ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ GIA THẮNG
HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT
CỦA CHÍNH PHỦ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở NƯỚC TA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
HÀ NỘI-NĂM 2006
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG DỰ ÁN
LUẬT CỦA CHÍNH PHỦ TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1.1. Nhà nước pháp quyền và vai trò của hoạt động xây dựng pháp luật
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay
1.1.1. Khái niệm và các nội dung cơ bản được thừa nhận trong Nhà
nước pháp quyền
1.1.2. Vai trò của pháp luật và hoạt động xây dựng pháp luật trong
Nhà nước pháp quyền
1.2. Hoạt động lập pháp và vai trò của Chính phủ trong hoạt động xây
dựng các dự án luật
1.2.1. Khái niệm văn bản luật
1.2.2. Hoạt động lập pháp và vai trò của Chính phủ trong hoạt động
xây dựng dự án luật
1.3. Hoạt động xây dựng dự án luật của Chính phủ
1.3.1. Một số nguyên tắc cơ bản của hoạt động xây dựng dự án luật
của Chính phủ
1.3.2. Quy định của pháp luật về hoạt động xây dựng dự án luật của
Chính phủ
1.4. Hoạt động xây dựng dự án luật của Chính phủ ở một số nước trên
thế giới
1.4.1. Thái Lan
1.4.2. Nhật Bản
1.4.3. Trung Quốc
Trang
1
2
8
8
8
11
14
14
15
19
19
20
31
31
33
34
1.4.4. Hoa Kỳ
Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT CỦA
CHÍNH PHỦ
2.1. Những thành tựu trong công tác xây dựng dự án luật của Chính phủ
2.1.1. Về nội dung
2.1.2. Về hình thức
2.2. Những hạn chế trong hoạt động xây dựng dự án luật của Chính phủ
2.2.1. Về việc thể chế hoá chủ trương, đường lối, chính sách đổi
mới của Đảng
2.2.2. Về tính toàn diện, thống nhất, đồng bộ và khả thi của hệ
thống pháp luật
2.2.3. Về chất lượng soạn thảo các dự án luật
2.2.4. Về quy trình xây dựng văn bản luật
2.2.5. Về sự tham gia của nhân dân, các nhà khoa học vào quá trình
xây dựng pháp luật
2.3. Nguyên nhân hạn chế trong hoạt động xây dựng các dự án luật của
Chính phủ
2.3.1. Thiếu lý luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN, tư duy
pháp lý trong xây dựng luật còn chậm đổi mới
2.3.2. Thiếu giai đoạn phân tích chính sách lập pháp trước khi soạn
thảo luật
2.3.3. Về tổ chức xây dựng dự án
2.3.4. Về đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật
2.3.5. Về thời gian và kinh phí
Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG
XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT CỦA CHÍNH PHỦ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Các quan điểm, nguyên tắc nâng cao chất lượng xây dựng dự án
35
39
39
40
43
45
45
46
48
58
67
70
71
72
73
78
79
81
luật của Chính phủ
3.1.1. Thể chế hoá kịp thời, đầy đủ và đúng đắn đường lối và chính
sách của Đảng
3.1.2. Chú trọng phát huy nội lực và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế
3.1.3. Bám sát thực tiễn Việt Nam đồng thời tiếp thu có chọn lọc
kinh nghiệm quốc tế
3.1.4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật khẩn trương, nhưng vững chắc
và coi trọng tới chất lượng
3.1.5. Dự tính các điều kiện bảo đảm hiệu lực của luật trong cuộc
sống
3.2. Các giải pháp chung
3.2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của hoạt động xây dựng pháp
luật
3.2.2. Bảo đảm và tăng cường tính tập trung, thống nhất trong chỉ
đạo của Thủ tướng Chính phủ
3.2.3. Dân chủ hoá công tác lập pháp và thực hiện công khai, minh
bạch quy trình soạn thảo các dự án luật
3.2.4. Tăng cường trách nhiệm cá nhân của các thành viên Chính
phủ, của tập thể Chính phủ
3.2.5. Hoàn thiện quy trình soạn thảo dự án luật thuộc thẩm quyền
của Chính phủ
3.2.6. Hoàn thiện pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật
3.3. Các giải pháp cụ thể
3.3.1. Đổi mới việc lập chương trình xây dựng luật
3.3.2. Tuân thủ các quy định pháp luật về quy trình soạn thảo
3.3.3. Tăng cường trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng, thành viên
Chính phủ và Trưởng BST
81
81
81
82
82
83
83
83
84
85
85
86
86
88
88
89
94
3.3.4. Nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định của Bộ Tư pháp và
hoạt động thẩm tra của Văn phòng Chính phủ
3.3.5. Thu hút sự tham gia của nhân dân, các tổ chức, cá nhân vào
việc xây dựng các dự án luật
3.3.6. Kiện toàn Ban Xây dựng pháp luật thuộc Văn phòng Chính
phủ
3.3.7. Xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác
xây dựng pháp luật
3.3.8. Đổi mới quy trình thông qua các dự án luật tại phiên họp
Chính phủ
3.3.9. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Chính phủ với Quốc hội và
UBTVQH trong việc soạn thảo, thẩm định và thông qua các
