ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
DƯƠNG THỊ MAI
HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
DƯƠNG THỊ MAI
HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
ĐÁP ỨNG NHU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Dương Đức Chính
HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC HOÀN THIỆN HỆ THỐNG
PHÁP LUẬT ĐÁP ỨNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
6
1.1.
Khái niệm và đặc điểm nhà nước pháp quyền
6
1.1.1.
Khái niệm
6
1.1.2.
Những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền
6
1.2.
Khái niệm và những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
9
1.2.1.
Khái niệm
9
1.2.2.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền là một tất yếu, bắt nguồn
từ chính lịch sử xây dựng và phát triển nước ta
11
1.2.3.
Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
12
1.3.
Hệ thống pháp luật, vai trò và vị trí của hệ thống pháp luật
trong nhà nước pháp quyền
24
1.3.1.
Khái niệm hệ thống pháp luật
24
1.3.2.
Vị trí, vai trò của hệ thống pháp luật trong nhà nước pháp quyền
27
1.4.
Những yêu cầu cơ bản của hệ thống pháp luật trong quá trình
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
28
1.4.1.
Yêu cầu về tính toàn diện của hệ thống pháp luật
28
1.4.2.
Yêu cầu về tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật
29
1.4.3.
Yêu cầu về tính ổn định (tính phù hợp) của hệ thống pháp luật
32
1.4.4.
Yêu cầu về ngôn ngữ và kỹ thuật lập pháp
33
1.4.5.
Yêu cầu về tính áp dụng của hệ thống pháp luật
34
1.4.6.
Một số yêu cầu khác
36
Chương 2: THỰC TIỄN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
42
2.1.
Hệ thống pháp luật Việt Nam
42
2.1.1.
Ngành Luật nhà nước (còn gọi là luật Hiến pháp)
42
2.1.2.
Ngành Luật Hành chính
43
2.1.3.
Ngành Luật Tài chính
43
2.1.4.
Ngành Luật Đất đai
44
2.1.5.
Ngành Luật Dân sự
44
2.1.6.
Ngành Luật lao động
44
2.1.7.
Ngành Luật hôn nhân và gia đình
45
2.1.8.
Ngành Luật hình sự
45
2.1.9.
Ngành Luật tố tụng hình sự
45
2.1.10.
Ngành Luật Tố tụng dân sự
46
2.1.11.
Ngành Luật kinh tế
46
2.2.
Luật quốc tế
46
2.3.
Thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam giai đoạn hiện nay
47
2.3.1.
Thực trạng về tính toàn diện của hệ thống pháp luật
47
2.3.2.
Thực trạng về tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật
52
2.3.3.
Thực trạng về tính phù hợp (ổn định) của hệ thống pháp luật
67
2.3.4.
Thực trạng về tính áp dụng pháp luật
72
2.3.5.
Nguyên nhân của thực trạng
76
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ HOÀN THIỆN
82
HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.
Một số dự báo tình hình kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến yêu
cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật giai đoạn 2011 - 2020
82
3.1.1.
Tình hình thế giới
82
3.1.2.
Tình hình trong nước
82
3.2.
Một số định hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện hệ thống
pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
trong giai đoạn hiện nay
85
3.2.1.
Định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
85
3.2.1.1.
Một số giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật đáp ứng
yêu cầu tính toàn diện, tính đồng bộ và thống nhất, tính phù
hợp của pháp luật
85
3.2.1.2.
Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả xây dựng pháp luật
102
3.2.2.
Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác tổ
chức thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu tính áp dụng của
hệ thống pháp luật
107
3.2.2.1.
Nâng cao chất lượng và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ,
công chức nhà nước trong quá trình áp dụng pháp luật
107
3.2.2.2.
Tiếp tục triển khai mạnh mẽ và thường xuyên công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, tăng cường năng
lực tiếp cận của nhân dân đối với hệ thống pháp luật
110
3.2.2.3.
Tăng cường công tác theo dõi thi hành pháp luật; đẩy mạnh
công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện và áp dụng pháp
luật, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật
112
3.2.2.4.
Củng cố các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác để hỗ
trợ cho pháp luật
114
KẾT LUẬN
116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
119
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
- Về mặt lý luận:
Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
được Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX khẳng định:
Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp [9]
Theo tinh thần đó, Điều 2 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 sửa đổi năm
2001 quy định:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp [27].
