến cố thăng trầm của lịch sử. Đây
cũng là một trong những đặc điểm của hòa giải ở cơ sở.



17
Có thể thấy rằng, ở Việt Nam, nền kinh tế nông nghiệp lúa nước với
nhu cầu làm thủy lợi, đắp đê, chống lụt cùng với nguy cơ giặc ngoại xâm luôn
đe dọa đã hình thành lối sống cộng đồng, cố kết, truyền thống đoàn kết, tương
thân tương ái trong ý thức của người Việt cổ. Họ nhận thức được rằng, chỉ có
sức mạnh đoàn kết cộng đồng mới có thể đánh bại được thiên tai, địch họa để
tồn tại và phát triển.
Xã hội cổ truyền Việt Nam được mở rộng theo công thức Nhà - Làng -
Nước: nhiều gia đình gắn kết lại thành làng, rồi các làng liên kết lại thành
nước. Làng là đơn vị cơ sở cấu thành nên quốc gia, nó mang tính khép tín, tự
quản rất cao do đặc thù của nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp.
"Trong các làng xã cổ truyền, cả cuộc đời người nông dân quen sống
với các mối quan hệ xóm giềng, huyết thống ràng buộc nhau một cách bền
chặt" [47, tr. 134], do đó người Việt rất coi trọng tình làng nghĩa xóm, "tối lửa
tắt đèn" có nhau. Mỗi con người từ khi sinh ra đến khi từ giã cõi đời, không
thể thiếu được tình làng nghĩa xóm. Chính tình làng nghĩa xóm đã nuôi
dưỡng, đùm bọc, chở che cho họ trước những khó khăn, hoạn nạn, thiên tai,
địch họa. Họ có thể "bán anh em xa, mua láng giềng gần".
Và cũng chính từ nhu cầu đoàn kết vì sự tồn tại, phát triển của cá nhân
và cộng đồng, một đạo lý sống, một phương châm sống đã hình thành và tồn
tại trong quan hệ giữa người với người, đó là "một điều nhịn, chín điều lành",
"chín bỏ làm mười"… Đạo lý, phương châm sống ấy đã hình thành cách xử
sự đầy bao dung, nhường nhịn, tính nhân ái, nhân văn khi có mâu thuẫn, xích
mích, tranh chấp về quyền lợi, nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình,
dòng họ, hay với hàng xóm láng giềng. Trong gia đình, đó là "đóng cửa bảo
nhau", giữa hàng xóm láng giềng thì "tối lửa tắt đèn có nhau"…
Hơn nữa, trong một cộng đồng làng xã khép kín thì "phép vua thua lệ
làng", người Việt có thói quen ứng xử theo đạo đức, phong tục, tập quán,
truyền thống hơn là theo pháp luật. Họ không sợ đao to búa lớn mà lại sợ sức



18
mạnh dư luận xã hội, "uốn mình theo dư luận". Trong hệ thống các phương
tiện điều chỉnh hành vi và quan hệ xã hội của con người, dư luận xã hội cũng
có tác động nhất định.
Hành vi của cá nhân con người cũng như các mối quan hệ
xã hội của họ luôn chịu sự kiểm soát từ hai phía: dư luận xã hội và
lương tâm cá nhân. Người Việt vốn trọng danh dự. Lối sống trọng
danh dự đó đã dẫn đến "cơ chế tin đồn", tạo nên dư luận xã hội như
một thứ vũ khí lợi hại bậc nhất của cộng đồng để duy trì sự ổn định,
đặc biệt là ở các buôn, làng. Nhà văn Lê Lựu cũng đã từng viết
trong cuốn tiểu thuyết "Thời xa vắng" của mình rằng: Người ta chỉ
dám dựa theo dư luận mà sống chứ ai dám giẫm lên dư luận mà đi
theo ý mình [52, tr. 12].
Để giữ gìn quan hệ - yếu tố quyết định để tồn tại được trong một cộng
đồng, trong mọi trường hợp, hòa giải vẫn được xem là phương án tối ưu khi
mà trong ý thức, tâm lý của người phương Đông nói chung, người Việt Nam
nói riêng, việc giải quyết các xích mích hay đưa ra chốn "công đường" là một
điều rất ghê gớm, mất thể diện, "vô phúc đáo tụng đình". Khi đã phải đưa
nhau ra chốn "công đường" thì tình làng nghĩa xóm, quan hệ giữa các bên khó
có thể hàn gắn như cũ. "Họ thích giải quyết bằng "tình làng nghĩa xóm" hơn
là giải quyết theo pháp luật" [45, tr. 45]. Theo kết quả nghiên cứu, trong việc
giải quyết xích mích, về cơ bản, các thành viên trong xã hội mong muốn giải
quyết êm thấm các xích mích trong nội bộ làng xóm.
Khái niệm "chính quyền xã" trong ý thức nông dân bắt đầu
cho một không gian xã hội khác, nơi người ta không mấy quen
thuộc và rất sợ bị mất thể diện. Đưa nhau ra "chính quyền" có
nghĩa là ra khỏi cái khuôn khổ quen thuộc của "tình làng, nghĩa
xóm", nơi mà người ta có thể "chín bỏ làm mười" cho nhau [45, tr.
47].



19
Trái ngược hẳn với tư duy trên của người phương Đông, ở các nước
phương Tây, ngay từ thời cổ đại, với sự phát triển của thủ công nghiệp và
thương nghiệp, người dân sớm biết đến và cần đến pháp luật với tính cách là
công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội. Khi xảy ra tranh chấp, họ có thói quen
sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi của mình. Người phương Tây coi việc
khởi kiện ra Tòa án là điều rất bình thường.
Như vậy, có thể nói, yếu tố lịch sử, truyền thống, tâm lý dân tộc ảnh
hưởng không nhỏ đến cách hành xử của người Việt khi xảy ra tranh chấp,
mâu thuẫn. Ngày nay, dưới tác động của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, đời sống kinh tế - xã hội của người
Việt Nam có những biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng truyền thống, tâm lý
dân tộc đã tồn tại ngàn đời nay thì vẫn được bảo tồn và phát huy. Đây là một
trong những tiền đề rất quan trọng của hòa giải.
- Hòa giải thể hiện tư tưởng "lấy dân làm gốc" mà Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI và các Đại hội Đảng tiếp theo đó đã khẳng định. Những tranh
chấp, xích mích nhỏ trong nhân dân sẽ do nhân dân tự nguyện đứng ra giải
quyết mà không có kẻ thắng, người thua. Sức mạnh của dư luận xã hội lành
mạnh, đúng đắn sẽ là cơ sở quan trọng để giải quyết tốt những xung đột xã
hội nhỏ này.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là hòa giải chỉ có ở Việt Nam. Ở
một số quốc gia trên thế giới, hòa giải ở cơ sở cũng đều được thừa nhận và
khuyến khích. Về bản chất, hòa giải ở cơ sở ở các nước này giống so với hòa
giải ở cơ sở ở Việt Nam.
Ở Trung Quốc, trong các loại hòa giải như hòa giải nhân dân, hòa giải
hành chính, hòa giải tại tòa án, hòa giải bằng các cơ quan hòa giải ngoại
thương, hòa giải bằng các cơ quan trọng tài, hệ thống hòa giải nhân dân được
coi là lớn nhất và lâu đời nhất trên thế giới. "Hòa giải thời phong kiến Trung

×