dự án luật
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
95
97
98
99
100
101
103
106
1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu các chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
- BST:
- CTXDL,PL:
- Luật BHVBQPPL:
- NNPQ:
- SKLP:
- UBTVQH:
- VPCP:
- XHCN:
Ban soạn thảo
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
nhà nước pháp quyền
sáng kiến lập pháp
Uỷ ban thường vụ Quốc hội
Văn phòng Chính phủ
xã hội chủ nghĩa
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
NNPQ không chỉ là một học thuyết chính trị-pháp lý trong kho tàng văn
hoá tinh thần của nhân loại mà đã trở thành một thực tại ở các nước phát triển
cao và tồn tại như một quy luật tất yếu trong quá trình phát triển của lịch sử. Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Nhà nước
ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân” [2, tr. 14]. Trong NNPQ, yêu cầu về tính
tối cao của pháp luật được đặt lên hàng đầu, nghĩa là mọi cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội và công dân đều phải tuân thủ pháp luật trong mọi hoạt động của
mình. Pháp luật phải được ưu tiên áp dụng trên bất kỳ và tất cả các biện pháp của
chính quyền và được duy trì bằng sự tự nguyện của nhân dân chứ không phải bởi
một sự cưỡng bức bên ngoài. Để đáp ứng được những yêu cầu đó thì pháp luật
trong NNPQ phải thoả mãn các tiêu chí khách quan, hợp lý, công bằng, nhân
đạo, dân chủ…
Trong những năm qua, yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng
pháp luật nói chung và xây dựng các dự án luật nói riêng trong tiến trình xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm. Chính phủ với vị trí là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đóng
vai trò quan trọng trong hoạt động xây dựng pháp luật với việc chịu trách nhiệm
soạn thảo trên 90% các dự án luật trình Quốc hội bên cạnh nhiệm vụ thường
xuyên là tổ chức thực thi pháp luật, quản lý điều hành đất nước. Do đó, làm thế
nào để các dự án luật của Chính phủ chuẩn bị vừa bảo đảm được tiến độ trong
CTXDL,PL vừa bảo đảm chất lượng của dự án là vấn đề cấp thiết đặt ra. Chương
trình tổng thể cải cách nền hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 do Thủ
3
tng Chớnh ph phờ duyt ti Quyt nh s 136/2001/Q-TTg ngy 17 thỏng 9
nm 2001 khng nh vic tip tc i mi quy trỡnh xõy dng v ban hnh vn
bn phỏp lut, khc phc tớnh cc b trong vic chun b, son tho cỏc vn
bn; cao trỏch nhim ca tng c quan trong quỏ trỡnh xõy dng th ch;
phỏt huy dõn ch, huy ng trớ tu ca nhõn dõn nõng cao cht lng vn
bn quy phm phỏp lut v nghiờn cu i mi phng thc, quy trỡnh xõy
dng phỏp lut t khõu u cho n khõu Chớnh ph xem xột, quyt nh hoc
thụng qua trỡnh Quc hi [20]. Chớnh vỡ vy, mt lot cỏc vn lý lun
cng nh thc tin t ra trong vic hon thin hot ng xõy dng d ỏn lut
ca Chớnh ph cn c nghiờn cu, gii quyt, gúp phn nõng cao hn na cht
lng hot ng lp phỏp ca Quc hi v cụng tỏc qun lý, iu hnh t nc
ca Chớnh ph.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cu
Theo dừi cỏc cụng trỡnh nghiờn cu hoc ti liu liờn quan n hot ng
xõy dng d ỏn lut ca Chớnh ph, thy nh sau:
a, Mt s ti khoa hc cp B cú liờn quan nh sau:
- Vn phũng Chớnh ph cú ti: Nõng cao cht lng cỏc d ỏn lut,
phỏp lnh do Chớnh ph chun b, trỡnh Quc hi, UBTVQH, ti nghiờn cu
khoa hc cp B, mó s 04/H-NCKH, thỏng 4/2006. H Ni [51].
- Vn phũng Quc hi cú ti "Xõy dng tiờu chớ ỏnh giỏ cht lng d
ỏn lut, phỏp lnh", ti nghiờn cu khoa hc cp B, H Ni [53].
b, Mt s sỏch tham kho, lun ỏn, lun vn, bỏo cỏo cú liờn quan nh sau:
- S hn ch quyn lc nh nc ca PGS.TS Nguyn ng Dung [29];
- Bỏo cỏo ca Vn phũng Chớnh ph v cụng tỏc xõy dng, ban hnh vn
bn quy nh chi tit v hng dn thi hnh lut, phỏp lnh [50].
c, Một số bài viết chuyên đề đăng tải trên các báo và tạp chí gần đây:
4
- “Nhận diện NNPQ” của PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế [39];
- “Nghiên cứu NNPQ ở nước ta: góp phần nhìn lại và suy ngẫm” của
PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế [40];
- “Nâng cao chất lượng xây dựng các dự án luật, pháp lệnh do Chính phủ
soạn thảo” của TS. Phạm Tuấn Khải [38];
- "Đánh giá chất lượng dự án luật, pháp lệnh hiện nay" của TS. Hoàng
Văn Tú [44];
- “Thực trạng và giải pháp khắc phục vấn đề “luật khung” ở Việt Nam”
của TS. Đinh Dũng Sỹ [42].
Ngoài ra, còn một số bài viết khác liên quan đến hoạt động lập pháp trên
một số tạp chí như: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp. Những bài viết này, học viên đã sưu tầm
nghiên cứu, có thống kê và trích dẫn trong luận văn (xin xem phần tài liệu tham
khảo).