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi của đất
nước, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị và truyền
thống dân chủ của nước ta. Đồng thời, phải đảm bảo tuân thủ những nguyên
tắc, giá trị có tính phổ biến, được thừa nhận chung trong tất cả các nhà nước
pháp quyền; đảm bảo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
2
xây dựng gắn với một xã hội công dân, một xã hội dân sự, thừa nhận vị trí tối
thượng của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội. Do đó, vấn đề hoàn
thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là một vấn đề quan trọng, cơ bản, góp phần xây dựng
thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn:
Trong những năm qua, mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do nhiều
nguyên nhân chủ quan và khách quan nên hệ thống pháp luật của chúng ta
vẫn chỉ từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, hạn chế trong
công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật; trong hoạt động
kiểm tra, giám sát, rà soát và hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật; trong
công tác tổ chức và thực hiện pháp luật cũng như trình độ chuyên môn nghiệp
vụ của cán bộ làm công tác ban hành văn bản pháp luật còn hạn chế. Vì vậy,
chất lượng và hiệu quả của hệ thống pháp luật nói chung trong quá trình điều
tiết xã hội chưa cao. Mặt khác, nước ta đang từng bước hoàn thiện xây dựng
mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặt ra yêu cầu phải
hoàn thiện hệ thống pháp luật là một tất yếu khách quan.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên, tác giả đã chọn đề tài:
"Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay" để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong nhiều năm qua, tư tưởng nhà nước pháp quyền, về xây dựng
nhà nước pháp quyền nói chung và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam nói riêng có nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu, nổi bật như:
- "Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới" của
tác giả Đào Trí Úc, NXB Khoa học xã hội - năm 1997;
3
- "Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", đề tài khoa học cấp Nhà nước do Viện
Nhà nước và Pháp luật chủ trì nghiên cứu (2001 - 2005);
- "Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn" của tác giả Nguyễn Thị Hồi, NXB Tư pháp - năm 2009;
- "Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong bối
cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" của tác giả Nguyễn
Minh Đoan, NXB Chính trị quốc gia - năm 2011.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu sâu về vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp
luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam còn rất ít, chưa được nghiên cứu kỹ, cụ thể trong từng giai đoạn phát
triển. Do đó, việc nghiên cứu đề tài trên là cần thiết, hy vọng góp phần đưa ra
giải pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn xây dựng hệ thống pháp
luật trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thời gian qua để đề xuất một số giải pháp chủ yếu mang tính hệ thống,
đồng bộ góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ:
Với mục đích nghiên cứu như trên, luận văn có những nhiệm vụ
nghiên cứu chủ yếu như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về nhà nước pháp quyền
nói chung và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng,
4
hệ thống pháp luật và yêu cầu của hệ thống pháp luật trong nhà nước
pháp quyền.
Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật của nước
ta hiện nay, chỉ ra nguyên nhân của các thực trạng đó. Xác định rõ xu hướng
xây dựng pháp luật trong thời gian tới nhằm hoàn thiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp chủ yếu đề hoàn thiện hệ thống
pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu cơ sở
lý luận về nhà nước pháp quyền và hệ thống pháp luật trong nhà nước pháp
quyền, những yêu cầu của hệ thống pháp luật trong nhà nước pháp quyền, Từ
đó, xác định rõ những yêu cầu của hệ thống pháp luật trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, thực trạng hệ thống
pháp luật của Việt Nam và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam giai hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là tư tưởng nhà nước pháp quyền và nhà
nước pháp quyền nói chung trên thế giới; dựa trên hệ thống quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là các báo cáo đánh giá về chất lượng và
hiệu quả của hệ thống pháp luật, thực tiễn công tác xây dựng và thi hành pháp
luật hiện nay ở nước ta.
5
Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: lịch sử,
lôgíc, hệ thống, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh pháp luật, điều tra xã hội
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng
yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm
công tác nghiên cứu, giảng dạy về công tác pháp luật và các cán bộ thực tiễn
đang công tác tại các cơ quan bảo vệ pháp luật
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ cở lý luận về việc hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp
ứng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn hệ thống pháp luật Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản để hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam hiện nay.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
ĐÁP ỨNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1.1.1. Khái niệm
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã hình thành từ rất sớm, nhưng
nhà nước pháp quyền với tư cách là học thuyết chính trị và triết học thì chỉ
xuất hiện ở Tây âu vào thế kỷ XVII - XVIII. Vậy nhà nước pháp quyền là gì?