Nội dung các bài viết nói trên liên quan đến một hoặc một số mặt về xây
dựng dự án luật của Chính phủ. Luận văn đã có bình luận, đánh giá một số quan
điểm của các tác giả này, thể hiện sư ủng hộ hoặc không ủng hộ các quan điểm
đó hoặc bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề còn có ý kiến khác nhau.
d, Về tài liệu tham khảo nước ngoài
Luận văn sử dụng một số tài liệu, bài viết giới thiệu quy trình lập pháp của
một số quốc gia trên thế giới như:
- “Tài liệu tham khảo về quy trình lập pháp của một số quốc gia trên thế
giới” của Quốc hội [37];
- “Báo cáo kết quả chuyến thăm và làm việc của Đoàn đại biểu Quốc hội
nước ta tại Vương quốc Thái Lan và Nhật Bản (từ ngày 14/2/2004 đến ngày
2/3/2004)” [36];
5
- “A Guide to the Office of Prime Minister”- The Office of the permanent
Secretary the Prime Minister's Office [54];
-Tạp chí Standardization March 2006 (ASTM), Tiếng Anh [55];
Các tài liệu tham khảo nói trên chủ yếu đề cập đến quy trình xây dựng luật
của của một số nước.
Tóm lại, liên quan đến hoạt động xây dựng dự án luật của Chính phủ đáp
ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam giai đoạn hiện nay có
thể tìm thấy ở một số đề tài khoa học, luận án tiến sỹ, thạc sỹ hoặc các bài viết
tại các tạp chí, báo chuyên ngành. Tuy nhiên, các công trình này hoặc nghiên
cứu ở phạm vi rộng quy trình xây dựng luật, pháp lệnh từ sáng kiến lập pháp cho
đến khi được Quốc hội thông qua, hoặc lại chỉ tập trung nghiên cứu một số khía
cạnh trong hoạt động xây dựng pháp luật. Do đó các vấn đề về hoạt động xây
dựng dự án luật của Chính phủ chưa được nghiên cứu sâu, toàn diện. Như vậy,
đề tài này không trùng lặp với các đề tài nghiên cứu trước đây về quy trình lập
pháp.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu luận văn nhằm mục đích:
- Làm rõ khái niệm NNPQ, pháp luật trong NNQP và vai trò của hoạt
động xây dựng pháp luật trong NNQP, tìm ra những yếu tố ảnh hưởng và những
hạn chế, bất cập trong hoạt động xây dựng dự án luật của Chính phủ hiện nay.
- Đưa ra những quan điểm, nguyên tắc, các giải pháp chung cũng như giải
pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng xây dựng dự án luật của Chính phủ đáp
ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu bao gồm các quan hệ xã hội nói chung và các quan
hệ về xây dựng pháp luật trong NNPQ. Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn
6
đề lý luận và thực tiễn về hoạt động xây dựng dự án luật của Chính phủ, tham
khảo quy trình lập pháp của một số quốc gia trên thế giới, từ đó có sự so sánh,
tổng hợp để rút ra những đề xuất, kiến nghị đối với hoạt động xây dựng dự án
luật của Chính phủ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng ta về
xây dưng NNPQ, về cải cách nền hành chính nhà nước, về hoàn thiện hệ thống
pháp luật và hoạt động lập pháp ở nước ta.
Phương pháp so sánh được áp dụng để so sánh quy trình lập pháp của một
số nước trên thế giới với Việt Nam, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong
quá trình hoàn thiện hoạt động xây dựng dự án luật của Chính phủ.
Phương pháp thống kê được sử dụng để tổng hợp các số liệu từ các báo
cáo về hoạt động xây dựng pháp luật của Chính phủ, báo cáo giám sát hoạt động
xây dựng pháp luật của Quốc hội, UBTVQH, là cơ sở để luận văn đưa ra những
nhận định và đề xuất.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn được thực hiện trong thời điểm chủ trương xây dựng NNPQ là
nhiệm vụ chiến lược đã được thể chế hoá trong Hiến pháp, Chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm
2020 vừa được ban hành, đất nước ta đang có những bước chuẩn bị tích cực để
gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) đòi hỏi phải nhanh chóng xây
dựng, sửa đổi bổ sung và ban hành một loạt các đạo luật cho tương thích với yêu
cầu của hội nhập kinh tế-quốc tế.
Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo, phục vụ cho hoạt
động nghiên cứu cũng như trong thực tiễn xây dựng pháp luật.
7
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và kết luận, luận văn có
kết cấu gồm ba chương sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về hoạt động xây dựng dự án luật của
Chính phủ trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Chương 2. Thực trạng hoạt động xây dựng dự án luật của Chính phủ .
Chương 3. Một số kiến nghị nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng dự
án luật của Chính phủ đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam hiện nay.
8
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG
DỰ ÁN LUẬT CỦA CHÍNH PHỦ TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM
1.1. Nhà nước pháp quyền và vai trò của hoạt động xây dựng pháp luật
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay
1.1.1. Khái niệm và các nội dung cơ bản được thừa nhận trong Nhà nước
pháp quyền.
1.1.1.1. Khái niệm
Tổng kết quá trình phát triển lịch sử, nhân loại đã rút ra một phương thức
tổ chức quyền lực công cộng được coi là tối ưu và đáp ứng được các yêu cầu của
dân quyền. Phương thức đó được gọi là NNPQ. Theo đó, NNPQ là một phương
thức tổ chức và vận hành quyền lực công cộng (tồn tại dưới hình thức nhà nước
và pháp luật), dựa trên sự đúc kết những kỹ năng hợp lý và tinh thần dân chủ
trong quản lý xã hội.
Cần phân biệt NNPQ với kiểu nhà nước. Về thực chất, kiểu nhà nước nhấn
mạnh đến bản chất chính trị của quyền lực công cộng trong mối liên hệ chặt chẽ và
biện chứng với giai cấp thống trị và với phương thức sản xuất xã hội. Trong khi đó,
NNPQ là phương thức tổ chức và vận hành quyền lực công cộng theo các nguyên tắc
tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; phục tùng tính tối cao của pháp luật; phân công
quyền năng; bảo vệ nhân quyền; dân chủ; công bằng. Đó là phương thức tổ chức nhà
nước và pháp luật sao cho những quyền lực công cộng ấy mang đúng bản chất của
dân, do dân và vì dân. Mặc dù giữa kiểu nhà nước và phương thức tổ chức nhà nước có
mối liên hệ hữu cơ, nhưng chúng vẫn có tính độc lập tương đối, để có thể coi như
hai đối tượng nghiên cứu chuyên biệt.
9
GS.TSKH Đào Trí Úc cho rằng “NNPQ đòi hỏi phải có sự thống nhất
giữa tính tối cao của pháp luật với hình thức pháp lý của tổ chức quyền lực
chính trị. Đó là hai yếu tố không thể thiếu được khi nói đến NNQP” [48].
PGS.TS Nguyễn Đăng Dung cho rằng: “NNPQ là một hình thức Nhà nước
được phân tích trong mối tương quan giữa Nhà nước và pháp luật. NNPQ thể
hiện tính dân chủ của nhân loại” [28].
Theo PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế, khái niệm về NNPQ có thể được thể
hiện trên những điểm cơ bản sau: NNPQ từ bản thân sự ra đời và sự hiện diện
trên thực tế đã cho thấy đây là những mô thức tổ chức nhà nước, là phương thức
tổ chức quyền lực nhà nước khoa học, hợp lý, kiểm soát lẫn nhau giữa các loại
cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, hoạt động trên cơ sở pháp luật, vai trò
tương xứng với năng lực, có hiệu quả; pháp luật là phương tiện điều chỉnh quan
trọng hàng đầu, pháp luật mang tính pháp lý cao, tính khách quan, nhân đạo,
công bằng, tất cả vì lợi ích của con người [39, tr 16-17].
Các định nghĩa trên đã khai thác bản chất của NNPQ, đề cập tới mối quan
hệ hữu cơ giữa Nhà nước với pháp luật và nhấn mạnh đến nguyên tắc “tôn trọng
tính tối cao của pháp luật về pháp chế”.
Các định nghĩa trên đều giúp cho việc tiếp cận tới học thuyết NNPQ ở
những khía cạnh khác nhau, song chưa bao quát được đầy đủ các đặc điểm cơ
bản của học thuyết này. Tuy nhiên, NNPQ vốn là một vấn đề khó, do vậy khó có
thể có sự lý giải thống nhất hoàn toàn về nó.
Tuy có các định nghĩa, lý giải khác nhau về NNPQ nhưng trên những nét
chính và ở những mức độ nhất định, những yếu tố hợp thành chế độ pháp quyền
được vận dụng tương đối nhất quán. Bởi vì NNPQ chỉ là hình thức tổ chức
quyền lực nhà nước giúp cho việc thực hiện những mục tiêu mang tính bản chất
10
của mỗi chế độ chính trị. NNPQ bản thân nó không phải là bản chất của bất kỳ
một Nhà nước nào.
1.1.1.2. Một số nội dung cơ bản được thừa nhận trong NNPQ
a, Đề cao vai trò của pháp luật
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Các cơ quan, tổ chức và mọi
công dân đều phải nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của pháp luật, nếu vi
phạm pháp luật thì đều bị xử lý. Đặc điểm này thể hiện quyền lực của pháp luật
và cũng từ quyền lực của pháp luật mà quyền của con người, quyền của công dân
được bảo đảm thực hiện tốt hơn. “NNQP là nhà nước bị hạn chế quyền lực, mà
phương tiện hạn chế của nhà nước này là các văn bản quy phạm pháp luật, đứng
đầu là bản hiến pháp” [29, tr. 88]. Trong trường hợp này, pháp luật là chuẩn
mực cho hoạt động của các cơ quan, tổ chức và mọi công dân, đồng thời là
chuẩn mực pháp lý cho việc phán xử hành động của các đối tượng này. Vì vậy,
hệ thống pháp luật phải hoàn chỉnh cả về nội dung lẫn hình thức. Trong hệ thống
pháp luật đó, Hiến pháp và các đạo luật của Quốc hội giữ vị trí cao nhất, là công
cụ chủ yếu để điều chỉnh các quan hệ xã hội và quản lý xã hội; cần hạn chế việc
ban hành văn bản dưới luật khi các đạo luật của Quốc hội thực hiện được vai trò
này.
b, Quyền con người, quyền công dân được đề cao và tôn trọng
Ghi nhận và bảo vệ quyền con người, quyền công dân là một nội dung rất
quan trọng của pháp luật trong xã hội hiện nay và cũng là một nội dung không
thể thiếu của thuật ngữ “pháp quyền”. Đặc điểm này làm cho tư tưởng về nhà
nước pháp quyền ngày nay khác với tư tưởng về nhà nước pháp luật trước đây,
đó là: chỉ đề cao vai trò, sức mạnh của pháp luật còn quyền con người bị coi nhẹ.