Có thể khái niệm về nhà nước pháp quyền như sau: Nhà nước pháp
quyền không phải là một kiểu nhà nước, đó chỉ là những giá trị phổ biến, là
biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ, một cách thức tổ chức nhà
nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Đó là một tổ chức công quyền được
thành lập và hoạt động trên cơ sở pháp luật, nhằm đưa lại tự do, hạnh phúc
cho nhân dân, gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội công dân, thông
qua hệ thống các thể chế và yêu cầu dân chủ như đề cao chủ quyền nhân dân;
có cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước khoa học và hiệu quả; dân
chủ hóa đời sống nhà nước và xã hội…
1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền
Từ khái niệm về nhà nước pháp quyền, có thể thấy nhà nước pháp
quyền có những đặc điểm cơ bản sau:
- Nhà nước pháp quyền luôn đề cao chủ quyền của nhân dân, tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
7
- Nhà nước pháp quyền đề cao hiến pháp và tính tối cao của hiến
pháp. Hiến pháp phải có tính tối cao so với các văn bản pháp luật khác, các
luật và văn bản dưới luật phải tuân thủ hiến pháp cả về nội dung và hình thức,
cả về thủ tục ban hành và hiệu lực tác động.
- Trong nhà nước pháp quyền pháp chế luôn được tăng cường. Trong
nhà nước pháp quyền, mọi hoạt động của nhà nước, các cơ quan nhà nước,
các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân
đều phải dựa trên cơ sở pháp luật, luôn phù hợp với hiến pháp và pháp luật.
- Luật chiếm vị trí tối thượng trong đời sống nhà nước và xã hội. Pháp
luật và những giá trị của pháp luật trong nhà nước pháp quyền luôn được đề cao.
Hệ thống pháp luật phải hoàn thiện, luôn đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi của
việc quản lý đất nước trong từng gai đoạn phát triển. Các quan hệ xã hội quan
trọng cần được điều chỉnh bằng pháp luật thì đều có pháp luật điều chỉnh.
Đối với công dân, pháp luật phải mở rộng và bảo vệ tối đa các quyền
của con người càng nhiều càng tốt, công dân có quyền được làm tất cả những
gì mà pháp luật không cấm và pháp luật chỉ nên cấm những gì thật cần thiết
để bảo đảm quyền tự do cho nhân dân. Đối với các cơ quan nhà nước, pháp
luật phải quy định chặt chẽ, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ quyền hạn để tránh
sự tùy tiện, lạm quyền. Pháp luật do nhà nước ban hành, nhưng luôn giữ vai
trò thống trị đối với chính nhà nước; các cơ quan, công chức nhà nước chỉ
được làm những gì mà luật cho phép.
- Trong nhà nước pháp quyền con người là giá trị cao quý nhất, do đó sự
phát triển của cá nhân con người là mục tiêu cao cả nhất. Điều này có nghĩa Nhà
nước pháp quyền phải là một nhà nước có khả năng bảo vệ và bảo đảm các
quyền con người một cách tốt nhất. Sở dĩ như vậy vì, xuất phát từ chức năng và
mục đích của nhà nước pháp quyền là đưa lại tự do, hạnh phúc cho con người
nên nhà nước không chỉ tuyên bố một hệ thống rộng lớn các quyền tự do của
8
công dân mà quan trọng hơn là tạo ra một cơ chế đồng bộ bảo đảm cho các
quyền, tự do đó thực hiện trên thực tế. Đồng thời phải ngăn chặn và loại bỏ mọi
sự xâm hại đối với các quyền tự do đó, bảo đảm không ngừng mở rộng, làm
phong phú thêm các quyền, tự do của công dân. Phải bảo đảm mọi hoạt động,
mọi cố gắng của nhà nước, của xã hội đều nhằm phục vụ cho hạnh phúc của con
người. Nhà nước có cơ chế bảo vệ các quyền của con người khi nó bị xâm hại.
- Trong nhà nước pháp quyền, cơ chế tổ chức và thực thi quyền lực
nhà nước cần có sự phân công một cách rành mạch giữa lập pháp, hành pháp
và tư pháp; có cơ chế kiểm soát về mặt nhà nước và xã hội trong việc thực
hiện các quyền lực đó.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng phải có sự phân công phối
hợp phù hợp giữa cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Cơ chế phân công, phối hợp phải rõ ràng và có hiệu
quả, phải bảo đảm sự phân biệt rõ ràng và sự phối hợp có hiệu quả giữa ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Có như vậy, mới có thể thực hiện được
sự kiểm tra, giám sát các hoạt động lao động quyền lực, có thể hạn chế được
sự lạm dụng quyền lực, bảo vệ được lợi ích hợp pháp của con người khỏi bị
xâm hại từ phía quyền lực nhà nước.