Thời đại ngày nay, quyền con người, quyền công dân mang đậm tính nhân văn
và nhân đạo, hướng tới vì con người và phục vụ con người.
11
c, Bảo đảm mối quan hệ trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân
- Nhà nước phải có trách nhiệm đối với công dân. Trách nhiệm của nhà
nước đối với công dân ngày càng lớn do quyền của công dân ngày càng được đề
cao và tôn trọng. Tuy nhiên, dù pháp luật đã quy định nhưng không có chủ thể
bảo đảm thực hiện thì các quyền đó cũng chỉ tồn tại trên giấy mà thôi. Do vậy,
nhà nước vừa là chủ thể làm ra pháp luật vừa phải có trách nhiệm bảo đảm cho
pháp luật được thực thi trên thực tế.
- Ngược lại, công dân trong xã hội pháp quyền không chỉ có quyền mà còn
phải có trách nhiệm đối với nhà nước. Trách nhiệm của công dân đối với nhà
nước là để bảo đảm hiệu lực quản lý của nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi để
nhà nước bảo đảm cho quyền của những công dân khác được thực hiện.
d, Tòa án phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà trong thực tiễn luôn còn hiện tượng
vi phạm pháp luật, xâm phạm đến vai trò của pháp luật, xâm hại đến quyền lợi
của công dân, nghĩa là ảnh hưởng đến cả hai khía cạnh của “pháp quyền”, làm
cho “pháp quyền” mất đi nội dung, ý nghĩa của nó. Do vậy, tòa án là thiết chế
không thể thiếu để bảo vệ sự nguyên vẹn của “pháp quyền”. Muốn thực hiện
được điều đó thì trong hoạt động xét xử, toà án không được chịu sự tác động của
bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào; đồng thời tòa án chỉ tuân theo những gì
pháp luật đã quy định.
1.1.2. Vai trò của pháp luật và hoạt động xây dựng pháp luật trong nhà nước
pháp quyền
Pháp luật có vị trí, vai trò quan trọng hàng đầu trong việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội trong NNPQ. Trong hệ thống pháp luật của NNPQ, các đạo luật
phải đóng vai trò chủ đạo, là hình thức chủ yếu của hệ thống pháp luật, các văn
bản dưới luật về nguyên tắc chỉ hướng dẫn thi hành luật, không được quy định
12
thêm về quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân là đối tượng điều chỉnh của đạo
luật. Sự thống trị của các đạo luật mang tính pháp quyền sẽ hạn chế được sự lạm
dụng quyền lực của các cơ quan nhà nước, bảo đảm quyền cơ bản của công dân,
trật tự chung của xã hội. Trong mối quan hệ giữa pháp luật với Nhà nước trong
NNPQ, quyền lực nhà nước phải được đặt dưới quyền lực pháp luật, pháp luật
đứng trên Nhà nước để điều tiết Nhà nước. Điều này được C.Mác lý giải trong
tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền Heghen” là do quyền lập
pháp là quyền thiết lập chế độ nhà nước nên nó cao hơn chế độ nhà nước. Một
nhà nước được hợp lý hoá phải được tổ chức trên cơ sở pháp lý do quyền lập
pháp thiết lập. Hiến pháp và các đạo luật tổ chức nên quyền lực công. Chính luật
Hiến pháp thiết lập nên chế độ nhà nước cho nên nó đứng trên Nhà nước, cao
hơn Nhà nước để ràng buộc quyền lực nhà nước. Một nhà nước không được tổ
chức và vận hành trong khuôn khổ của pháp luật là một nhà nước “đứng ngoài
vòng pháp luật”. Đây chính là những ý tưởng cốt lõi của một Nhà nước pháp
quyền. Trong một chế độ dân chủ, Nhà nước là do nhân dân thành lập ra. Quyền
lực của Nhà nước xuất phát từ nhân dân, do nhân dân trao cho [41, tr 8-14]. Mọi
hành vi của nhà nước đều không thể đi ngược lại lợi ích của những người đã tạo
ra nó, có nghĩa là ý chí của nhân dân phải cao hơn ý chí của nhà nước. Quyền lập
pháp được trao cho Quốc hội là người đại biểu của nhân dân, bản chất của lập
pháp là sự tự quy định của nhân dân nên luật pháp đứng cao hơn nhà nước, cũng
có nghĩa là ý chí của nhân dân đứng cao hơn ý chí của Nhà nước. Luật pháp ràng
buộc Nhà nước cũng có nghĩa là ý chí của nhân dân buộc Nhà nước phải phục
tùng. Tóm lại, chính vì pháp luật của NNPQ được xây dựng trong một chế độ
dân chủ đại diện cho ý chí của nhân dân nên pháp luật đó ràng buộc được Nhà
nước.
13
Theo PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế thì “Nhận diện NNPQ từ phương diện
lập pháp được thể hiện tập trung ở chất lượng, tính khoa học, nhân văn của các
sản phẩm lập pháp-các đạo luật pháp quyền và ở hiệu lực, hiệu quả của hoạt
động giám sát tối cao của Quốc hội” [39, tr. 18]. Để có được hệ thống pháp luật
đồng bộ, toàn diện, phù hợp với các điều kiện kinh tế-xã hội, đáp ứng những yêu
cầu, đòi hỏi của NNPQ thì vai trò của hoạt động xây dựng pháp luật nói chung
và hoạt động lập pháp nói riêng ở nước ta hiện nay có vai trò hết sức quan trọng.
Bởi vậy, "quy trình lập pháp được ví như công nghệ làm luật. Công nghệ cao thì
sản phẩm có chất lượng cao, công nghệ lạc hậu thì sản phẩm kém chất lượng"
[30].
Quy trình xây dựng luật và chất lượng của luật là hai mặt của một vấn đề,
chúng không thể tách rời nhau mà có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại
với nhau. Quy trình xây dựng luật là hình thức của hoạt động xây dựng luật, còn
chất lượng luật là phản ánh trung thực tính khoa học, hợp lý, hiệu quả của quy
trình xây dựng luật.
Hoạt động xây dựng luật là hoạt động phức tạp, đòi hỏi sự tham gia của
nhiều chủ thể. Nếu hoạt động xây dựng luật không tuân thủ theo quy trình xây
dựng luật thì sẽ dẫn đến tình trạng tuỳ tiện, thiếu thống nhất và sẽ ảnh hưởng rất
lớn tới chất lượng của các văn bản luật. Tính khoa học, tính pháp lý, tính dân chủ
của quy trình lập pháp không những nâng cao chất lượng của các đạo luật mà
còn là nhân tố bảo đảm cho công tác lập pháp được tiến hành thông suốt, hiệu
quả.
Mỗi giai đoạn trong quy trình xây dựng luật được tiến hành với nội dung,
nhiệm vụ khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại
và ảnh hưởng lẫn nhau nhằm đạt mục đích là ban hành một đạo luật có chất
lượng cả về nội dung và hình thức. Nâng cao hiệu quả của từng giai đoạn trong
14
quy trình xây dựng luật là vấn đề có ý nghĩa quyết định với chất lượng của mỗi
đạo luật. Tuy nhiên, ý nghĩa thực sự của quy trình xây dựng luật nói riêng cũng
như hoạt động xây dựng pháp luật nói chung không dừng lại ở việc cho ra đời
một văn bản luật, mà chính là tác dụng thiết thực của văn bản đó đối với xã hội.
Nói cách khác, chất lượng của luật không chỉ là kết quả mà còn là mục tiêu bao
trùm của quy trình xây dựng luật, là cơ sở đánh giá sự thành công của hoạt động
xây dựng pháp luật và thể hiện rõ trình độ lập pháp ở mỗi quốc gia.
Một quy trình lập pháp khoa học, hiệu quả là quy trình không chỉ giúp các
chủ thể có thể ban hành nhiều đạo luật hơn trong một thời gian hợp lý mà vẫn
đảm bảo chất lượng, thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, phản ánh
được điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và được thể hiện dưới hình thức thống
nhất của kỹ thuật lập pháp.
1.2. Hoạt động lập pháp và thẩm quyền của Chính phủ trong hoạt động xây
dựng các dự án luật
1.2.1. Khái niệm văn bản luật
Điều 1 Luật BHVBQPPL năm 1996 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002
định nghĩa: "Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự
chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
theo định hướng XHCN".
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bao gồm: Hiến pháp, luật, nghị
quyết do Quốc hội ban hành; pháp lênh, nghị quyết do UBTVQH ban hành; nghị
quyết, nghị định do Chính phủ ban hành; quyết định, chỉ thị do Thủ tướng Chính
phủ ban hành; quyết định, chỉ thị, thông tư do Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
ngang bộ ban hành; nghị quyết do Hội đồng Thẩm pháp Toà án nhân dân tối cao
ban hành; quyết định, chỉ thị, thông tư do Chánh án Toà án nhân dân tối cao,
15
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành; nghị quyết, thông tư liên
tịch do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc cùng với tổ chức
chính trị-xã hội ban hành; nghị quyết do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện,
cấp xã ban hành; quyết đinh, chỉ thị do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp
xã ban hành.
Văn bản luật là một loại văn bản nằm trong hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật nói trên. Theo quy định của Luật BHVBQPPL và Nghị định
161/2005/NĐ-CP (27/12/2005) quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật BHVBQPPL, văn bản luật có các đặc trưng sau đây:
- Do Quốc hội ban hành dưới hình thức là một đạo Luật;
- Theo trình tự, thủ tục do Luật BHVBQPPL quy định;
- Có chứa các quy tắc xử sự chung;
- Quy tắc xử sự chung được áp dụng nhiều lần đối với mọi đối tượng hoặc
một nhóm đối tượng, có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc hoặc từng địa phương;
- Quy tắc xử sự chung đó được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp như
tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, các biện pháp về tổ chức, hành chính, kinh
tế, trong trường hợp cần thiết thì Nhà nước áp dụng biện pháp cưỡng chế bắt
buộc thi hành đối với người có hành vi vi phạm.
Ngoài những dấu hiệu không thể thiếu nêu trên, văn bản luật còn khác văn
bản cá biệt ở những dấu hiệu về hình thức như cách ghi ký hiệu trong thể thức
của văn bản, ghi năm ban hành văn bản ở giữa số và ký hiệu văn bản.