- Giải quyết hợp lý mối quan hệ qua lại giữa nhà nước và công dân.
Trong quan hệ với công dân, nhà nước là một bên nhưng lại là chủ thể có
quyền ban hành pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện, là chủ thể
thực hiện việc xét xử, phán quyết mỗi khi có tranh chấp, vi phạm. Do vậy,
nhà nước phải bị ràng buộc bởi chính pháp luật đã được nhà nước ban hành từ
trước. Công dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, trao quyền cho nhà nước,
nhưng hành vi của công dân lại là đối tượng chịu sự quản lý của nhà nước. Do
vậy, nhà nước và công dân phải có mối quan hệ qua lại và tôn trọng lẫn nhau:
công dân phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với nhà nước; nhà
9
nước phải bảo đảm các quyền, tự do cá nhân, lợi ích, danh dự của công dân,
tạo điều kiện để chúng được thực hiện và không bị xâm hại.
Trong nhà nước pháp quyền, mối quan hệ này diễn ra theo hướng nhà
nước luôn chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Mọi sự phấn đấu, cố gắng của
nhà nước và xã hội phải vì con người, mỗi công dân và xã hội luôn tôn trọng
và bảo vệ pháp luật. Công dân có quyền, đồng thời có khả năng buộc nhà cầm
quyền phải tôn trọng và thực hiện đúng pháp luật đã ban hành. Tranh chấp
giữa nhà nước và công dân phải do tòa án giải quyết. Tòa án thì phải độc lập,
vô tư có cơ chế phù hợp, bình đẳng để tất cả mọi công dân đều có thể tiếp cận
được. Tòa án phải xử lý kịp thời, chính xác, đúng thủ tục và hiệu quả.
- Dân chủ hóa đời sống nhà nước và xã hội. Dân chủ là một trong
những nhu cầu, điều kiện của nhà nước pháp quyền. Nhà nước và xã hội phải
luôn bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm quyền con người. Để
thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội phải xây dựng xã hội dân sự trong đó
mỗi cá nhân, mỗi tổ chức đều thể hiện đúng vị trí, vai trò của mình trong xã
hội. Các quyền, lợi ích chính đáng của công dân phải được bảo vệ; nhà nước
pháp quyền phải thực hiện chính sách xã hội nhiều hơn và tốt hơn.
Tóm lại, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước, nó là
một mô hình tổ chức nhà nước tiến bộ, là một giá trị, là tinh hoa nhân loại có
thể áp dụng ở tất cả các nước tùy theo điều kiện cụ thể của mỗi nước. Đó là
mô hình nhà nước đề cao tính tối thượng của pháp luật, bảo vệ và bảo đảm tốt
nhất quyền con người, có cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực
(lập pháp, hành pháp và tư pháp) chặt chẽ, khoa học, hiệu quả và hợp pháp.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.2.1. Khái niệm
10
Sau một qua trình nhận thức, đánh giá, chúng ta đã khẳng định quyết
tâm xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thành Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam đã được Đại hội
Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX khẳng định:
Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp [9].
Trên cơ sở đó, Điều 2 - Hiến pháp Việt Nam năm 1992 sửa đổi năm
2001 đã quy định:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
tri thức.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp [27].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung phát triển năm 2011) đã xác định 8 đặc trưng của xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng trong đó có đặc trưng: "Có Nhà nước
pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng cộng sản Việt
Nam lãnh đạo" [13]. Một trong những phương hướng để thực hiện mục tiêu
tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là "xây dựng Nhà nước pháp
11
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" [13]. Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) đã khẳng định rõ
hơn một bước tất yếu phải hoàn thiện và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của chúng ta.
Như vậy, đối với chúng ta nói xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa là nói tới một phương thức tổ chức nền chính trị xã hội chủ nghĩa
và Nhà nước xã hội chủ nghĩa mà mục đích không ngừng duy trì bản chất giai
cấp công nhân và tính nhân dân của nhà nước, phát huy cao độ tính dân chủ
xã hội chủ nghĩa, làm cho nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao
hiệu lực và hiệu quả quản lý và điều hành.