1.2.2. Hoạt động lập pháp và vai trò của Chính phủ trong hoạt động xây dựng
dự án luật
Lập pháp, theo cách hiểu thông thường là chức năng xây dựng các Bộ luật,
đạo luật của Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam (chúng ta thường gặp cách nói và viết Quốc hội: lập hiến, lập
16
pháp); là sự xác lập vị trí tối cao của luật, mà tính hợp pháp của nó là ý chí của
nhân dân được phản ánh thông qua ý chí của Quốc hội. Quyền lực của Quốc hội
là biểu hiện tập trung nhất và cao nhất ý chí của nhân dân. Quốc hội thông qua
một dự luật là xác lập ý chí của nhân dân thành dự án luật. Theo quy định của
Hiến pháp 1992 (sửa đổi), UBTVQH (cơ quan thường trực của Quốc hội) cũng
có quyền "Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao" [8] và do đó, hoạt
động xây dựng pháp lệnh của UBTVQH cũng được hiểu là hoạt động lập pháp.
Trong phạm vi đề tài này chỉ nghiên cứu khái niệm lập pháp theo nghĩa hẹp,
được hiểu là chức năng xây dựng các dự án luật.
Theo Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan có quyền lập pháp. Có quan điểm
cho rằng theo quy định này, tất cả các hoạt động lập pháp có liên quan, từ việc
đưa ra sáng kiến lập pháp, soạn thảo, thông qua đều do Quốc hội thực hiện [29,
tr.510]. Quan điểm này đã tuyệt đối hoá vai trò làm luật của Quốc hội, không
nhận thấy sự chủ động tích cực của cơ quan hành pháp trong việc đề xuất các
sáng kiến và các chính sách lập pháp. Ngược lại, có quan điểm khác cho rằng
việc xây dựng các dự án luật thuộc trách nhiệm của Chính phủ, Quốc hội chỉ có
vai trò duy nhất là thông qua hay không thông qua luật của Chính phủ. Quan
điểm này lại quá đề cao vai trò của Chính phủ trong hoạt động xây dựng pháp
luật, trái với nguyên tắc Hiến định Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất và là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Phải khẳng định rằng
hoạt động lập pháp là một khái niệm rộng, bao gồm nhiều công đoạn và có sự
tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau. Và vì vậy, khi nói đến quy trình
lập pháp thì khái niệm này cũng cần phải được hiểu theo nghĩa rộng, bao trùm
toàn bộ quá trình của hoạt động lập pháp, của tất cả các cơ quan tham gia vào
hoạt động này với vai trò là cơ quan đưa ra sáng kiến lập pháp, cơ quan soạn
thảo, đệ trình, cơ quan thẩm tra hay xem xét và thông qua luật.
17
Theo quy định của Hiến pháp, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc
hội và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam. Trong hoạt động xây dựng dự án luật, Chính phủ với tư cách là một trong
những cơ quan được Hiến pháp trao quyền đưa ra sáng kiến lập pháp (quyền
trình dự án luật) là chủ thể có vai trò rất quan trọng trong việc tham gia hoạt
động lập pháp và là một mắt xích cơ bản của quy trình lập pháp.
Theo PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, “Chính phủ-hành pháp hành chính
nhà nước cao nhất là quyền trình dự án luật trước Quốc hội và ban hành văn
bản pháp quy” [29, tr. 513]. Là chủ thể quản lý các mặt đời sống kinh tế, xã hội
của đất nước, Chính phủ hơn ai hết là người nắm bắt sâu sát yêu cầu của thực
tiễn quản lý. Qua tổng kết thực tiễn, Chính phủ có thể đề xuất với Đảng, Quốc
hội những chủ trương, chính sách lớn về đổi mới kinh tế, xã hội, góp phần chủ
yếu vào việc hình thành các quan điểm, đường lối của Đảng, lãnh đạo công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước. Đồng thời, qua hoạt động quản lý, điều hành cũng
như thực thi pháp luật, Chính phủ có điều kiện đề xuất các sáng kiến
lập pháp và trực tiếp soan thảo kịp thời, có chất lượng những dự án đáp ứng yêu
cầu của thực tiễn để trình cơ quan lập pháp thông qua. Yêu cầu của việc kiên
quyết xoá bỏ những quy định mang nặng tính hành chính quan liêu, bao cấp, gây
phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân, nhanh chóng hình thành đồng bộ thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế càng đòi hỏi Chính phủ phải chủ động tham gia tích cực và sâu rộng hơn vào
công tác lập pháp.
Thực tiễn nói trên thể hiện rất sinh động mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất
giữa lập pháp và hành pháp trong phân công và phối hợp giữa các bộ phận của
quyền lực nhà nước ở nhà nước ta. Thông qua việc tham gia chủ động, tích cực,
và đóng vai trò quan trọng vào công tác lập pháp, Chính phủ với tư cách là cơ
18
quan hành pháp có thể tác động đến hoạt động lập pháp của Quốc hội trên nhiều
khía cạnh tích cực. Tiến độ công tác lập pháp của Quốc hội bị chi phối bởi nhu
cầu lập pháp của Chính phủ. Mặt khác, trong vai trò là người đề xuất sáng kiến
lập pháp và đồng thời là người trực tiếp soạn thảo, các dự luật do Chính phủ
trình Quốc hội thông qua có thể phản ánh sâu sát thực tiễn quản lý, đáp ứng được
các yêu cầu bức xúc của cuộc sống đang đặt ra, phù hợp với trình độ, khả năng
của bộ máy quản lý, và do đó tạo cơ sở tiền đề cho Chính phủ và hệ thống hành
chính thực hiện tốt các chức năng, thẩm quyền của mình trong quản lý, điều
hành đất nước.