1.2.2. Xây dựng Nhà nước pháp quyền là một tất yếu, bắt nguồn
từ chính lịch sử xây dựng và phát triển nước ta
Có thể nói, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu khi thành lập nước với bản
Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1945 và Hiến Pháp năm
1946. Quá trình này đã trải qua hơn 70 năm lịch sử với nhiều giai đoạn phát
triển đặc thù. Ngày nay đã được khẳng định rõ nét và quá trình này đảng được
tiếp tục ở một tầng cao phát triển mới với nhiều đòi hỏi và nhu cầu cải cách
mới.
Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xuất
phát từ định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta mà mục tiêu cơ
bản là xây dựng một chế độ dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng để đạt được một chế độ xã hội có tính
mục tiêu như vậy, công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên
cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
12
Tính tất yếu khách quan còn do xuất phát từ đặc điểm của thời đại với
xu thế toàn cầu hóa. Nhu cầu hội nhập quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục
đẩy mạnh cải cách Nhà nước, cải cách pháp luật, đảm bảo cho nhà nước không
ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội, mở rộng dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập vững
chắc vào đời sống quốc tế. Việc thừa nhận và xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa trong những năm gần đây ở nước ta đã góp phần xác định rõ
hơn đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.2.3. Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
Đặc trưng thứ nhất: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền
làm chủ của nhân dân.
Bản chất dân chủ của chế độ chính trị ở nước ta đòi hỏi mọi quyết
định và hành động của các thiết chế quyền lực đều phải bắt nguồn từ ý chí
đích thực của nhân dân. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngay
từ khi thành lập đã thể hiện tính chất nhân dân và cách mạng sâu sắc, bởi vì
nó chính là thành quả trực tiếp của Cách mạng tháng Tám do toàn thể nhân
dân Việt Nam thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhà nước ta là đại diện của nhân dân, do nhân dân
bầu lên, và thực hiện nhiệm vụ phục vụ lợi ích của nhân dân và dân tộc. Tính
pháp quyền cao nhất của quyền lực nhà nước ở nước ta thể hiện ở việc khẳng
định nhà nước là của nhân dân.
Quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện, nhân dân không chỉ tạo
lập nên Nhà nước, trực tiếp và thông qua các cơ quan đại diện của mình thực
thi quyền lực, mà còn thông qua các hình thức khác để tham gia vào hoạt
động quản lý của Nhà nước, tác động mạnh đến quá trình hoạch định chính
sách đường lối của Đảng và Nhà nước, cũng như các hoạt động thuộc phạm vi
13
nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp). Điều 53 - Hiến pháp Việt Nam
khẳng định: "Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội…"
Quyền làm chủ của nhân dân còn được thể hiện ở chỗ các thiết chế
chính trị và quyền lực của Nhà nước đều đặt dưới sự giám sát của nhân dân.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Khóa XI) ghi rõ:"Đảng Cộng sản Việt
Nam là Đảng cầm quyền gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của
nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng" [14]. Đối với Nhà nước,
Hiến pháp năm 2001 quy định các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên
chức nhà nước phải "chịu sự giám sát của nhân dân" [27, Điều 8] và đối với
các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, họ có thể bị bãi nhiệm khi
không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân (Điều 7).
Đặc trưng thứ hai: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, ra sức tôn trọng và bảo vệ
Hiến pháp
Ở Việt Nam, xây dựng và hoàn thiện Hiến pháp luôn luôn là phương
hướng quan trọng để thực hiện dân chủ, giữ vững quyền lực chính trị của
nhân dân, tạo điều kiện để thúc đẩy mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội. Ngay
từ khi mới thành lập nước, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hồ Chủ tịch đã nói: "Trước chúng ta đã bị
chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần
chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng
quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ" [20, tr. 6]. Sự
hiện diện của Hiến pháp 1946 đã được gắn liền với nền dân chủ, với quyền tự
do dân chủ của nhân dân. Nhà nước ta được tổ chức và hoạt động trên nền
tảng Hiến pháp và trong khuôn khổ của Hiến pháp. Hiến pháp nước ta được
bổ sung, sửa đổi trên cơ sở kế thừa và phát triển các giai đoạn lịch sử của chủ
nghĩa lập hiến Việt Nam, hoàn thiện và điều chỉnh những chế định quan trọng
như: Chủ quyền quốc gia, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; đại đoàn kết
14
toàn dân; sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã
hội
Những nội dung cơ bản trên của Hiến pháp là cơ sở pháp lý quan
trọng cho sự duy trì quyền lực nhà nước, cho sự làm chủ của nhân dân; đó
chính là nền tảng có tính chất hiến định để xem xét, đánh giá sự hợp hiến hay
không hợp hiến của các đạo luật, cũng như các quyết sách khác của Nhà nước
và của các tổ chức chính trị - xã hội.