Cũng chính vì thế, đa số các nước, ngay cả ở các nước phát triển, sáng
quyền lập pháp cũng chiếm tỉ lệ lớn từ phía Chính phủ. Đặc biệt, có quốc gia,
sáng quyền này được giao trực tiếp cho Chính phủ (Ví dụ tại Cộng hoà liên bang
Đức, các văn bản theo thẩm quyền của Chính phủ được Quốc hội giao trực tiếp
ban hành mà không cần báo cáo với Hạ viện hoặc Thượng viện, chỉ bị giám sát
bởi Quốc hội) [51, tr. 14] nhằm tạo "độ mở" quản lý các lĩnh vực kinh tế-văn hoá
cho Chính phủ (Hiến pháp Cộng hoà liên bang Đức 1949). Ở nước ta, do quyền
lực thống nhất tập trung vào nhân dân và có sự phân công, phối hợp chặt chẽ
giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nên việc ban hành văn bản quy
phạm pháp luật cũng chỉ là sự phân công hợp lý giữa ba hệ thống cơ quan nhà
nước. Thực tế là cho đến nay đa số (khoảng 90%) các dự án luật được trình Quốc
hội xem xét, thông qua là do Chính phủ chủ trì soạn thảo [35, tr. 24]. Đây là xu
hướng tất yếu, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của Chính phủ
và với thông lệ quốc tế. Nếu các dự án không phù hợp với thực tiễn điều hành
quản lý thì Chính phủ khó có thể thực hiện được vai trò của mình. Hơn nữa, để
bảo đảm tính độc lập tương đối, sáng quyền lập pháp của Chính phủ cần phải
được ghi nhận đậm nét hơn nữa trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật Việt Nam
19
về vai trò xây dựng pháp luật của Chính phủ theo hướng tạo thế chủ động cho
Chính phủ trong việc đề xuất cũng như thực hiện việc uỷ quyền lập pháp.
1.3. Hoạt động xây dựng dự án luật của Chính phủ
1.3.1. Một số nguyên tắc cơ bản trong hoạt động xây dựng dự án luật của
Chính phủ
1.3.1.1. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã
hội. Thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, đường lối, chính sách, nghị quyết
và chỉ thị của Đảng được thể chế hoá thành pháp luật, được đưa vào cuộc sống
một cách thống nhất. Do đó, trong hoạt động xây dựng pháp luật nói chung và
hoạt động xây dựng luật nói riêng không chỉ quán triệt nguyên tắc Đảng lãnh đạo
mà phải thể chế hoá kịp thời, đầy đủ đường lối chính sách của Đảng. Nội dung
các đạo luật không được trái với chủ trương đường lối, chính sách của Đảng.
1.3.1.2. Tính khách quan
Xây dựng pháp luật phải thể hiện được các nhu cầu và điều kiện khách
quan của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Để văn bản luật có chất lượng cao
đòi hỏi phải nghiên cứu, khảo sát kỹ lưỡng các quá trình xã hội đang diễn ra và
phát hiện được xu hướng vận động phát triển của chúng. Vì vậy, trong quá trình
xây dựng pháp luật nói chung cũng như xây dựng luật nói riêng cần phải thu hút
sự tham gia của đông đảo các nhà khoa học thuộc mọi lĩnh vực, đặc biệt là các
chuyên gia pháp luật cũng như sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân.
1.3.1.3. Nguyên tắc dân chủ hoá
Nguyên tắc này thể hiện mức độ, trình độ tham gia của nhân dân lao động,
các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội vào hoạt động xây dựng pháp luật với xu
hướng dân chủ hoá đời sống xã hội. Cần phải đề cao vai trò của các tầng lớp
nhân dân lao động, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức trong hoạt
20
động xây dựng pháp luật, đặc biệt là trong thảo luận, góp ý các dự thảo văn bản
pháp luật.
1.3.1.4. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế
Hoạt động xây dựng các dự án luật phải đúng thẩm quyền, tuân thủ
nghiêm ngặt trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Văn bản luật phải phù họp
với Hiến pháp, thống nhất với hệ thống các văn bản luật khác. Tính hợp hiến của
văn bản luật thể hiện ở chỗ các đạo luật không chỉ phù hợp với các quy định của
Hiến pháp mà còn phải phù hợp với tinh thần và các nguyên tắc của Hiến pháp,
bởi lẽ các quy phạm hiến pháp nói chung thường cô đọng, xúc tích, mang tính
định hướng và là nền tảng để các đạo luật của Quốc hội thể hiện chi tiết.
Hiện nay, cùng với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN, đổi mới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chúng ta tiến hành xây
dựng và hoàn thiện nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, trọng tâm là tiếp tục cải
cách nền hành chính nhà nước. Tình hình mới đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện hệ thống pháp luật cả về nội dung và hình thức, tăng cường sự điều
chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế,
tổ chức bộ máy nhà nước và các quyền công dân. Cùng với việc đẩy mạnh công
tác xây dựng pháp luật, việc thực hiện các nguyên tắc của quá trình sáng tạo
pháp luật càng phải được tuân thủ triệt để.
1.3.2. Quy định của pháp luật về hoạt động xây dựng dự án luật của Chính
phủ
Các văn bản pháp luật quy định về hoạt động xây dựng dự án luật của
Chính phủ được quy định tại Luật BHVBQPPL năm 1996, Luật sửa đổi bổ sung
một số điều của Luật BHVBQPPL năm 2002; Nghị định 161/NĐ-CP
(27/12/2005) quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật BHVBQPPL thay thế