Đặc trưng thứ ba: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật
trong đời sống xã hội
Tính tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội được thể hiện: Tất
cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều
phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp đã ghi rõ
những yêu cầu đó:
Điều 4:
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công
nhân Việt Nam (…) là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật [25].
Điều 12:
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn
vị vũ trang và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến
pháp và pháp luật…Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị
xử lý theo pháp luật [25].
15
Điều 18: "Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch
và pháp luật" [25]. Điều 26: "Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc
dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách" [25].
Điều 57: "Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của
pháp luật" [25].
Tư duy lý luận của Đảng ta về vị trí, vai trò của pháp luật trong quản
lý nhà nước và xã hội có sự phát triển ngày càng hoàn thiện theo hướng bảo
đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống pháp
luật và pháp luật thực sự là công cụ chủ yếu trong quản lý nhà nước và xã hội.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII khẳng định điều quan trong để phát huy
dân chủ là xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, nâng cao dân trí và ý thức tuân thủ pháp luật của nhân dân.
Nhiệm vụ trọng tâm về xây dựng pháp luật phục vụ công cuộc đổi mới là
"Tiếp tục đổi mới, bổ sung và đồng bộ hóa hệ thống pháp luật kinh tế, đặc
biệt chú trọng đổi mới và bổ sung các luật thuế, đồng thời "tăng cường giáo
dục pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành một
cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng". Văn kiện Hội nghị lần thứ 8
Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã chỉ ra, chúng ta phải tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng
cao đạo đức xã hội: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật.
Đó là cơ sở chủ yếu điều chỉnh các quan hệ cơ bản trong xã hội" [8]. Đồng
thời, coi trọng giáo dục, nâng cao dân trí, tăng cường tuyên truyền, giáo dục
pháp luật trong cán bộ, nhân dân.
Tư tưởng này đã được các văn kiện Đại hội Đảng VIII, Nghị quyết
Trung ương 3 khóa VIII, Văn kiện Đại hội Đảng IX, X, XI liên tục tổng kết
16
và khẳng định. Một mặt, chúng ta vừa đề cao vai trò chủ đạo, cơ bản của việc
quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật, nhưng mặt khác, Đảng ta cũng
không xem nhẹ vai trò của các quy phạm đạo đức, xã hội khác. Đây chính là
sự kết hợp nhuần nhuyễn, sáng tạo giữa học thuyết Mác - Lênin với các tư
tưởng nhân bản của triết học phương Đông trong điều kiện, hoàn cảnh của
Việt Nam hiện nay.
Như vậy, nội dung pháp luật của Nhà nước ta chính là sự thể chế hóa
đường lối của Đảng, do vậy trong nội dung pháp luật đã hàm chứa đầy đủ
đường lối của Đảng (đường lối của Đảng là cái hồn của pháp luật), chấp hành
pháp luật chính là thực hiện đường lối của Đảng. Đồng thời, pháp luật cũng là
quy tắc xử sự chung nên mọi cá nhân, tổ chức phải tuân thủ. Đảng Cộng sản
Việt Nam là tổ chức duy nhất có vị trí lãnh đạo Nhà nước và xã hội ta, nhưng
cấp ủy đảng các cấp và đảng viên đều phải chấp hành pháp luật (Điều 4 Hiến
pháp năm 1992 khẳng định: "Đảng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật" [25]).
Hơn 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng,
Nhà nước ta đã từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp
phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa và đổi mới hệ thống chính trị. Pháp luật đã bước đầu trở thành công
cụ chủ yếu để quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Nguyên tắc nhà nước pháp
quyền từng bước được đề cao và phát huy hiệu quả trên thực tế.
Đặc trưng thứ tư: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền tự do của công dân, giữ vững
mối liên hệ dân chủ giữa nhà nước và công dân, giữa nhà nước và xã hội
Sau khi khẳng định bản chất dân chủ của Nhà nước ta, thì vấn đề được
Đảng ta quan tâm là hình thức dân chủ để bảo đảm thực hiện trên thực tế.
Trong điều kiện hiện nay, hình thức thực hiện dân chủ là rất quan trọng, Đảng
ta xác định dân chủ dựa trên nguyên tắc: dân chủ xã hội chủ nghĩa là vấn đề
17
thuộc bản chất của Nhà nước. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi
lĩnh vực. Quyền làm chủ đó được thể chế hóa bằng pháp luật…Dân chủ đi đôi
với kỷ cương, kỷ luật, phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra" đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện
tốt cơ chế làm chủ của nhân dân thông qua đại diện (là cơ quan dân cử và các
đoàn thể), làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng việc
xây dựng và thực hiện các quy ước, hương ước tại cơ sở.
Trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, có tình trạng vừa thiếu dân
chủ, vừa thiếu kỷ cương. Quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và
phát huy đầy đủ. Trong xã hội còn không ít hiện tượng mất dân chủ, dân chủ
hình thức, có nơi còn diễn ra nghiêm trọng, nhiều nỗi oan ức của người dân
chưa được giải tỏa, vẫn còn tình trạng bắt oan, xử oan người vô tội. Mặt khác,
trật tự xã hội yếu kém, hiện tượng coi thường kỷ cương, bất chấp pháp luật,
các tệ nạn xã hội chưa giảm. Cơ chế và pháp luật bảo đảm dân chủ hóa tuy đã
có tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều vấn đề chưa đầy đủ và cụ thể. Việc thực hiện
các hình thức dân chủ trực tiếp và hình thức dân chủ gián tiếp còn mang tính
hình thức, hiệu quả chưa cao.
Mối liên hệ dân chủ giữa nhà nước và xã hội được thể hiện: Nhà nước
là một bộ phận của xã hội, nhưng Nhà nước ngày càng tách ra khỏi xã hội,
quản lý xã hội và sự quản lý đó đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến nhiều mặt
và mạnh mẽ. Như vậy, sự tồn tại của Nhà nước và vai trò của nó trong xã hội
là khách quan và cần phải làm tất cả không phải để nó yêu đi mà để cho nó
mạnh lên để nó làm tốt vai trò quản lý xã hội. Sự xa dần, tách dần của bộ máy
chuyên nghiệp ra khỏi xã hội là có thật và không thể phủ nhận được. Chính vì
vậy mà cần nhìn nhận vấn đề này trên hai bình diện: Một là, nâng cao chất
lượng của bộ máy nhà nước phục vụ và điều chỉnh xã hội; hai là, dân chủ hóa
hoạt động quản lý của Nhà nước trên cơ sở mở rộng tối đa các kênh liên hệ
giữa Nhà nước với các tổ chức, phong trào xã hội và từ phía công dân.
18
Trên cơ sở những mối liên hệ giữa Nhà nước và xã hội theo những
lôgic chung nhất đó, có thể tìm hiểu cụ thể hơn các mối liên hệ giữa Nhà nước
với xã hội, giữa Nhà nước với hoạt động kinh tế (kinh doanh), giữa Nhà nước
với các thiết chế và trật tự chung của Xã hội thông qua một phạm trù quan
trọng được nhắc tới trong lịch sử tư tưởng và trong thực tiễn là phạm trù xã
hội công dân.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đồng
thời phải xây dựng và hoàn thiện một xã hội công dân.
Đặc trưng thứ năm: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện
quyền lực nhà nước
Quan điểm về tính thống nhất của quyền lực về sự phân công phối hợp
giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một quan điểm chính trị,
pháp lý khái quát. Trong quá trình xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định nó là một tất yếu.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
năm 1991, Đảng ta đã khẳng định sự tồn tại của ba quyền và sự phân công,
phối hợp giữa ba phạm vi quyền lực đó. Đến Hội nghị Trung ương lần thứ
tám (khóa VII - năm 1995), quan niệm của Đảng về sự tồn tại của 3 quyền đã
có sự bổ sung quan trọng: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công
và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 2001
(sửa đổi, bổ sung Cương lĩnh năm 1991) khẳng định: "Quyền lực nhà nước là
thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp" [13, tr. 85].
19
Ở Việt Nam quan điểm như thế nào về tính thống nhất của quyền lực
nhà nước, sự phân công phối hợp giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp cần được xác định trong mối quan hệ quyền lực nào: thống nhất ở chỗ
nào và độc lập, phân công, phối hợp như thế nào.
Ở nước ta xuất phát từ bản chất của Quốc hội với tính cách là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất và cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân. Quốc
hội cần nắm giữ những quyền hạn mà việc thực thi chúng có ý nghĩa quyết
định đối với toàn bộ hoạt động Nhà nước.
Quyền quyết định các vấn đề quan trọng, trong đó cần chú trọng đến
quyền quyết định chính sách tài chính, thực tiễn tiền tệ quốc gia, quyết định
dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách nhà nước, phê chuẩn quyết
toán ngân sách nhà nước… Vấn đề ngân sách nhà nước luôn có ý nghĩa quyết
định đối với toàn bộ hoạt động Nhà nước. Do vậy, quyền quyết định ngân
sách nhà nước được khẳng định chỉ thuộc về Quốc hội.
Quốc hội là một cơ quan thực hiện quyền lập pháp. Do vậy, quyền làm
luật là thẩm quyền cơ bản nhất của Quốc hội. Để thực hiện quyền này, đảm
bảo vai trò quyết định của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động lập pháp, thông
qua từng giai đoạn của quá trình làm luật cần xử lý các mối quan hệ: quan hệ
với các chủ thể sáng kiến pháp luật theo luật định; quan hệ với cơ quan, tổ
chức dự thảo luật; quan hệ với ủy ban Thường vụ Quốc hội - Cơ quan ban
hành các pháp lệnh.
Quốc hội với tư cách là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, tổ chức và
hoạt động của Quốc hội cần được đổi mới để phù hợp với nhu cầu xây dựng
pháp luật trong tình hình mới. Muốn vậy cần thiết phải chuyển từ một Quốc
hội không chuyên trách, từ một Quốc hội họp theo định kỳ mỗi năm 2 lần
sang Quốc hội có nhiều đại biểu chuyên trách hơn và có thể họp nhiều kỳ
hơn, từ Quốc hội thực tế hoạt động theo đoàn địa phương sang một Quốc hội
hoạt động chủ yếu theo tư cách đại biểu kết hợp với hoạt động theo đoàn.
20
Điều đặc biệt có ý nghĩa là phải phát huy tinh thần tích cực của bản thân các
đại biểu Quốc hội, đảm bảo cho Đại biểu Quốc hội có quyền tự mình làm báo
cáo công khai trước Quốc hội, trực tiếp đưa ra các khuyến nghị, thậm chí có
quyền đưa ra cả một dự án luật.
Các ủy ban của Quốc hội là những cơ quan đặc trách từng lĩnh vực
hoạt động của Quốc hội và là các ủy ban hoạt động thường xuyên. Ngoài các
ủy ban, Quốc hội có các tiểu ban, các tổ công tác để giúp Quốc hội giải quyết
các nhiệm vụ cụ thể nảy sinh trong hoạt động Quốc hội liên quan đến trách
nhiệm, thẩm quyền của Quốc hội.
Cải cách nền hành chính quốc gia là một trong những khâu đột phá
của cải cách bộ máy hành chính nhà nước. Do vậy, sự chuyển đổi tính chất,
nội dung và phương pháp thực thi của nền hành chính quốc gia phải được bắt
đầu từ cải cách Chính phủ. Với vị trí là cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất, lãnh đạo thông suốt toàn bộ hệ thống hành chính nhà nước, Chính phủ
có nhiệm vụ xây dựng và kiện toàn bộ mặt hành chính có hiệu lực từ Trung
ương đến địa phương, Chính phủ có vai trò quan trọng đối với công cuộc cải
cách hành chính.
Tăng cường quản lý tập trung thống nhất của Chính phủ trên các vấn
đề quản lý vĩ mô, không can thiệp trực tiếp việc điều hành hoạt động sản xuất
kinh doanh. Thực hiện đúng và tốt hơn chức năng quản lý nhà nước đích thực
trong kinh tế thị trường; phát huy mạnh mẽ tính năng động tích cực và hạn
chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Bảo đảm tính thống nhất, tập trung
của hệ thống hành chính, phát huy tính năng động, sáng tạo của địa phương;
Chính phủ và các cơ quan hành chính các cấp tập trung làm tốt công tác quản
lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực
Các cơ quan tư pháp: Tòa án nhân dân ở nước ta được tổ chức theo
nguyên tắc kết hợp giữa thẩm quyền xét xử với tổ chức theo đơn vị hành